TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 3 của 7 Đầu tiênĐầu tiên 12345 ... CuốiCuối
Kết quả 11 đến 15 của 35

Chủ đề: Tổng hợp một số điển cố, điển tích, thành ngữ sưu tầm

  1. #11
    Ngày tham gia
    May 2014
    Bài viết
    1,098
    Xu
    1,592

    Mặc định


    56/ Giảo thố tam quật
    57/ Trúc Mai
    58/ Sư tử Hà Đông
    59/ Đông Sàng với thiếp Lan Đình.
    60/ Khúc trường tương tư




    Giảo thố tam quật

    "Giảo thố tam quật" nghĩa là "con thỏ khôn có ba ngách hang". Ý nói: thỏ có ba ngách hang để tránh cho khỏi bị chết; cũng như con người phải có trí mưu tự tồn.

    Câu này là do Phùng Huyên bày kế cho Mạnh Thường Quân.

    Sách cổ văn có chép:

    Phùng Huyên người nước Tề, đời Chiến Quốc (470-221 trước D.L.) làm thực khách ở cửa Mạnh Thường Quân là Tướng quốc nước Tề. Một hôm, Mạnh Thường Quân đưa sổ bộ ra hỏi các thực khách xem có người nào biết về việc kế toán, nhờ qua đất Tiết, là phong ấp của Thường Quân, để thu các mối nợ, thì xin ký tên vào sổ. Phùng Huyên nhận sổ ký tên. Thường Quân lấy làm lạ hỏi tên họ người ký là ai? Kẻ tả hữu đáp:

    - Đó là người thường ca câu "trường hiệp quy lai".

    "Trường hiệp" là cán gươm dài, "quy lai" là đi về. Nguyên trước khi ấy, họ Phùng có ba lần ca.

    Lần thứ nhất là:

    "Ở đây không có cá, nên mang gươm dài đi về".

    Lần thứ hai ca:

    "Ở đây không có xe, nên mang gươm dài đi về".

    Lần thứ ba ca:

    "Ở đây không có nhà cho cha mẹ ở, nên mang gươm dài đi về".

    Họ Mạnh cười, ân hận lỗi mình đã bạc đãi họ Phùng, nên cho người mời Phùng đến tạ:

    - Văn này chìm đắm trong công việc quốc gia rất mỏi mệt, lòng lo rối loạn mà tính lại ngu đần, không rảnh gặp mặt, xin tạ tội cùng tiên sinh. Tiên sinh đã không lấy làm hổ thẹn, nay lại có ý muốn vì tôi đi thu nợ ở đất Tiết chăng?

    Phùng thưa:

    - Huyên nguyện đi.

    Khi ra đi, họ Phùng hỏi: thu nợ xong rồi có cần mua vật gì? Mạnh bảo: xem trong nhà còn thiếu vật gì thì cứ mua về.
    Phùng Huyên đến đất Tiết, cho người thuộc lại mời tất cả những người thiếu nợ đến đông đủ, rồi truyền rằng Mạnh Tướng quốc ra lịnh xóa bỏ tất cả số nợ. Và, để cho mọi người tin tưởng, Phùng đem đốt hết những văn khế nợ. Dân đất Tiết vui mừng, tung hô vạn tuế.

    Khi họ Phùng trở về, Thường Quân lấy làm lạ cho là đòi nợ cách gì mà mau chóng thế, mới hỏi:

    - Thu nợ xong phải không?

    - Thu xong cả.

    - Có mua gì về không?

    - Khi đi, Tướng công có bảo: nên mua những vật gì trong nhà còn thiếu. Tôi trộm nghĩ trong bụng Tướng công chất chứa những đồ trân bảo, ngoài chuồng nuôi đầy chó ngựa, nhà sau la liệt những mỹ nhân, vậy vật mà Tướng công còn thiếu, chưa có là điều Nghĩa, nên tôi trộm lịnh mua điều Nghĩa đem về.

    Thường Quân ngạc nhiên hỏi:

    - Mua điều nghĩa thế nào?

    Họ Phùng đáp:

    - Tướng công nguyên trước được phong cho thực ấp ở đất Tiết là đất nhỏ mọn, mà không lo vỗ về thương yêu dân, lại còn mưu toan làm lợi. Vì vậy, tôi trộm lịnh xóa cho tất cả các con nợ, nhân đó thiêu hủy cả văn khế, được dân chúng vui mừng tung hô vạn tuế. Ấy là tôi vì Tướng công mua được điều nghĩa vậy.

    Thường Quân nghe nói không bằng lòng, nhưng phải bỏ qua.

    Một năm sau, vua Tề không dùng Mạnh làm Tướng quốc nữa, phải về đất Tiết ở. Bấy giờ bá tính đất Tiết, trai gái già trẻ đua nhau đến đón rước giữa đường, hoan hô nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh quay lại Phùng Huyên mà bảo rằng:

    - Tiên sinh vì Văn này mua điều nghĩa, ngày nay Văn mới trông thấy.

    Phùng thưa:

    - "Con thỏ khôn có ba cái ngách hang mới khỏi chết", nay Tướng công mới có một ngách hang, chưa được dựa gối nằm yên, tôi xin vì Tướng công đào thêm hai ngách nữa.

    Mạnh nghe nói, liền ban 50 cỗ xe và 50 cân vàng để họ Phùng hoạt động. Họ Phùng liền tây du nước Lương, bảo vua Huệ Vương nước Lương rằng:

    - Được người hiền thì nước mạnh, bỏ người hiền thì nước yếu. Nước Tề nay bỏ Mạnh Thường Quân, nếu Lương dùng làm tướng thì Mạnh Thường Quân sẽ đem những việc khả dĩ làm lợi cho Tề được mà làm lợi cho Lương. Như vậy, Lương sẽ hùng mạnh mà Tề nguy mất.

    Lương Huệ Vương bằng lòng khiến sứ giả dem 1000 cân vàng và 100 cỗ xe qua mời Thường Quân. Giữa lúc ấy, Phùng lại sang Tề, vào yết kiến Tề Mân Vương bảo:

    - Được người hiền thì nước mạnh, bỏ người hiền thì nước yếu. Nay Tề bỏ Mạnh Thường Quân, nếu nước Lương hay một nước nào khác dùng làm tướng thì Mạnh Thường Quân sẽ đem những việc khả dĩ làm lợi được cho Tề mà làm lợi cho nước khác. Như vậy, nước khác sẽ hùng mạnh. Huống chi Mạnh trước kia ở Tề, những việc bí mật của Tề, Mạnh đều hiểu biết, như vậy dù muốn dù không Mạnh cũng dựa theo đó mà làm nguy Tề.

    Mân Vương ngoài miệng tuy khen phải nhưng lòng còn do dự. Bỗng có quân báo nước Lương đương cho xe ngựa đi rước Mạnh Thường Quân về làm Tướng quốc, nên lập tức sai quan Thái Phó đem 1000 cân vàng và văn xa tứ mã (xe có vẽ vời và gác 4 ngựa) cùng một bảo kiếm, một phong thư đến xin lỗi Thường Quân và xin mời về làm tướng như cũ.

    Sau khi vua Tề tái dụng Thường Quân, Phùng Huyên lại khuyên Mạnh nên thỉnh cầu cho đủ những đồ tế khí của tiên vương và xin lập nhà tôn miếu ở đất Tiết. Vì Mạnh vốn là dòng dõi của vua Uy Vương nước Tề, xong lập tôn miếu ở đất Tiết để thờ tiên vương làm căn bản vững vàng, sau này nước Tề chẳng những không dám đoạt đất Tiết, mà phải cứu trợ một khi đất Tiết bị nước khác xâm lăng.

