CÕI BỒ ĐỀ VÀ NIẾT BẢN.
TÌNH HUYNH ĐỆ ĐẠI ĐỒNG.+SỰ CHẾT VÀ NHỮNG TRẠNG THÁI KẾ TIẾP.
CHƯƠNG VI.
CÕI BỒ ĐỀ VÀ NIẾT BẢN.
TÌNH HUYNH ĐỆ ĐẠI ĐỒNG.
CÕI BỒ ĐỀ
Ấy là cõi thứ tư của hệ thống chúng ta. Người ta cũng gọi nó là cõi Trực giác và đôi khi là cõi Tâm linh.
Ở cõi nầy, sự đối chọi vẫn còn nhưng không có sự chia rẽ. Về cõi nầy, Plotin nói : “mỗi vật cũng là mọi vật; ở đây mặt trời cũng là các ngôi sao . . . tất cả đều to lớn, vì cái nhỏ cũng rất lớn”. Cõi nầy vượt quá trí thông ninh con người.
Tuy nhiên, con người vẫn thấy rõ ràng mình vẫn là mình, nhưng anh thấy anh vẫn chứa đựng tất cả; như thế sự phân chia ở các cõi dưới là một điều sai lạc hoàn toàn.
Ở cõi thế, điều có thể cho ta một ý niệm về sự hòa hợp nầy là tâm trạng của hai người yêu mến, họ không còn phân biệt cái anh cái tôi
Thể Bồ Đề
Ấy là thể an lạc (thể Thái dương trong kinh Oupanishads), Thánh Paul nói không bàn tay nào xây dựng thể nầy. Nó phát triển nhờ tình thương vị tha, vô ngã, không đòi hỏi chi cho mình.
CÕI NIẾT BÀN
Ấy là cõi thứ ba của hệ thống chúng ta. Nó cũng được gọi là cõi Atma, cõi Tiên thiên khí, cõi Tâm linh hay cõi Siêu tâm linh. Đó là cõi của sự thực tại thuần túy. Tâm thức Niết Bàn là tâm thức của các Chơn Sư Minh triết khi các Ngài đạt được sự toàn thiện dành cho nhân loại. Khi tâm thức con người đạt đến cõi đó, người ta có cảm giác tất cả cõi nầy đều nằm trong tâm thức mình và tâm thức mình là trọn cõi đó.
Tâm thức nầy vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta. Do đó có người hiểu lầm Niết Bàn là sự trống rỗng. Thực sự thì Niết Bàn là quả tim của Vũ trụ.
TÌNH HUYNH ĐỆ ĐẠI ĐỒNG
Căn bản vững chắc của Tình Huynh Đệ Đại Đồng là cõi Bồ Đề và cõi Niết Bàn. Ấy là cõi của sự Đồng Nhất. Trái lại, Hạ trí có tánh cách chia rẽ giữa mình và người.
Danh từ Huynh Đệ hàm xúc sự đồng nhất về nòi giống (ấy là sự Sống Thiêng liêng) và sự bất đồng về sự tiến hóa (trong sự biểu lộ sự Sống). Vì thế có những linh hồn trẻ trung và những bậc tiền bối đã thành tiên thánh.
Dù được phủ nhận hay nhìn nhận, tình huynh đệ vẫn có. Nó hủy diệt những chi trái với nó. Vì vậy, không có một quốc gia nào tồn tại nếu không tôn trọng Tình Huynh Đệ. Sự nhìn nhận tình huynh đệ và các cố gắng thực hiện nó trong đời sống hằng ngày kích thích bản thể thanh cao con người đến đỗi nó được đặt thành mục đích bắt buộc của Hội Thông Thiên Học, một tín điều duy nhất mà ai ai cũng phải chấp nhận khi gia nhập Hội.
chú thich chương 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 cuối trang đâu trang
CHƯƠNG VII
SỰ CHẾT VÀ NHỮNG TRẠNG THÁI KẾ TIẾP.
I.- SƠ DẪN VÀ TỔNG QUÁT.
Trong tương lai, có một điều chắc chắn là chúng ta sẽ chết.
A.- CÁC Ý TƯỞNG SAI LẦM CẦN DỨT BỎ.
1/ Chết là hết
Các tôn giáo đều bác bỏ ý kiến chết là hết; các cuộc thí nghiệm Thần linh học và các sự nghiên cứu của Hội Siêu Hình đều chứng minh rằng sau khi chết, sự sống vẫn tiếp tục.
Con người là linh hồn, thân thể chỉ là chiếc áo. Chết là cởi bỏ chiếc áo quá cũ, và con người tiếp tục sống ở một cõi khác trong thể mới là thể vía; thể nầy được chúng ta sử dụng khi chúng ta rời bỏ thể xác trong giấc ngủ. Nên biết rằng giấc ngủ chẳng qua là một cái chết tạm và ngắn ngủi.
Sự chết là sự di chuyển từ một giai đoạn sống nầy sang một giai đoạn sống khác tế nhị hơn. Tuy không còn thể xác, con người vẫn y như trước, có khác chăng là anh không còn tiếp xúc được với những người xung quanh như trước. Chết là một sự kiện xảy ra cho ta đã biết bao lần. Kiếp sống của chúng ta ở quả địa cầu chẳng qua là một ngày của đời sống thật sự.
2/ Sự thay đổi toàn vẹn con người
Nhiều người tưởng rằng sau khi chết, con người thay đổi toàn diện. Đó là một điều sai lầm hoàn toàn; ngoại trừ thể xác, con người vẫn y như trước với các tánh tốt và xấu của anh.
Tuy nhiên, anh không còn đau đớn, mệt nhọc, đói khát, lạnh lẽo. Anh muốn đi đâu tùy thích. Nhưng anh không thể thỏa mãn các dục vọng của thể xác như ăn, uống, . . . và bị lửa của các thèm muốn nầy nung đốt cho đến khi nào mãnh lực của chúng nó tiêu tan.
Các nhà nghệ sĩ và trí thức chân chánh, một khi vứt bỏ xác thân thì sung sướng vượt bậc.
3/ Không thể hiểu biết sự việc bên kia cửa tử
Đó là một ý tưởng sai lầm không có ở thời xưa. Chúng ta tưởng những điều chúng ta không biết thì người xưa cũng dốt và các tổ tiên ta vì không biết vô tuyến điện nên cũng không thể biết các vấn đề tế nhị của linh hồn.
Chúng ta có hai phương tiện hiểu biết những việc bên kia của tử :
a.- Phương tiện Thần linh học : các vong linh cho biết nhiều việc xuyên qua đồng cốt. Phương tiện nầy dễ thực hành nhưng ít hiệu quả.
b.-Sự xuất vía : phương tiện nầy rất khó khăn nhưng rất công hiệu. Bà A. Besant nói : “ Tôi xác nhận con người có thể rời bỏ thể xác và trở lại thể xác một cách sáng suốt, ý thức” Khi rời bỏ thể xác chúng ta có thể thám hiểm những vùng chúng ta đến sau khi chết. Quan năng nầy còn ở trong trạng thái ẩn tàng nơi mọi người.
4/ Sự sợ chết
Khi ta hiểu được những điều xảy ra sau khi chết, chúng ta không còn sợ chết nữa. Nếu có chết là hình hài chết (chớ không phải sự sống) và hình hài có chết như vậy thì sự sống mới có thể tiếp tục tiến hóa ở một thể tinh vi hơn.
Vả lại, sự chết không có chi là đau đớn. Trái lại, chính nó chấm dứt mọi nỗi đau đớn
5/ Buồn đau vô lối
Các nỗi đau buồn của chúng ta là một sự lầm lạc và một điều tai hại cho những người quá vãng được bước sang qua một đời sống rộng rãi và sung sướng hơn. Chúng ta đừng hành động như những người ích kỷ chỉ biết có mình và hãy tập nghĩ đến hạnh phúc kẻ khác.
6/ Sự hối hận cuối cùng và sự đày đọa vĩnh viễn
Sự hối hận cuối cùng không thay đổi số phận con người tuy rằng những tư tưởng sau rốt có sự hữu ích của chúng nó như các tư tưởng của người sắp ngủ. Có một cách chuẩn bị sự chết là sống một cuộc đời hoàn hảo.
Ý niệm về một địa ngục vĩnh viễn sau một đời sống hữu hạn quả là trái với quan niệm thông thường. Thượng Đế không thể bất công và hung ác đến thế. Ý niệm nầy sai lầm và gây nhiều đau khổ vô ích. Trái lại, ý niệm về cõi Luyện tội rất đúng vì nó tái lập sự công bình với các hậu quả hạn định của những nguyên nhân hạn định.
B.- CÁC Ý TƯỞNG ĐÚNG CẦN BIẾT.
1/ Đời sống sau khi chết là kết quả của đời sống trần gian
Đây không có vấn đề hình phạt mà là hậu quả của những nguyên nhân đã tạo.
Nếu lúc sanh tiền, con người có những dục vọng nọ kia, dục vọng đó một khi được thỏa mãn thì trở nên mạnh mẽ, đồng thời các chất thô kịch được thu hút vào thể vía. Sau khi chết, dục vọng đó còn trở nên mạnh mẽ hơn trong thể vía. Chính nó đốt con người cho đến lúc nó hết sinh lực. Ngoài ra con người còn bị giữ trong cảnh tương ứng với thể chất của cái vía, anh phải mất nhiều thì giờ để vứt bỏ một chiếc áo, nghĩa là một chướng ngại vật do anh tạo ra.
Thế là con người chỉ hưởng những quả của những nhân y đã gieo.
Giống như phẩm hạnh của một người lúc thiếu thời quyết định điều kiện sinh sống vào tuổi già, đời sống ở cõi trần quyết định lối sống bên kia của tử.