    Vua Tề không hiểu được mẹo của Phùng Huyên nên bằng lòng cho Mạnh thiết lập tôn miếu ở đất Tiết. Khi ấy họ Phùng bảo Mạnh:

    - Ngày nay ba ngách hang đã đào xong, Tướng công có thể dựa gối cao mà nằm được yên vậy.

    Mạnh Thường Quân làm Tướng quốc hơn vài mươi năm, không xảy ra chút mảy tai họa gì là nhờ mưu kế "Giảo thố tam quật" của Phùng Huyên.

    "Ba ngách hang" của Phùng Huyên là: mua nghĩa, lập kế cho vua Tề tái dụng làm tướng, lập tôn miếu ở đất Tiết.

    Thành ngữ "Giảo thố tam quật" chỉ con người cần phải có trí mưu để tạo nhiều điều kiện, nhiều phương tiện mới tự tồn được.

    Trúc mai

    Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả lúc nàng Kiều bán mình chuộc cha, đành lỗi ước với Kim Trọng, nàng than thở có câu:

    Tái sinh chưa dứt hương thề,
    Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai.


    Và, đoạn diễn tả cảnh của Kiều lúc sống đầm ấm với Thúc Sinh:

    Một nhà xum họp trúc mai,
    Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông.



    "Trúc mai" là cây trúc và cây bương.

    Trúc thuộc một loại tre nhỏ. Bương là một giống tre to ở rừng. Lá to có thể dùng gói bánh. Thân to dùng làm cột nhà. Cây bương già có hoa, gần giống bông lau nhưng dài hơn, người ta gọi là bông mai, thường bó làm chổi, gọi là chổi bông mai. Mai này không phải cây mơ, nở hoa trắng về mùa xuân.

    Măng bương to và mập, người ta gọi là măng mai. Trong ca dao "Lính thú ngày xưa" có câu:

    Miệng ăn măng trúc măng mai,
    Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng.



    "Trúc mai" ở đây chỉ người bạn tình chung thủy. Vì trúc và mai là giống cây có đốt thẳng lóng ngay (tiết thẳng); và suốt đời không thay đổi đốt, lóng ấỵ Người ta mượn "trúc mai" để chỉ người bạn suốt đời, giữ được trọn tiết (tiết nghĩa đen là đốt, như đốt trúc), không thay lòng đổi dạ, không nghĩ quanh co (tre bao giờ cũng thẳng) tức là người giữ trọn được lời thề.

    Hai người thề bồi với nhau, người này không giữ được lời thề, tức là mang nợ (lời thền) với người kia. Và, theo thuyết luân hồi của đạo Phật: người mắc nợ kiếp này thì kiếp sau phải làm trâu ngựa để trả cái nợ cho người chủ nợ, như thế là tức là người giữ trọn lời thề.

    Hình dung bằng cây trúc, cây mai là những người trọn đời giữ vững lòng ngay tiết thẳng.

    Nhưng "Trúc mai" còn có một nghĩa khác hơn.

    Đây không phải là cây tre và cây mơ (bamboo et abricotier), cũng không phải là cây tre và cây bương. Mà chính do tiếng "Mai trúc" đảo ngược. Nghĩa là Tre làm mai mối.

    "Mai trúc" do điển tích chép trong sách "Lưỡng ban thu vũ am tùy bút":

    Ở cửa sông Liêu Khê, huyện Long Môn, tỉnh Quảng Đông có một cái đầm (hồ), tên là "Đỗ Phụ đàm" (nghĩa là đầm đánh đố được vợ).

    Tương truyền ngày xưa có một cậu và một cô bé trạc tuổi nhau, thường ngồi chơi bên mé đầm. Hai trẻ rất thân. Một hôm cả hai bảo nhau:

    - Chúng ta bây giờ chơi thân nhau nhưng không biết có được thân với nhau mãi chăng? Đây rồi khi lớn lên, kẻ nơi người ngả.

    Hai trẻ đều buồn. Nhưng rồi lại nghĩ ra một cách đánh đố nhau, chẻ một lóng tre ra làm đôi, mỗi người cầm một mảnh liệng xuống giòng nước, nguyền với nhau rằng: hễ hai thanh tre ấy mà trôi khép lại làm một thì hai bên kết làm vợ chồng. Có thế mối tình thân mật, gần gũi nhau được mãi mãi.

    Cả hai thực hành, quả nhiên hai mảnh tre trôi xuôi và khép liền nhau như lóng tre chưa chẻ.

    Thế là cô cậu lấy nhau làm vợ chồng. Và, đầm ấy có tên là "Đỗ Phụ đàm". Giống tre mọc ở trên bờ đầm gọi là "Mai trúc" nghĩa là giống tre làm mai mối.

    Đời Thanh (1644-1909), thi hào Khuất Ông Sơn có thơ vịnh trúc mai:

    Một đôi thanh trúc khép như in
    Thanh trúc xe nên duyên bách niên.
    Mai trúc trên đầm nay vẫn tốt,
    Rườm rà cành nhánh cháu con hiền.


    (Bản dịch của Vân Hạc Lê Văn Hòe.)


    Nguyên văn:

    Lưỡng biên sinh trúc hợp vô ngần,
    Sinh trúc năng thành phu phụ ân.
    Đàm thượng chí kim mai trúc mỹ,
    Chi chi từ hiếu cánh đa tôn.



    "Một nhà xum họp trúc mai" là mai trúc ở chung nhau tức là vợ chồng xum họp, căn cứ vào điển cố trên.

    Hà Đông sư tử

    Trần Tạo tự Quý Thường, người đời nhà Tống, quê ở Vĩnh Gia. Vợ của Trần họ Liễu vốn có tính ghen dữ ghê gớm. Quý Thường rất sợ vợ nhưng rất có lòng tôn sùng đạo Phật. Hằng ngày ngồi đọc kinh, vợ lấy làm bực, la hét om sòm, nhưng Trần vẫn điềm nhiên, không dám cự một tiếng.

    Tính của Trần cũng hào hoa, bằng hữu nhiều, nên ở nhà thường có yến tiệc. Để tăng phần hứng thú, long trọng của buổi tiệc, Trần chiều khách, mời kỹ nữ xướng ca. Liễu Thị trong phòng mượn điều này, điều nọ, quát tháo om sòm. Trần có lúc hốt hoảng, cầm gậy nơi tay bỏ rơi mất gậy. Bạn thân của Trần là Tô Đông Pha, nhân đó làm một bài thơ đùa cợt:

    Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền,
    Đàm không thuyết pháp dạ bất miên.
    Hốt văn Hà Đông sư tử hống,
    Trụ trượng lạc thủ tâm mang nhiên.


    Tạm dịch:

    Ai hiền bằng thầy đồ Long Khâu,
    Đọc kinh thuyết pháp suốt đêm thâu,
    Bỗng nghe sư tử Hà Đông rống,
    Kinh hoàng bỏ gậy rớt nơi đâu.


    "Hà Đông sư tử" chỉ người đàn bà ghen dữ tợn.

    Tô Đông Pha dùng hai tiếng "Hà Đông" là mượn câu thơ của Đỗ Phủ: "Hà Đông nữ nhi thân tính Liễu" (cô gái Hà Đông người họ Liễu) vì vợ của Quý Thường cũng họ Liễu. Và tiếng "Sư tử" do lời trong kinh Phật: sư tử là chúa loài thú, mỗi khi rống lên thì các thú vật đều khiếp đảm để vừa chỉ tính ghen dữ của Liễu Thị, vừa chỉ Quý Thường là một tín đồ đạo Phật.