2/ Ảnh hưởng của tuổi tác
Lẽ đương nhiên người nào lúc sanh tiền chế ngự được các dục vọng thấp hèn, thì các dục vọng nầy không thể hành hà anh sau khi chết.
Khi con người có tuổi, thể xác ít ham muốn, do đó, thể vía được thanh lọc phần nào sau khi chết. Trường hợp đau ốm cũng thế. Trái lại, khi con người chết trẻ, ham muốn của anh còn dồi dào, mạnh mẽ, do đó, anh phải lưu lại lâu ở cõi Trung giới và trong những cảnh nặng nề, ô trược.
Vì vậy các nhà hiền triết Đông phương khuyên những người có tuổi tác hãy sống một cuộc đời trầm lặng, cô liêu.
3/ Ảnh hưởng của một đời sống lâu ở cõi trần
a.- thuở thơ ấu là thời kỳ chuẩn bị không hữu ích thật sự cho Chơn ngã.
b.- một đời sống lâu, giúp Chơn nhơn gặt hái nhiều kinh nghiệm.
c.- như đã nói trên, một đời sống lâu ở cõi trần rút ngắn thời gian ở cõi Trung giới, nó còn giúp chúng ta sống lâu ở cõi Thiên đàng (cõi Thượng giới), nơi đây các kinh nghiệm sẽ chuyển thành phẩm hạnh hay quyền năng một cách vĩnh viễn.
C.- LINH TINH.
1/ Người chết thấy chúng ta không ?
Họ thấy dễ dàng thể vía chúng ta và do đó biết được các tình cảm và cảm xúc của chúng ta và những tư tưởng liên hệ. Họ không nghe được những lời nói của chúng ta.
Đối với họ, thời gian thức của chúng ta là ban đêm lúc ta ngủ, vì chỉ trong lúc ngủ, ta mới có thể tiếp xúc với họ bằng thể vía. Ban ngày, ta xa họ vì đa số nhơn loại không thể liên lạc với họ trong lúc thức
2/ Người chết ở xa hay ở gần ta ?
Lúc ban đầu họ vẫn ở chỗ cũ với bà con, anh em. Lần hồi, họ nhận thấy không ai nghe họ, thấy họ, nên họ hiểu được tình trạng mới của họ. Trong lúc đó, cũng có người đến chỉ dẫn họ về tình trạng nầy. Vì vậy, lần lần họ tách xa người trần để phiêu diêu lên các cõi trên.
3/ Người chết còn lo cho người sống chăng ?
Họ lo nhiều nhứt là khi con cháu họ nghèo túng, đau khổ. Nếu chúng ta chăm nom con cháu côi cút của họ, họ đỡ l
4/ Số phận của trẻ nít chết
Chúng nó rất sung sướng và không có cảm giác phân ly vì mỗi đêm chúng gặp cha mẹ trong giấc ngủ. Hơn nữa, chúng được tự do chơi giỡn với những đồ chơi mà tư tưởng của chúng tạo ra rất dễ dàng.
Các em sơ sinh lại tìm được dễ dàng một bà mẹ. Chúng cũng tái sinh mau lẹ và thường là trong gia đình cũ. Lễ rửa tội có sự hữu ích của nó, nhưng nếu không có, trẻ con cũng vẫn sung sướng như thường.
5/ Tiếp xúc với người chết
Phương cách thông thường là tiếp xúc với họ trong giấc ngủ : ta chỉ cần nghĩ đến họ nhiều trước khi ngủ. Ngoài ra còn có các phương cách của khoa Thần linh.
Theo lệ thường, ta không nên đem việc trần quấy rầy người chết vì chúng ta sẽ làm trở ngại sự tiến hóa của họ.
Đôi khi người quá vãng muốn người sống làm một vài việc quan trọng. Nếu được, chúng ta nên thực hiện ý muốn của họ để họ được an tâm.
6/ Sự chết là ngưỡng cửa của một đời sống cao hơn
Chết là bước vào một đời sống rộng rãi hơn. Đối với người Đông phương mơ mộng và huyền bí, họ thích thoát ra khỏi xác. Còn duy vật như người Tây phương thì trái lại.
II.- NHỮNG GIÂY PHÚT CUỐI CÙNG
VÀ SỰ THỨC TỈNH Ở CÕI TRUNG GIỚI.
Các sinh lực lúc trước phát ra ngoài nay hướng vào trong. Lần lần linh hồn thoát ra khỏi xác với thể phách cùng với prana và các khí lực khác. Hai chơn lạnh lần và linh hồn từ từ rút dần lên tim và thoát ra khỏi đỉnh đầu.
Phim đời
Trong lúc đó, cuộc đời của người hấp hối diễn lại đầy đủ từ chi tiết như một cuốn phim và anh chăm chú xem. Giây phút ấy rất quan trọng vì cuốn phim ấy sẽ cho anh biết đời sống của anh ở bên kia cửa tử như thế nào. Do vậy, ta phải kính trọng giây phút ấy và để anh yên và cũng vì vậy mà các tôn giáo đều khuyên cầu nguyện cho người hấp hối.
Sự việc nầy cũng xảy ra y như vậy cho những người chết đột ngột
Sự chết
Người hấp hối chết khi sợi từ điện liên kết thể xác và thể phách đứt. Anh ở trong một trạng thái vô thức êm ả. Rồi trễ lắm là 36 giờ sau, anh bỏ thể phách, để nó ở lại với thể xác và cũng tan rã với thể xác. Lúc đó con người thanh thản, mơ mộng gần như hôn mê.
Số phận của các thể
Vì mất sự sống, thể xác thô kệch lần lần tan rã thành từng phần, mỗi phần có một sự sống riêng. Thể xác không còn sống trong toàn thể, nhưng sống từ trong những thành phần tạo ra nó.
Thể phách vơ vẩn cạnh thể xác rồi lần lần tan rã. Xác người chết nên thiêu hơn là chôn để linh hồn rời bỏ nó dễ dàng và cũng vì vệ sinh chung cho người sống.
Bất đắc kỳ tử
Cái chết thình lình không tốt vì dục vọng con người còn ở thời kỳ thô bạo. Tuy nhiên, những ai đã sống một cuộc đời thanh khiết, họ sẽ được bảo vệ đặc biệt và sẽ an nghỉ êm đềm cho đến ngày cùng của đời sống bình thường của họ ở trần gian. Sau đó, mới bắt đầu đời sống ở Kamaloka [3].
Sát nhân
Kẻ sát nhân bị hành quyết vẫn tiếp tục sống lại cảnh án mạng với sự bắt bớ, giam cầm và hành quyết trong một thời gian rất lâu và hãi hùng. Ở bên kia cửa tử, y không nguôi giận và quyết trả thù. Thường thường, y còn giục người sống gây án mạng, nhứt là những người nhu nhược
Tự tử
Người tự tử khổ hay không là tùy nguyên nhân sự tự tử. Nếu anh tự tử để tránh một cảnh khốn khổ thì anh không sao trốn được. Ở bên kia cửa tử, anh sống lại cảnh khổ đó, cả cái lúc anh tự tử và giờ phút anh hấp hối. Và anh sống như vậy rất lâu.
Tai nạn
Người thanh cao an nghỉ êm đềm còn các người khác thì muốn trở lại trần gian hưởng các khoái lạc của cõi nầy. Họ có thể nhờ xác đồng bóng để thỏa mãn dục vọng nhưng ít khi được toại nguyện. Vì vậy, sau khi chết, họ sống như trong địa ngục.
Điên cuồng
Người điên không chịu trách nhiệm về sự tự tử của họ nên họ được bình an.
III.- KAMALOKA HAY CÕI LUYỆNTỘI.
Sau khi chết, các chất liệu của cái vía được sắp lại từ lớp, lớp nặng trược bên ngoài, lớp thanh nhẹ ở trong. Khi thức tỉnh, người chết chỉ có thể cảm xúc với ngoại cảnh bởi lớp bên ngoài mà thôi. Nên biết rằng các lớp nầy được tạo thành do các dục vọng của y ở trần gian.
Những bậc tu cao chỉ đi qua cõi luyện tội và không lưu lại đây. Họ chỉ thức tỉnh ở cõi Thiên đàng. Người thường thì thức tỉnh ở cõi tương ứng với dục vọng của họ ở cõi trần, và thời gian họ bị giam giữ tại cảnh nầy tùy sức mạnh của dục vọng.
Cảm xúc của thể vía
Thể vía cảm xúc bởi toàn thể lớp ngoài của nó. Trong một lúc nhứt định, nó chỉ cảm xúc được một cảnh của cõi Trung giới mà thôi. Vì vậy, người hiểu biết vấn đề nầy, không chịu để thể vía sắp xếp thành lớp nên cảm xúc được các cảnh giới cùng một lúc. Có được như thế, họ mới có thể thực hiện các sự cứu trợ vô hình.
Các cảnh của Kamaloka
Kamaloka có nghĩa là Dục giới. Đó là một phần của cõi Trung giới, phần mà người chết ý thức được. Như vậy Kamaloka không phải là một cõi riêng biệt.
Ở đó, không có những cuộc tra tấn đời đời mà chỉ có những đau khổ có tánh cách tạm thời và tinh luyện; nhờ vậy mà linh hồn trở nên nhẹ nhàng và siêu thoát lên cõi Thượng giới (cõi Thiên đàng). Dục giới cũng chia làm 7 cảnh tương ứng với 7 cảnh của Trung giới.
Tinh chất của dục vọng (élémental du désir)
Tinh chất nầy là tâm thức bẩm sinh và riêng biệt của thể vía. Nó muốn bảo vệ sự sống của nó nên chính nó sắp xếp cái vía thành lớp, với lớp rắn chắc bên ngoài
Sự giao tiếp với cõi trần
Thể trí luôn luôn hướng lên Thiên đàng nên kiểm soát cái vía mỗi lúc một ít; vì thế thể vía thường tìm cách tiếp xúc với cõi trần nên tạo nhiều quả báo xấu.