    Tú Xương trong bài thơ vịnh cảnh lấy lẽ, có câu:

    Hậu hạ đã cam phiền cát lũy,
    Nhặt khoan còn ỏi tiếng Hà Đông.


    Đông sàng với thiếp Lan Đình

    Đời nhà Tấn (265-419) có quan Thái Úy tên Khước Giám muốn chọn một người rể hiền, mới cho người đến trường của Vương Đạo xem trong đám học sinh, có người nào xứng đáng không.

    Lúc người nhà trở về, Khước Giám hỏi thì người ấy đáp:

    - Học sinh giỏi thì đông, người nào nghe việc kén rể cũng sửa soạn áo quần bảnh bao, ganh đua nhau, ra dáng nề nếp; chỉ có một người không để ý đến, trật áo, tréo chân nằm ở giường phía đông.

    Khước Giám bảo:

    - Người ấy mới thật đáng rể ta.

    Đoạn chọn làm rể. Người đó là Vương Hy Chi, sau làm quan đến chức Hữu quân, có tài viết chữ đẹp hơn cả thiên hạ.

    "Đông sàng" là giường phía đông, chỉ người rể quý, "rể đông sàng".

    Trong "Nhị độ mai" có câu:

    "Có Tây Tử Đô, thiếu đông sàng nào" là do điển tích trên.

    Vương Hy Chi, tự Dật Thiếu. Vì làm quan đến chức Hữu quân nên thường gọi là Vương Hữu Quân. Tương truyền Vương tập viết chữ bên bờ ao, sau nước ao đen ngòm những mực.

    Lối chữ "Khải" của Vương được người đời cho là lối chữ đẹp nhất từ xưa đến nay.

    Người đời thường khen bút thế của Vương "lướt như mây bay, mạnh như rắn lộn". Trong các bản bút thiếp của Vương để lại có bản "Lan Đình tập tự" viết ngày 3 tháng 3 năm Vĩnh Hòa thứ 9 đời nhà Tấn (337) được hậu thế quý trọng, cho làm mẫu mực để tập theo. Những bản "Lan Đình tập tự" có lưu hành nhưng có lẽ đó là những bản phỏng theo. Bản chính đã thất lạc từ sau đời nhà Đường (618-907).

    Ngày nay, trong các lối chữ Hán có lối chữ "Lan Đình"; đó tức là lối chữ phỏng theo chữ viết của Vương Hy Chi trong "Lan đình tập tự".

    Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du, đoạn nói về Kiều bị Hoạn Thư cho ra tu ở Quán Âm các để chép kinh, Hoạn Thư khen chữ viết của Kiều, có câu:

    Khen rằng: "Bút pháp đã tinh
    So vào với thiếp Lan Đình nào thua!

    Ý nói chữ viết tốt ngang với chữ của Vương Hy Chi.

    Khúc trường tương tư


    Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý (905-955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có nàng Ý Nương, con gái của Lương công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ. Ở trọ nhà có chàng Lý Sinh, một hàn sĩ mỹ mạo tuấn tú.

    Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưởng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai thường tìm cách lui tới.

    Lương công biết được, tức giận đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau đớn, từ đó sinh ra bịnh tương tư triền miên, mới làm bài khúc "Trường tương tư" mong gởi nguồn tâm sự cho người yêu biết. Trong bài có những câu rất lâm ly ai oán:


    Người ta bảo sông Tương rất sâu,
    Nhưng chưa bằng nguồn tương tư
    Sông sâu còn có đáy,
    Tương tư không bờ bến.
    Chàng ở đầu sông Tương,
    Thiếp ở cuối sông Tương.
    Tương tư không gặp mặt,
    Cùng uống nước sông Tương.
    Hồn mơ bay chẳng tới
    Chỉ thiếu một điều chết.
    Ta vào cửa tương tư,
    Mới biết tương tư đau khổ!



    Nguyên văn:


    Nhân đạo Tương Giang thâm,
    Vị để tương tư bán.
    Giang thâm chung hữu để;
    Tương tư vô biên ngạn.
    Quân tại Tương Giang đầu,
    Thiếp tại Tương Giang vĩ.
    Tương tư bất tương kiến,
    Đồng ẩm Tương Giang thủỵ
    Mộng hồn phi bất đáo,
    Sở khiếm duy nhất tử.
    Nhập ngã tương tư môn,
    Tri ngã tương tư khổ!



    Lý Sinh tiếp được, đọc xong, cảm xót vô cùng, đầm đìa nước mắt. Chàng chạy nhờ mai mối đến năn nỉ với Lương ông, kể lể mối tình đầu, xin hỏi nàng làm vợ. Ông trước còn dùng dằng, sau đọc được khúc "Trường tương tư" của con, lấy làm cảm động nên đành vui lòng cho Sinh thành mối lương duyên.

    Trong "Đoạn trường tân thanh" có câu:

    Sông Tương một giải nông sờ,
    Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.



    Và trong "Chinh phụ ngâm", bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm cũng có câu:

    Chốn Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại,
    Bến Tiêu Tương, thiếp hãy trông sang...



    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi Ngọc Kỳ Lân, ngày 10-05-2015 lúc 01:25.
    ---QC---

    ꧁༺Tương Tư Vị Liễu༻꧂
    ┊  ┊  ┊  ┊
    ┊  ┊  ┊  ★
    ┊  ┊  ☆
    ┊  ★


  2. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    unu,
  3. #12
    Ngày tham gia
    May 2014
    Bài viết
    1,098
    Xu
    1,592

    Mặc định

    61/ Đổi mỹ nhân lấy ngựa
    62/ Trường môn phú
    63/ Lam Kiều
    64/ Đào yêu
    65/ Động đào nguyên




    Đổi mỹ nhân lấy ngựa

    Tô Đông Pha là một thi hào danh tiếng đời nhà Tống (950-1275). Ông có một cô hầu tuyệt đẹp tên Xuân Nương. Vì bất đồng ý kiến với Tể tướng Vương An Thạch nên bị nhà vua trích đi Hoàng Châu.

    Lúc sắp lên đường, có người bạn làm chức quan Vận sứ họ Tưởng đến nhà Tô chơi để tiễn biệt.

    Tô Đông Pha bảo Xuân Nương ra mời khách uống vài chén rượu, cảm khái biệt ly. Thấy Xuân Nương đẹp như tiên nga, họ Tưởng giựt mình hỏi:

    - Cô bé này có đi theo bác không?

    Tô bảo là Xuân Nương không muốn đi theo vì đường sá xa xôi khó nhọc nên xin trở về nhà nàng. Nhân đó, họ Tưởng nói:

    - Vậy thì bác cho phép tôi đem con ngựa bạch tuyệt hay để đổi lấy cô Xuân được không?

    Đông Pha ưng chịu.

    Họ Tưởng lấy làm khoan khoái vô cùng, liền ứng khẩu làm bài thơ tứ tuyệt:


    Tiếc gì con ngựa đẹp như mây,
    Ơn bác cho tôi đổi gái này,
    Giờ mất nhạt vàng rung bóng nguyệt,
    Nhưng thêm má phấn bạn làng say.

    Nguyên văn:

    Bất tích sương mao võ tuyết đề,
    Đẳng nhân phân phó tặng nga mi.
    Tuy vô kim nặc tê minh nguyệt,
    Khước hữu giai nhân bỗng ngọc bì.

    Tô Đông Pha cũng ứng khẩu đáp lại:

    Cô Xuân đi vậy cũng xa xăm,
    Dầu chẳng kêu ca chớ giận ngầm.
    Vì nỗi non sông nhiều hiểm trở,
    Đổi người lấy ngựa phải đành tâm.