Vùng thứ 7 của Kamaloka hay địa ngục
Vùng nầy được các tôn giáo gọi là địa ngục. Không khí rất nặng nề, tối tăm, buồn thảm và dẫy đầy xú khí.
Ở cõi Trung giới, hình dáng biến đổi theo tánh tình nên những ai còn nhiều thú tánh có những hình thể xấu xa, nửa thú, nửa người. Chỉ lọt vào vùng nầy những ai can những tội nặng nề hay hoặc có những tật đê tiện. Dân cư của vùng nầy gồm toàn những cặn bả của nhơn loại.
Cũng có mặt nơi đây những kẻ mổ xẽ thú vật và những người tự tử để trốn hình phạt ở cõi trần.
Ở vùng u ám nầy, vong linh đi lang thang, lúc nào cũng oán giận, thù hằn, khao khát và ham muốn. Họ tụ tập quanh những tửu quán, ca lâu để xui giục khách hành động xấu xa, thô bạo và tìm cách ám ảnh họ.
Các đau khổ nói trên đều có tánh cách tạm thời và tinh luyện : nhờ có nó, con người học được một bài học. Bài học đó là có luật trời và ai phạm thì bị trừng phạt.
Cảnh giới thứ 6
Cảnh nầy tương tợ như cõi trần . Ấy là cảnh của những kẻ chỉ bận tâm với những việc nhỏ nhen của cõi trần : chuyện nhảm, bạc bài, quần áo, tiền bạc v.v. . . Họ thường bất mãn và buồn khổ vô cùng, và vì thế tìm cách tiếp xúc với người sống. Chính họ nhập vào đồng cốt ở các buổi hội họp thần linh công cộng để nói những chuyện vu vơ.
Cảnh giới thứ 4 và 5
Giống như cảnh thứ 6 nhưng nhẹ nhàng hơn; các linh hồn tiến hóa hơn và trầm mặc hơn
Cảnh giới thứ 3
Cảnh nầy chói sáng, nó chứng minh chữ astral [4] dùng để gọi cõi nầy. Ấy là cõi trời của nhiều tôn giáo. Người ta gặp ở đây những người mộ đạo hẹp lượng, những kẻ từ tâm vụng về. Ngôn ngữ còn là một chướng ngại ở vùng nầy. Những linh hồn dìu dắt trong các buổi cầu hồn thường phát xuất từ cảnh nầy.
Cảnh giới thứ nhì
Cảnh nầy tương tợ như cảnh thứ 3 nhưng tế nhị hơn. Các linh hồn ở cảnh nầy đều chờ đợi siêu thoát lên cõi cao hơn
Cảnh giới thứ nhứt
Ấy là cảnh của những nhà trí thức duy vật như các nhà bác học, chánh trị v. v. . . Ở đây, họ tiếp tục nghiên cứu các vấn đề thuộc phạm vi họ nơi các thư viện cõi Trung giới. Họ cũng cố gắng chuyển tư tưởng của họ cho các đồng nghiệp của họ ở cõi trần
Thời gian sống ở cõi Trung giới
Thường thường linh hồn lưu lại đây vài năm đến 4 – 50 năm. Tuy nhiên, những bậc tiến cao chỉ đi ngang qua trong vài giờ
Sự chết ở cõi Trung giới
Ngoại trừ những kẻ cặn bã phải trở lại cõi trần liền, các linh hồn khác một ngày kia sẽ bỏ thể vía và thức tỉnh trong một trạng thái an lạc cực độ, sự an lạc của cõi Thiên đàng.
Cái vía bây giờ chỉ còn là một cái xác chết, nhưng nhà phù thủy có thể chuyển cho nó sinh khí làm cho người ta tưởng nó sống.
Cái xác nầy cũng có thể rút giữ cho nó một ít chất thượng thanh khí của cái trí, khi dục vọng của nó quá mạnh. Linh hồn phải thu hồi chất khí nầy ở các kiếp sau một cách khó nhọc.
Khi linh hồn rời khỏi Kamaloka, nó thoát khỏi áp lực của cõi trần và cũng lánh xa giới đồng cốt.
IV.- DÉVAKHAN HAY CÕI THIÊN ĐÀNG.
Cõi Dévakhan (cõi Trời, Svarga, Soukhavati, Thiên đàng) là phần của cõi Thượng giới mà người chết ý thức được. Cõi 7 núi vàng nầy chia làm hai phần : phần trên có ba cảnh, phần dưới có bốn cảnh.
Ở cõi nầy, linh hồn an lạc khôn tả. Đâu đâu cũng là âm nhạc và màu sắc. Ở đây, các gương mặt mến yêu ở cõi trần cũng lần lần hiện ra vui vẻ, tươi cười.
Không vĩnh viễn
Không có địa ngục đời đời, cũng không có Thiên đàng vĩnh viễn, vì không một người nào có thể phát ra một động lực có khả năng tác động đời đời.
Mùa gặt ở Thiên đàng
Ở Thiên đàng các hột giống mà chúng ta gieo ở cõi trần sẽ đơm bông, trổ trái. Hột giống phải được gieo ở cõi trần dưới hình thức những cảm tình thanh cao, những tư tưởng vị tha, những cố gắng đạo đức, những hành động giúp đời. Không một cố gắng nào mất dù nhỏ đến đâu : cái chén dù nhỏ nhưng phúc lạc vẫn tràn đầy.
Thời gian ở cõi Thiên đàng
Linh hồn ở cõi Thiên đàng từ vài năm đến 1.500 – 2.000 năm. Phần lớn hạng cần lao ở đó lối 200 năm. Vả lại, đối với linh hồn ở đây, thời gian như không có.
Đa số linh hồn đều ở bốn cảnh giới dưới, chỉ những bậc tu cao mới lên ba cảnh giới trên và lưu lại đây lối 50 năm.
Một thí dụ
Ở Luân Đôn, trong một vùng bẩn thỉu, có một cô thợ may nghèo nhưng rất nhân từ. Khi trong vùng có những ai đau ốm, cô đến săn sóc tận tâm, khiến họ tri ân và cảm mến. Trong các người nầy, có một vài người chết và được lên Thiên đàng nhờ bản chất tâm linh của họ được kích thích bởi sự cảm mến, vị tha đối với người ân.
CÁC TƯ TƯỞNG CĂN BẢN
1.- Cường độ và thực tại của sự sống ở cõi Thiên đàng
Tư tưởng đầu tiên cần ghi nhớ là ở đây sự sống hùng dũng và gần sự thực hơn, vì hai màn hư ảo cõi Trung giới và cõi hồng trần đều không còn.
Vũ trụ và các hiện tượng của nó chỉ là hình dáng bên ngoài che đậy sự thật. Hình dáng ấy dày đặc vật chất bao nhiêu thì màn hư ảo càng nhiều, sự thật càng xa. Tuy nhiên, vật chất càng dày đặc càng hướng ra ngoài thì con người càng lưu tâm tìm kiếm sự thật bấy nhiêu. Nhưng cái họ tìm ra chỉ là hư ảo. Nếu ta so sánh ý nghĩ của người cha, người bạn, kẻ thù, vị hôn thê và một người quen biết tình cờ về một người nào đó thì ta thấy các ý nghĩ đó khác nhau. Sự khác biệt đó chỉ rằng chúng ta khó mà biết được sự thật.
Vì vậy, một vị Chơn Sư nói với bà Blavatsky : “Chúng ta gọi đời sống bên kia của tử là đời sống thật, còn đời sống trần gian là đời sống hư ảo.”
2.- Quyền năng sáng tạo của tư tưởng
Ở cõi Thượng giới, chất thượng thanh khí tượng hình với mỗi chuyển động của tư tưởng. Và ở đây vì không còn bị kềm chế bởi các hạ thể, tư tưởng phát biểu dễ dàng bằng hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nhờ vậy, mỗi người có thể tô điểm cảnh vật xung quanh tùy sự phong phú trí thức của mình và sống một cuộc đời luôn luôn đổi mới và kỳ diệu.
3.- Chúng ta sống với những kẻ ta thương yêu
Ở Thiên đàng, yếu tố qui tụ linh hồn là tình thương mến. Vì vậy, xung quanh ta chỉ có những kẻ ta mến yêu. Người thù không thể tiến gần ta được.
Ở trần gian, ta không biết rõ bạn ta. Trái lại, ở Thiên đàng chúng ta biết họ trọn vẹn vì ta đọc được tư tưởng của họ, ngoại trừ các tư tưởng quá cao đối với ta. Không bao giờ có sự hiểu lầm.
Ở cõi trần, đối với các bạn thân, ta giữ hình ảnh họ trong trí. Ở Thiên đàng, hình ảnh ấy hiện trước mắt ta bằng chất thượng thanh khí và sống động nhờ sinh lực của linh hồn bạn ta chuyển lên. Giữa bạn ta và hình ảnh nầy, luôn luôn có sự giao tiếp chặt chẽ. Nếu bạn ta tiến cao, anh sẽ biểu hiện ở hình ảnh do ta tạo nên bởi tình thương mến và nhờ đó, anh càng hưởng được nhiều khí lực yêu thương và linh hoạt mà ta chuyển vào hình ảnh đó.
Ở bên kia cửa tử, tình thương vẫn là một mãnh lực kỳ diệu có khả năng bảo vệ những kẻ ta mến yêu dầu người ấy xa cách ta trong không gian và thời gian.
4.- Sự chuyển biến kinh nghiệm thành quan năng
Thiên đàng không chỉ là một nơi an lạc. Ở đó, chúng ta còn đồng hóa những chi cao đẹp trong các kinh nghiệm mà ta đã thu hoạch được trong kiếp sống vừa qua ở cõi trần. Vì vậy, tất cả các kinh nghiệm đều được quan sát và suy gẫm cẩn thận để chuyển thành năng khiếu trí thức và đạo đức. Khi linh hồn đầu thai lại, con người sẽ có năng khiếu ấy mà người ta gọi là năng khiếu bẩm sinh.