    Nguyên văn:

    Xuân Nương thử khứ thái thông thông,
    Bất cảm đề thanh tại hận trung.
    Chỉ vị sơn hành đa hiểm trở,
    Cố tương hồng phấn hoán truy phong.


    Xuân Nương nghe hai người đối đáp nhau và có một hành động khinh thường nàng như thế nên bực tức, đĩnh đạc nói:

    - Tôi nghe ngày xưa vua Tề Cảnh Công muốn chém tên giữ chuồng ngựa mà Yến Tử cản ngăn. Chuồng ngựa nhà mình cháy, Khổng Phu Tử chỉ hỏi thăm có ai chết không, chớ không hỏi ngựa chết mất còn. Ấy là người ta quý người khinh vật. Nay học sĩ đem người đổi lấy ngựa, thì ra quý vật mà khinh người.

    Đoạn, Xuân Nương cũng ứng khẩu làm một bài thơ:

    Chém cha cái kiếp của đàn bà,
    Khổ sướng trăm bề há bởi ta.
    Giờ mới biết người thua giống vậy,
    Sống làm chi nữa trách ai mà.

    Nguyên văn:

    Vi nhân mạc tác vị nhân thân,
    Bá ban khổ lạc do tha nhân.
    Kim nhật thủy tri nhân tiện súc,
    Thử sinh cẩn hoạt oán thùy sân.

    Đọc xong, nàng vội lao mình ra sân đập đầu vào cây mà chết.

    Thấy thân xác nàng quằn quại trên vũng máu đào bên cội cây, cả hai vô cùng hối hận, nhìn nhau ngậm ngùi, nhỏ lệ. Nhưng đã muộn rồi

    Trường môn phú

    Tư Mã Tương Như tự Tràng Khanh, người đất Thục đời Tiền Hán (206 trước D.L.-8 sau D.L.), rất đa tài, văn hay, đàn giỏi.

    Ông nổi tiếng nhất về phú.

    Nguyên Trần hoàng hậu bị vua Hán Vũ đế ghét bỏ đày ra Trường Môn. Sống lẻ loi trong thâm cung, nàng lấy làm đau đớn cho thân phận. Không biết làm thế nào tỏ hết nỗi lòng để mong nhà vua hồi tâm xe lại mối tơ duyên. Nghe Tư Mã Tương Như có văn tài, nàng nhờ người đem 100 lượng vàng đến, yêu cầu Tương Như viết một bài phú để dâng vua.

    Tương Như bằng lòng.

    Bài phú nhan đề là "Trường Môn phú", rất hay, lời lẽ vô cùng ai oán. Bài ấy có đoạn:


    Sầu nhìn chung quanh mà rỏ lệ chừ, nước mắt ròng ròng chảy dọc ngang.
    Ráng thở dài mà thêm thẹn chừ, xỏ giày đứng dậy mà bàng hoàng.
    Vung tay áo để che mặt chừ, nhớ ngày xưa lầm lỗi mà sinh tai ương.
    Mặt mày coi tiều tụy chừ, buồn lòng mà lên giường.
    Vò bông để làm gối chừ, trải cỏ thơm mà ướp hương.
    Hốt ngủ quên mà nằm mộng chừ, phách như ở bên quân vương.
    Chợt tỉnh mà chẳng thấy chừ, hồn hốt hoảng như mất vật gì.
    Nghe gà gáy mà lòng rầu chừ, dậy coi trăng sáng long lanh.
    Xem sao bầy hàng chừ, Tất, Mão hiện ở phương đông.
    Nhìn ra sân lạnh lẽo chừ, như tháng chín trời gieo sương.
    Đêm dằng dặc như năm chừ, lòng uất ức mà chẳng nguôi.
    Lặng lẽ trăn trở đợi sáng chừ, trời hừng hừng đã rạng đông.
    Thiếp trộm buồn tủi chừ, cho đến già chẳng dám quên.

    Nguyên văn:

    Tả hữu bi nhi thùy lệ hề, thế lưu ly nhi tung hoành.
    Thư tức ấp nhi tăng hi hề, đồ lý khởi nhi bàng hoàng.
    Du trường duệ dĩ tự ế hề, sổ tích nhật chi thiên ương.
    Vô diện mục chi khả hiển hề, toại đồi tứ nhi tựu sàng,
    Đoàn phân nhược dĩ vi chẩm hề, tịch thuyên lan nhi chi hương.
    Hốt tẩm mị nhi mộng tưởng hề, phách nhược quân chi tại bàng.
    Dịch ngộ giác nhi vô kiến hề, hồn cuống cuồng nhược hữu vong.
    Chúng kê minh nhi sầu dư hề, khỏi thị nguyệt chi tinh quang.
    Quan chúng tinh chi hàng liệt hề, tất mão xuất ư đông phương.
    Vọng trung đình chi ái ái hề, nhược quí thu chi giáng sương,
    Dạ mạn mạn nhước tuế hề, hoài uất uất kỳ bất khả tài canh.
    Đạm yển kiển nhi đãi thự hề, khương đình đình nhi phục minh.
    Thiếp nhân thiết tự bi hề, cứu niên tuế nhi bất khả cảm vương.

    . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

    Xem qua bài phú, nhà vua cảm động, nghĩ ngợi, xót thương nên đem nàng về phục ngôi hoàng hậu.

    Giá trị thay bài phú!

    Nhưng bài phú chỉ giá 100 lượng vàng. Một trăm lượng vàng mua lại được lòng yêu dấu của đấng quân vương.
    Trong "Nhị độ mai" của Vô Danh có câu: "Phú Tương Như dễ mấy vàng chuốc nên", là do điển tích trên.

    Lam Kiều

    Lam Kiều là một cái cầu bắc trên sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây bên Tàu, tương truyền là nơi tiên ở.

    Đời nhà Đường, triều Mục Tông (821-825), có một chàng nho sĩ tên Bùi Hàng, lều chõng đi thi bao lần đều hỏng. Một hôm, Bùi thuê đò đi Tương Hán định sang ghé Ngọc Kinh để xem phong cảnh. Cùng đáp một chuyến đò có một mỹ nhân tên Vân Kiều, sắc nước hương trời, con người đoan trang, thùy mị. Bùi sinh cảm mến, mong được giao duyên, mới mượn thơ thay lời, nhờ con nữ tỳ của giai nhân đưa hộ:

    Kẻ Hồ, người Việt còn thương nhớ,
    Huống cách người tiên chỉ bức mành.
    Ví được Ngọc Kinh cùng nối gót,
    Xin theo loan hạc đến mây xanh.

    (Bản dịch của Phan Như Xuyên)

    Nguyên văn:

    Đồng vi Hồ Việt do hoài tưởng,
    Huống ngộ thiên tiên cách cẩm bình.
    Thắng nhược Ngọc Kinh triều hội khứ,
    Nguyện tùy loan hạc nhập thành vân.

    Vân Kiều xem thơ, vui vẻ mỉm cười.

    Nhưng thơ đi mà tin chẳng lại, Bùi rất lo lắng, băn khoăn. Nhưng khi đò sắp ghé bến, Bùi bỗng tiếp được thơ do con nữ tỳ của giai nhân đưa đến:

    Uống rượu Quỳnh Tương trăm cảnh sinh,
    Huyền Sương giã thuốc thấy Vân Anh.
    Lam Kiều vốn thật nơi tiên ở,
    Hà tất nhọc nhằn đến Ngọc Kinh.

    Nguyên văn:

    Nhất ẩm Quỳnh Tương bách cảnh sinh,
    Huyền Sương đảo tận kiến Vân Anh.
    Lam Kiều tự hữu thần tiên quật,
    Hà tất khí khu thượng Ngọc Kinh.


    Bùi không hiểu ý nghĩa ra sao, định hỏi; nhưng thuyền vừa ghé bến thì Vân Kiều đã thoáng mất. Nghiền ngẫm hai câu thơ cuối, Bùi không đến Ngọc Kinh, mà hỏi dò người, tìm đến Lam Kiều.

    Trời trưa nắng gắt, Bùi mệt mỏi, mồ hôi nhuễ nhoại. Ghé vào hàng nước, nghỉ chân, hỏi nước uống. Bà lão chủ quán bảo người con gái đem nước ra. Nàng rất đẹp, trông dáng vẻ tựa Vân Kiều. Bùi hỏi, thì ra nàng là em của Vân Kiều, tên Vân Anh.

    Bùi Hàng mừng rỡ, cho là gặp duyên trời định, mới thuật lại cả hai bài thơ. Bà lão cười, bảo:

    - Hẳn là con Vân Kiều muốn xe duyên em nó cho cậu đó.

    Bùi nghe nói lấy làm hớn hở. Nhưng bà lão cho biết là hiện bà có cái cối, song thiếu chiếc chày ngọc để giã thuốc Huyền Sương, nếu Bùi tìm được chày thì bà sẽ gả Vân Anh cho.

    Bùi Hàng bằng lòng. Nhưng đi tìm mãi khắp nơi mà không biết ở đâu có chày ngọc. Lòng buồn tha thiết. Tưởng hoàn toàn thất vọng, chàng đi lang thang. May mắn, một hôm, chàng gặp được tiên cho chiếc chày ngọc. Thế là duyên thành.

    Sau cả hai vợ chồng Bùi Hàng đều tu thành tiên cả.

    Những tác phẩm cổ văn của ta có nhiều đoạn dùng điển tích này:

    Nỗi riêng nhớ ít tưởng nhiều,
    Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang.

    (Đoạn trường tân thanh)

    Chầy sương chưa nên cầu Lam,
    Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng?

    (Đoạn trường tân thanh)

    Chốn Lam Kiều cách nước mây,
    Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào?

    "Lam Kiều" chỉ chỗ tiên ở hay người đẹp ở, hoặc chỉ gặp duyên tốt đẹp... như gặp duyên với tiên.

    Đào yêu

    Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn thuật cảnh Thúy Kiều sang thư phòng người yêu là Kim Trọng, khi chàng này sắp sửa không còn giữ vẻ đứng đắn, Kiều mới khuyên ý trung nhân, có câu:

    Rẽ cho thưa hết một lời đã nao!
    Vẻ chi một đóa yêu đào!
    Vườn hồng khi dám ngăn rào chim xanh.
    Đã cho vào bực bố kinh,
    Đạo tùng phu lấy chữ trinh làm đầu."
    Thưa rằng: "Đừng lấy làm chơi,


    "Yêu đào" nguyên lấy chữ "Đào yêu" trong Kinh Thi. Thơ "Đào yêu" gồm ba chương:

    I

    Đào chi yêu yêu,
    Thước thước kỳ hoa.
    Chi tử vu qui,
    Nghi kỳ thất gia.

    II

    Đào chi yêu yêu,
    Hữu phần kỳ thật.
    Chi tử vu qui.
    Nghi kỳ gia thất.

    III

    Đào chi yêu yêu,
    Kỳ điệp trăn trăn.
    Chi tử vu qui.
    Nghi kỳ gia nhân.

    Tạm dịch:

    I

    Mơn mởn đào non,
    Rực rỡ nở hoa.
    Cô ấy lấy chồng,
    Êm ấm cửa nhà.

    II

    Mơn mởn đào non,
    Lúc lỉu quả sai.
    Cô ấy lấy chồng,
    Êm ấm nhà ai.

    III

    Mơn mởn đào non,
    Lá xanh rườm rà.
    Cô ấy lấy chồng,
    Thuận với người nhà.

    (Bản dịch của Lê Văn Hòe)


    "Yêu đào" tức là cây đào non mơn mởn. Người ta ví một người con gái dậy thì đến tuổi lấy chồng với "Yêu đào".

    Trong "Đoạn trường tân thanh", đoạn Kim Trọng và Thúy Kiều tái hợp, Thúy Vân khuyên chị kết duyên lại cùng Kim Trọng, cũng có câu: "Đào non, sớm liệu, xe tơ kịp thì"

    Động Đào Nguyên

    Đào Nguyên còn gọi là động Bích.

    Đây là chỗ tiên ở.

    Tương truyền đời nhà Tấn (265-419), có người chài cá ở huyện Vũ Lăng, một hôm chèo thuyền đi ngược ven theo bờ suối. Càng đi xa chừng nào thì thấy có nhiều hoa đào trôi theo dòng nước đổ xuống. Đến một quãng, bỗng thấy trước mặt hiện ra một rừng đào. Hoa đào đỏ rực rỡ làm cho ngư phủ càng thấy say sưa thích thú. Định co người ở gần đấy nên bỏ thuyền, lên bờ. Vượt qua rừng đào, đến một ngọn núi. Dưới chân núi có một cửa hang nhỏ hẹp, vừa chui được một người. Bên trong thấp thoáng có ánh sáng.

    Gợi tính tò mò, chàng lách mình vào cửa hang. Lúc đầu, cửa hang còn hẹp, sau rộng dần, rồi cả một thế giới hiện ra: ruộng vườn tươi tốt, nhà cửa thôn ấp liên tiếp nhau; tiếng gà, tiếng chó nghe rõ mồn một; thanh niên thiếu nữ đều say sưa công việc đồng áng. Trên mặt mọi người hiện nét vui tươi chất phác hồn nhiên. Người già, con trẻ đều có vẻ ung dung thanh thản.

    Những người ở đây thấy chàng ngư phủ thì lấy làm kinh ngạc hỏi: làm sao đến được chốn này? Ngư phủ trình bày sự thực. Các bực phụ lão đem vợ con ra chào mừng khách lạ, dọn cơm rượu đãi khách. Ngư phủ ăn uống lấy làm ngon lạ, vì tuy cơm rượu mà tính chất khác thường.

    Những bực phụ lão lại nói:

    - Tổ tiên chúng tôi tránh loạn đời Tần, đem cả gia đình vào ở đây, từ đó cách biệt với bên ngoài. Hiện nay, chúng tôi không còn biết nhà Hán, huống hồ là nhà Ngụy, và nhà Tấn.

    Cuối cùng, họ lại dặn ngư phủ: sau khi ra khỏi chốn này, xin đừng cho ai biết có họ ở đây.

    Người đánh cá ở chơi một hôm rồi xin cáo biệt.

    Từ đời nhà Tần (221 trước D.L.) đến nhà Tấn (419 sau Dương lịch) mà họ đến đây tránh nạn kể ra có trên sáu trăm năm. Người đánh cá cho mình may mắn đã được gặp tiên. Nên khi trở về, nhiều người đến thăm hỏi, trước còn tìm cách giấu nhưng cuối cùng chuyện thấu đến quan Thái Thú sở tại, ngư phủ đành phải thuật cả việc lại.
    Có tính hiếu kỳ, viên Thái Thú sai người đi theo chàng ngư phủ tìm lại động Đào Nguyên, nhưng hai người bị lạc đường đành phải trở về.

    Trong truyện "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự có câu: "Nào hay là khách Đào Nguyên đã về".

    Trong "Đoạn trường tân thanh" của Nguyễn Du đoạn thuật lại lời Thúy Kiều nói với Kim Trọng trong khi nhà vắng, nàng lén sang chỗ ở của chàng, có câu: "Xắn tay mở khóa động Đào".

    "Động Đào" là động Đào Nguyên, Kiều dùng lối thậm xưng, đề cao chỗ ở của tình nhân như một cõi tiên; và nàng cũng vinh hạnh được vào... cõi tiên ấy.

    Trong "Tần cung nữ oán Bái Công văn" của Nguyễn Hữu Chỉnh (?) có câu: "Nếu tuổi xanh chẳng nhuốm bụi hồng, chiếc ngư phủ đã đưa vào động Bích".

    "Động Đào", "Đào Nguyên", "Động Bích" đều do điển tích trên.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi Ngọc Kỳ Lân, ngày 10-05-2015 lúc 18:11.

    ꧁༺Tương Tư Vị Liễu༻꧂
    ┊  ┊  ┊  ┊
    ┊  ┊  ┊  ★
    ┊  ┊  ☆
    ┊  ★


  4. Bài viết được 2 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    HuongTram,unu,
  5. #13
    Ngày tham gia
    May 2014
    Bài viết
    1,098
    Xu
    1,592

    Mặc định


    66/ Trên trời nguyện hóa chim liền cánh .
    Dưới đất làm cây nhánh dính liền
    67/ Khúc Hậu Đình Hoa
    68/ Mười bài thơ đoạn trường
    69/ Lão tiều phu và con hạc đen
    70/ Thần đồng vấn Khổng Tử




    Trên trời nguyện hóa chim liền cánh .
    Dưới đất làm cây nhánh dính liền




    Dĩa trà vẽ điển tích 2 cây nhánh xoắn xít vào nhau : chuyện xưa kể rằng : có một người con gái cực kỳ xinh đẹp , đoan chính , nàng đẹp đến nỗi tiếng đồn lan xa đến tận kinh thành. Nhà vua nghe được liền ra lệnh cho nàng vào cung , nhưng tiếc thay nàng đã có chồng . Nhà vua đã dùng mọi cách ngon ngọt , dọa dẫm nhưng vẫn không lây chuyển được nàng . Y bèn ra lệnh giết chồng nàng , hay tin dữ nàng bèn vờ thuận lòng vua , xin được thiết yến trên lầu cao . Tới buổi tiệc , nàng ăn vận thực xinh đẹp , nguyện được sau chết được chôn cùng với người chồng , rồi nhảy xuống gác cao trước sự ngỡ ngàng của nhà vua . Nhà vua tức giận bèn ra lệnh chôn riêng 2 người với nhau . Tuy nhiên , ít lâu sau ở 2 ngôi mộ mọc lên 2 cái cây , cành lá cứ tự động tìm đến nhau mà xoắn xít lại . Nhà vua nghe tin , lại tức giận lôi đình , ra lệnh chặt 2 cái cây này đi , đốt thành tro . Bỗng ít lâu , từ trong đống tro tàn lại xuất hiện 2 con chim , chúng luôn bay với nhau , và hát líu lo .

    Hình ảnh chim liền cánh còn là 1 điển tích khác : có một lòai chim con đực được gọi là uyên , con mái được gọi là ương , chúng luôn đi với nhau thành một cặp nên còn được gọi là chim uyên ương . Nhưng điểm đặc biệt thú vị nhất của lòai chim này là mỗi con chỉ có 1 cánh , khi muốn bay chúng phải ráp vào với nhau thì mới bay được .

    Điển tích chim liền cành và cây liền cành , tượng trưng cho một tình yêu son sắt , không gì phân chia được . Điển tích này thường được vẽ trên để chúc tụng cho các đôi vợ chồng luôn gắn bó , hạnh phúc bên nhau .

    Khúc Hậu Đình Hoa

    "Hậu Đình Hoa" nghĩa là "Hoa ở sân sau". Đây là một tập thơ chọn lọc rồi phổ thành âm điệu cho các cung nữ, phi tần hát của Trần Hậu chủ đời Hậu Trần, thời Nam Bắc triều (420-587).

    Trần Hậu chủ (583-587) tên Trần Thúc Bảo, là một ông vua nổi tiếng tài tử phong lưu. Hậu cung lúc nào cũng có hàng ngàn mỹ nhân tuyệt sắc. Trong số đó có hai nàng là Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa được nhà vua sủng ái.
    Hai nàng Quý Tần và Lệ Hoa chẳng những có sắc đẹp lộng lẫy, người mẫn tiệp lại có tài thi phú, thường cùng Hậu chủ cùng các bực thi văn tài danh trong triều xướng họa mỗi khi có yến tiệc linh đình.

    Vì yêu người đẹp tài hoa nên Hậu chủ phải tổn phí nhiều tiền của, cho dựng trước điện Quang Chiếu ba tòa lầu lớn. Ba tòa lầu này dùng toàn bằng gỗ trầm hương. Cửa lớn, nhỏ đều dát toàn ngọc ngà, rèm châu, trướng gấm lộng lẫy. Ba lầu ấy đặt tên là Lâm Xuân, Kết Ỷ và Vọng Tiên (có bản chép là Vọng Xuân).

    Dưới lầu, trồng toàn cây quý, hoa lạ, ngào ngạt mùi hương. Lại chất đá xây thành núi gọi là núi Nghinh Phong; tháo nước làm thành hồ gọi là hồ Ngoạn Nguyệt.

    Hằng đêm, Trần Hậu chủ bày yến tiệc, họp các mỹ nhân uống rượu tại lầu Lâm Xuân cùng với các học sĩ ngâm thơ xướng họa. Một khi có những bài thơ hay, thích, nhà vua cho chép lạai thành tập và phổ vào khúc đàn để những cung nữ hát xướng suốt đêm, nên được gọi là Trường Dạ Ẩm.

    Những bài thơ, những khúc nhạc lả lướt ấy được chép thành 3 tập là: Nghinh Xuân nhạc, Ngọc Thu và Hậu Đình Hoa. Riêng tập Hậu Đình Hoa toàn sưu tập những bài bay bướm, bóng bẩy, dâm đãng. Chính Trần Hậu chủ cũng làm một khúc hát Hậu Đình Hoa:

    Nguyên tác là:

    Lệ vũ phương lâm đối cao các
    Trân trang điểm chất bản khuynh thành,
    Ánh hộ ngưng kiều sa bất tiến,
    Xuất duy hàm thái tiếu tương nghinh.
    Yêu cơ kiểm tự hoa hàm lệ,
    Ngọc thu lưu quang chiếu Hậu Đình.



    Nghĩa:

    Bóng rợp hương thơm chốn lâu các,
    Nghiêng thành vẻ đẹp với mầu tươi.
    Ngoài cửa dịu dàng khoan dạo bước
    Trước màn chào đón mỉm môi cười,
    Má hồng tựa đóa hoa đầy móc
    Cây ngọc sân sau chiến sáng ngời


    (Bản dịch của Phan Thế Roanh)


    Suốt đêm ngày, Trần Hậu chủ bỏ cả việc triều chính, say sưa bên cạnh Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và những mỹ nữ ca hát bên tiệc rượu làm cho đất nước càng suy đồi.

    Vua nhà Tùy (589-617) là Văn Đế thừa dịp nhà Hậu Trần suy vi, sai tướng Lý Uyên và Dương Tố đem quân sang vây Đại Thành. Giữa lúc ấy, Trần Hậu chủ còn đương say khươt trên lầu Kết Ỷ.

    Quân Tùy đánh phá, đột nhập thành. Quân Hậu Trần chạy tán loạn. Có người phải lấy nước đổ vào mặt Trần Hậu chủ cho tỉnh dậy và yêu cầu ra hàng để cứu quân lính khỏi chết oan. Hậu chủ nói:

    - Sau lầu, trẫm có đào sẵn giếng sâu.