Chỉ có Chơn nhơn nhớ rõ các kinh nghiệm đã trải qua, còn phàm nhơn thì không nhớ được và nhớ cũng không ích gì. Là vì tinh hoa kinh nghiệm đã chuyển thành năng khiếu thì chúng ta đương nhiên hưởng các năng khiếu đó.
Như thế, đời sống hiện tại đang xây dựng tâm trí tương lai của chúng ta ở kiếp sau. Người ta không thể phân chia đời sống thành những kiếp sống riêng biệt.
Trong mức tiến hóa hiện tại, chúng ta biết được tổng quát thế nào là điều thiện và điều ác, nhưng chúng ta còn cần nhiều kinh nghiệm để khai mở các năng khiếu và quyền năng để sự hiểu biết của chúng ta được đầy đủ và rõ ràng.
5.- Từ bỏ Thiên đàng
Chúng ta đã biết chúng ta cần phải lên Thiên đàng, nếu không sự tiến hóa sẽ bị chận đứng. Như vậy, sự từ bỏ Thiên đàng là một điều kiện đặc biệt dành cho người tiến cao, có khả năng đưa tâm thức lên cõi Thiên đàng ngay lúc họ sống ở cõi trần.
Những người đó đang được một Chơn sư chọn lọc làm đệ tử. Ngài chọn cho họ nơi nào và thì giờ nào họ sẽ tái sanh và khi tái sanh, họ vẫn giữ thể vía và thể trí cũ.
6.- Lên vùng Thượng Thiên
Khi các kinh nghiệm được biến chuyển thành năng khiếu, Chơn nhơn liền bỏ thể trí và sang qua vùng Thượng Thiên là quê hương thật sự. Ngoài trừ các bậc Thánh, chúng ta chỉ lưu lại đây một thời gian rất ngắn.
7.- Nhìn thấy kiếp sau
Khi giờ tái sanh đến, Chơn nhơn thấy lại quá khứ của mình và trọn kiếp sống tới. Kế một đám mây mù nổi lên che tứ phía và một kiếp sống mới bắt đầu.
CẢNH GIỚI CỦA CÕI THIÊN ĐÀNG
1.- Cảnh giới thứ 7 – Cõi Trời thứ nhứt
Đó là cõi trời của những người thấp kém chỉ biết thương yêu gia đình; tình yêu này thành thật, vị tha nhưng hẹp hòi.
Ở đây có nhiều người La Mã, người Anh và ít người Ấn Độ, lý do là tuy tất cả đều có tình thương vị tha nhưng tình thương của người La Mã và người Anh thì hạn chế trong gia đình còn tình thương của người Ấn thì hướng lên Đấng Chưởng giáo họ tôn thờ.
2.- Cảnh giới thứ 6 – Cõi trời thứ nhì
Đặc tính của cõi này là sự tôn sùng một Giáo chủ dưới hình dáng con người. Đấng Thiêng liêng hiện ra cho họ dưới hình dáng quen thuộc. Vì vậy ở đây, có nhiều tín đồ của Thiên Chúa giáo, của Vishnou và chiến sĩ của Đạo binh cứu rỗi.
3.- Cảnh giới thứ 5 – Cõi trời thứ ba
Đây cũng là cảnh giới sùng đạo nhưng lòng mộ đạo ở đây có tánh cách linh hoạt, xã hội và thương người. Các hoạt động của những nhà truyền giáo, của các nghệ sĩ vị tha đều biểu hiện tại đây.
4.- Cảnh giới thứ tư – Cõi trời thứ tư
Đặc điểm của cảnh nầy là lòng tận tụy đối với toàn thể nhân loại. Nó gồm bốn phần:
a/ Sự nghiên cứu vị tha các vấn đề tâm linh với các Chơn Sư minh triết. Ở đây người Ấn và Phật tử đông mà tín đồ Thiên Chúa giáo và Hồi giáo ít.
b/ Sự sưu tầm triết lý và khoa học trong mục đích cao cả và giúp đời.
c/ Các hoạt động văn chương và nghệ thuật với mục đích hướng thượng và tâm linh hóa nhơn loại. Ở đây, người ta gặp Mozart, Beethoven, Wagner, Bach, các họa sĩ, điêu khắc trứ danh v. v. . .
d/ Các hoạt động phụng sự. Động cơ của phụng sự phải là sự phúc lạc chớ không phải để làm vui lòng một vị thần linh nào.
5.- Cảnh giới thứ ba – Cõi trời thứ năm
Sáu chục triệu linh hồn đang tiến hóa đều lần lượt có mặt tại đây nhưng ít người thức tỉnh. Họ đến đây để thấy quá khứ và nhìn tương lai của kiếp sống sắp tới.
Ở đây các linh hồn tiến cao thu nhận chơn lý một cách trực tiếp, nhờ đó, khi họ xuống cõi trần, kiến thức và lòng tin của họ rất vững chắc và có tánh cách bẩm sinh.