    Đoạn, Hậu chủ dắt Trương Lệ Hoa, Khổng Quý Tần và độ mươi mỹ nhân khác đến giếng, ôm nhau nhảy xuống tránh nạn.

    Quân Tùy lùng tìm nhà vua trong nội cung không thấy, liền ra sau điện Cảnh Dương, thấy có giếng sâu và có tiếng người thì thầm ở dưới, liền cho thả dây xuống dò. Bỗng thấy dây nặng, chúng lấy làm lạ, kéo lên.

    Thì ra hai nàng tiên tuyệt sắc Khổng Quý Tần và Trương Lệ Hoa nắm đầu dây ấy mà lên. Một tên lính già chỉ hai nàng nói:

    - Trần Hậu chủ chết và mất nước cũng vì hai ả này ta chẳng nên mó đến.

    Quân Tùy nghe nói liền đâm chết cả hai người đẹp vứt xác xuống giếng, lấp đá lại. Giếng ấy về sau gọi là giếng "Son Phấn".

    Riêng về Trần Hậu chủ, có sách nói là được cứu sống, nhưng sau thấy quân sĩ giết mấy hai nàng Khổng, Trương nên buồn rầu, sinh bịnh nhớ thương mà chết.

    Nhà Hậu Trần bị diệt vong, người ta cho rằng sở dĩ nước mất nhà tan cũng do khúc hát "Hậu Đình Hoa" ấy, vì có tính cách ủy mỵ, dâm dật. "Hậu Đình Hoa" chỉ về khúc ca vong quốc.

    Đỗ Mục, một thi hào nổi tiếng đời nhà Đường (618-907), nhân một đêm ghé thuyền trên bến Tần Hoài, gần một quán rượu. Đêm đã khuya, hơi sương mù như khói tỏa trên mặt nước. Bãi cát chiếu sáng lồng trong ánh trăng xanh. Bấy giờ trong quán, khách còn đang say sưa ăn uống, bên cạnh những ả buôn son bán phấn hát xướng để mua vui cho khách. Lắng nghe giọng hát réo rắt bên kia sông đưa sang, Đỗ Mục xúc cảnh sinh tình:

    Khói bay, nước lạnh, khói trăng pha,
    Thuyền đậu sông Tần cạnh Tửu gia.
    Hận nước gái buôn không biết rõ,
    Cách sông còn hát "Hậu Đình Hoa".


    (Bản dịch của Quốc Ấn)

    Nguyên văn:

    Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,
    Dạ bạc Tần hoài cận tửu gia.
    Thương nữ bất tri vong quốc hận,
    Cách giang do xướng "Hậu Đình Hoa".


    Trong "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều ở nước ta, cũng có câu:

    Vườn Tây Uyển khúc trùng thanh dạ,
    Gác Lâm Xuân điệu ngã Đình Hoa.
    Thừa ân một giấc canh tà,
    Tờ mờ nét ngọc, lặp lòe vẻ son.


    Mười bài thơ đoạn trường

    Thúy Kiều, con của viên ngoại họ Vương, người ở Bắc Kinh. Nàng yêu kiều diễm lệ, có một thái độ phong lưu, tính thích hào hoa, thích âm luật, sở trường về hồ cầm. Vốn đa cảm, giàu tình, nàng sáng tác bài "Bạc mệnh oán" để hát theo khúc hồ cầm, khi gảy lên nghe rất não nùng, ai cũng sa nước mắt.

    Một hôm, nhân tiết Thanh Minh, Thúy Kiều cùng hai em đi tảo mộ và nhân tiện xem hội Đạp Thanh. Lúc trở vê, Kiều nhìn bên dòng nước có một nấm mồ hoang cô lạnh, hỏi ra mới biết đó là mồ của nàng ca nhi tên Lưu Đạm Tiên.

    Trước sống mua vui cho khách làng chơi, chết làm ma không chồng trong nấm mồ vô chủ.

    Kiều cảm động, rơi nước mắt, khóc cho kiếp hồng nhan.

    Về nhà, đêm khuya vắng vẻ, nàng cảm thấy một nỗi buồn man mác xâm chiếm cõi lòng. Nghĩ phận người lại nghĩ phận mình, hay kiếp hồng nhan rồi phải chung mạng bạc!

    Nàng tựa ghế thiu thiu, rồi ngủ say lúc nào không biết. Giữa lúc ấy, thấy một thiếu nữ tiến đến chào và hỏi rằng:

    - Này chị Thúy Kiều, đương lúc ngày xuân phơi phới sao không hỏi liễu tìm hoa, mà lại chịu ngủ ở nhà như vậy?

    Kiều nghe nói, vội vàng đứng dậy, sửa áo đón mời, nhìn thấy thiếu nữ má đào, môi hạnh, dáng điệu như tiên. Sau khi hai bên cùng ngồi, Kiều vội hỏi:

    - Chẳng hay nương tử ở tại cung nào mà xe loan thình lình hạ cố đến đây?

    Thiếu nữ tươi cười đáp:

    - Thiếp đây nào phải ai đâu xa lạ, nhà thiếp ở phía tây cầu bên dòng nước chảy. Chiều nay chị đã vãng qua, sao mà mau quên như thế? Hôm nay, thiếp ở trong "Hội đoạn trường", trước mặt Giáo Chủ, thiếp có khen đến tài hoa của chị. Giáo Chủ rất vui mừng và cho biết rằng chị cũng có chân trong hội ấy. Rồi người trao cho thiếp mười cái đầu đề đoạn trường, bảo đem lại cho chị vịnh. Vậy yêu cầu chị thảo ngay để cho thiếp xếp vào tập "Đoạn trường sách".
    Kiều hỏi:

    - Em xin lãnh ý, nhưng xin chị cho biết Đoạn Trường Giáo Chủ là ai? Có thể đưa em đến yết kiến được không?

    Thiếu nữ mỉm cười đáp:

    - Lúc này chị không cần hỏi kỹ, một ngày khác, chị sẽ hiểu rõ đấy mà.

    Đoạn, nàng trao tập đầu đề. Kiều tiếp lấy, mở ra xem. Đây là mười đầu đề: Tích đa tài, Liên bạc mạng, Bi kỳ lộ, Ức cố nhân, Niệm nô kiều, Ai thanh xuân, Ta kiển lộ, Khổ linh lạc, Mộng cố viên, Khốc tương tư.

    Kiều xem xong, vui vẻ nói:

    - Đầu đề rất hay, vậy em xin thảo ngay. May bài của em chiếm khôi nguyên trong tập, thì khỏi phải phụ công chị giới thiệu.

    Vừa nói vừa viết thao thao bất tuyệt. Chỉ trong giây lát, đủ cả mười bài từ khúc theo lối hồi văn:

    I/

    Tích đa tài
    Tờ oanh nỡ bỏ hoài,
    Hợp hoan ngày tháng phổ cho ai?
    Tương tư mình gác để ngày mai.
    Để ngày mai!
    Tiếc cho tài!


    II/

    Thương bạc mạng
    Đêm đêm một mình lạnh,
    Nhà vàng nghe nói để A Kiều
    Một mặt nghe chừng khó hân hạnh.
    Khó hân hạnh!
    Thương bạc mạng!


    II/I

    Thương kỳ lộ
    Khúc đường quanh co thật khó đi,
    Đường khổ chưa bằng tâm em khổ!
    Một bước sai thời ngàn bước lỡ!
    Ngàn bước lỡ!
    Thương kỳ lộ.


    IV

    Nhớ cố nhân
    Tóc bạc nhưng tình vẫn chưa thân!
    Cần gì trước phải lên tận mây xanh!
    Cưỡi xe đội nón mới là chân
    Mới là chân!
    Nhớ cố nhân!


    V/

    Nhớ cô hầu!
    Soi gương hồn biến đâu?
    Ta thấy ai vẫn còn than thở!
    Son phấn thôi đừng giễu cợt nhau.
    Giễu cợt nhau.
    Nhớ cô hầu!


    VI/

    Xót thanh xuân
    Cành hoa giống mỹ nhân,
    Xuân sắc núi rừng, ôi đẹp đẽ!
    Muốn mượn mưa xuân tưới hoa thần.
    Tưới hoa thần!
    Xót thanh xuân!


    VII/

    Than cảnh ngộ
    Giấc mơ tỉnh rồi đó,
    Đâu phải gặp ai cũng kêu thương.
    Chỉ vì lầu son lối cũ chưa tỏ.
    Lối cũ chưa tỏ!
    Than cảnh ngộ!


    VIII/

    Khổ linh lạc
    Thân nầy hết đường bước,
    Lìa cành hoa rụng khắp đông tây.
    Nhạn lạc đàn bay quanh hiên trước.
    Quanh hiên trước!
    Khổ linh lạc!


    IX/

    Mơ vườn xưa
    Hồn về cậy ai đưa?
    Cảnh cũ cúc tùng không thấy nữa.
    Bạch vân phương thảo lặng như tờ.
    Lặng như tờ!
    Mơ vườn xưa!


    X/

    Khóc tương tư
    Nghẹn ngào đã nhiều khi,
    Lòng đau không giữ nổi tiếng khóc.
    Đất cũ tình thâm luống sầu bi.
    Luống sầu bi!
    Khóc tương tư!



    Thúy Kiều viết xong 10 bài, trao lại thiếu nữ. Xem qua, thiếu nữ tấm tắc khen rằng:

    - Quả thực mỗi chữ khác gì ôm mối hận. Nếu đem vào tập "Đoạn trường", chắc rằng sẽ đoạt giải nhất.

    Đoạn thiếu nữ đứng dậy, từ giã. Kiều nói:

    - Hôm nay chị đã có lòng chiếu cố, đôi ta ắt có tiền duyên, sao lại nỡ vội vàng như vậy? Vả lại lần này ly biệt, biết bao giờ lại được gặp nhau.

    Thiếu nữ nói:

    - Nếu chị tình thâm mà thiếp cũng không tình bạc, thì sông Tiền Đường đó, ta sẽ hẹn về sau.

    Nói xong đi thẳng.

    Kiều chạy theo giữ lại thì bỗng có trận gió làm khua động bức mành. Nàng sực tỉnh, mới hay là giấc chiêm bao.
    Về sau, Kiều phải 15 năm lưu lạc, thân thế lắm nỗi đoạn trường. Cuối cùng trầm mình dưới sông Tiền Đường, ứng như điềm mộng.

    Truyện trên viết theo Thanh Tâm Tài Nhân. Cụ Nguyễn Du dựa theo, viết thành quyển "Đoạn trường tân thanh" bằng thể lục bát. Đoạn này, Nguyễn Du diễn tả:

    Này mười bài mới, mới ra,
    Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
    Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
    Tay tiên vẩy đủ mười khúc ngâm.

    "Mười khúc ngâm" tức 10 bài "đoạn trường" đó.

    Lão tiều phu hay con hạc đen

    Núi Na ở thôn Quần Ngọc, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa. Trên đỉnh núi có chùa xưa, tục danh là Tiên am. Phía tả có động thâm u. Đời nhà Trần, Hồ (1225-1407) có một tiều phu ẩn cư ở đấy. Người ta gọi là Hoàng My tiên sinh.

    Một hôm Hồ Hán Thương đi săn đến đấy, bỗng gặp một lão tiều phu vừa đi vừa hát:

    Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan
    Thụ thương thương
    Yên tịch mịch
    Thủy sàn sàn
    Triêu hề ngô xuất
    Mộ hề ngô hoàn
    Hữu y hề chế kỹ,
    Hữu bội hề nhận lan
    Thát bài thanh hề bình hiểu chướng,
    Điền hộ lục hề chẩm tình than.
    Nhậm tha triều thị
    Nhậm tha sa mã
    Tri trần bất đáo thử giang san,
    U thảo Tống triều cung kiếm
    Cổ khâu Tấn đại y quan.
    Vương Tạ phong lưu
    Triệu Tào sự nghiệp,
    Toán vãng cổ lai kim khanh tướng
    Trạch triện đài man
    Tranh như ngã trạo đầu nhất giác
    Hồng nhật tam can.


    Tạm dịch: (Bản dịch của Trúc Khê)

    Núi Na đá mọc chênh vênh,
    Cây tùm um, nước long lanh khói mờ.
    Đi về hôm sớm thẩn thơ,
    Mình dư áo lá, cổ thừa chuỗi hoa.
    Non xanh bao bọc quanh nhà,
    Ruộng đem sắc biếc xa xa diễu ngoài.
    Ngựa xe võng lọng thây ai,
    Nước non riêng chiếm, bụi đời khôn vương.
    Áo đai đời Tấn gò hoang,
    Kiếm cung triều Tống dưới làn cỏ xanh
    Sự đời bao xiết mong manh,
    Phong lưu Vương, Tạ, công danh Triệu, Tào
    Từ xưa khanh tướng ngôi cao,
    Đá mờ rêu phủ đã bao nhiêu rồi.
    Sao bằng ta được thảnh thơi,
    Giấc mai bừng tỉnh, mặt trời lưng không.


    Hán Thương nghe hát cho đó là một vị ẩn giả, bèn truyền thị thần đi theo vào động. Thấy trên vách đá có đề hai khúc ca "Ái miên" (Thích ngủ) và khúc "Ái kỳ" (Thích đánh cờ), thị thần xin mời tiều phu về triều.

    Tiều phu không bằng lòng nói:

    - Nghiêm Tử Lăng không lấy chức Gián nghị ở Đông Đô mà đổi cái thú yên ba sông Đồng Lại. Khương Bá Duy không vì họa đồ của Thiên tử mà làm nhơ cái cảnh sơn thủy Bành Thành.

    Sứ thần về tâu lại, nhưng Hán Thương bảo đi mời một lần nữa, mang theo một cỗ an xa, quyết mời cho kỳ được. Nhưng đến nơi chỉ thấy cửa động rêu mọc phủ cả, gai góc lấp mất đường đi, trên vách đá có hai câu thơ đề bằng nhựa cây:

    Kỳ La hải khẩu ngâm hồn đoạn,
    Cao Vọng đầu khách tứ sầu


    Nghĩa:

    Cửa biển Kỳ La hồn sẽ dứt,
    Đầu non Cao Vọng khách đeo sầu.


    Sứ thần về kể lại; Hán Thương nổi giận, khiến người đến đốt núi ấy. Chỉ thấy một con hạc đen từ trong núi bay bổng lên, liệng múa giữa không trung, mà không thấy giấu tích tiều phu đâu cả.

    Về sau, hai cha con họ Hồ là Quý Ly và Hán Thương đều bị xảy ra tai họa đúng như hai câu thơ báo trước của lão tiều phu.

    Thần đồng vấn Khổng Tử



    Thần đồng vấn Khổng Tử là câu chuyện Thần đồng Hạng Thác hỏi Đức Khổng Tử nhiều điều mà Ngài không trả lời được, nên chịu phục Hạng Thác làm thầy.


    Đức Khổng Tử cùng