6.- Cảnh giới thứ nhì – Cõi trời thứ sáu
Chỉ có một số ít linh hồn đến đây. Ấy là những linh hồn tiến cao, biết rõ quá khứ và ý thức được mục đích và diễn trình của sự tiến hóa. Phân biệt được điều lành việc dữ, họ cố gắng hướng dẫn phàm ngã theo các tư tưởng phù hạp với chơn lý, công bình và danh dự khiến con người không thể sống cuộc đời nghi hoặc hay tầm thường.
Linh hồn còn có thể tiếp xúc để học hỏi thêm với các vị Chưởng giáo.
7.- Cảnh giới thứ nhứt – Cõi trời thứ 7
Cảnh giới này là quê hương của các Chơn sư và các vị đã được điểm đạo, vì muốn đến đây điều kiện tất yếu là sự điểm đạo. Tâm thức của các vị ấy luôn luôn liên tục ở ba cõi dưới từ kiếp này sang kiếp khác. Còn kiếp sống của họ là một cuộc đời duy nhứt.
Chính ở cõi này mà các vị Chơn sư minh triết tác động trực tiếp đối với linh hồn nhơn loại để giúp vào sự tiến hóa chung.
Kết luận
Sự chết không bao giờ có, chỉ có sự thay đổi điều kiện sinh sống. Kinh Bhagavad Gita nói rất đúng : “Kẻ cư ngụ trong thế xác không sanh, không tử. Nó vô sanh, bất diệt và xa xưa; nó không chết khi thể xác bị hủy diệt. Không có cái chi đá động đến nó được”.
V.- CON ĐƯỜNG HÀNH HƯƠNG CỦA CON NGƯỜI TRONG 3 CÕI
Như chúng ta đã thấy ở trên, một kiếp người phải trải qua ba cõi : Hạ giới, Trung giới và Thượng giới. Đó quả là một cuộc hành hương.
Nguyên tử trường tồn
Trong thời kỳ nhập thế, Chơn thần chẳng những có tam thể thượng là Atma, Bouddhi, Manas mà còn liên kết với một đơn vị thượng giới của cảnh giới thứ tư, một nguyên tử trung giới và một nguyên tử hồng trần, ấy là tam thể hạ. Đơn vị và nguyên tử này có tính cách trường tồn và là trung tâm của ba thể : xác, vía và trí. Xuyên qua các kiếp, khi ba thể làm lượt tiêu tan, chúng nó vẫn hiện tồn và giữ gìn kết quả các kinh nghiệm thuộc mỗi thể, dưới hình thức quyền năng.
Một kiếp sống
Sau khi Chơn nhơn ôn lại dĩ vãng và nhìn rõ kiếp sống tương lai ở vùng Thượng Thiên thì kiếp sống mới bắt đầu. Sự sống khởi rung động và đơn vị thượng giới, như viên đá nam châm, thu hút ở cõi Thượng giới những chất đồng nhịp rung động với nó để đào tạo thể trí. Thể vía cũng được tạo thành như thế. Thể trí và thể vía tương tự thể trí và thể vía của kiếp trước còn thể xác thì tùy luật nhơn quả.
Phải đợi đến 7 tuổi thì Chơn nhơn mới bắt đầu hướng dẫn các thể. Kiếp sống bắt đầu hướng dẫn các thể. Kiếp sống bắt đầu ở cõi Trần, kế đó là cõi Luyện tội (Trung giới) và ở cõi Thiên đàng (Thượng giới). Sau cùng Chơn nhơn trở về quê của mình ở vùng Thượng Thiên (cõi Thượng giới), đến đây chấm dứt một kiếp người.
Phàm ngã
Phàm ngã gồm ba hạ thể vô thường với các hoạt động của chúng. Các hoạt động này được liên kết nhau bằng trí nhớ. Ý niệm về cái “ta” phát sanh từ sự đồng hóa của Chơn nhơn với các thể, nhứt là với thể nào hoạt động nhiều hơn hết, bắt đầu là thể xác.
Phàm ngã là một thực thể riêng biệt. Khuynh hướng của nó thường chống đối với các khuynh hướng của Chơn Nhơn.
Vả lại, mỗi thể được tạo thành bằng sinh vật nên bản năng của nó hướng về vật chất trái với khuynh hướng tâm linh của Chơn nhơn. Do đó mới có các chiến đấu nội tâm khiến thánh Paul than “Tôi làm những điều tôi không muốn làm”.
Chơn ngã
Đây là con người thật vô sanh, bất diệt. Chơn ngã là chúa tể của thể xác, phát xuất từ Chơn thần mà chu kỳ tiến hóa dài đến 4.320.000 năm.
Niết bàn
Dévakhan đối với một kiếp luân hồi như thế nào thì Niết bàn đối với toàn thể các kiếp luân hồi như thế đó. Nó không phải là sự tịch diệt mà là một sự vinh quang khôn tả.
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile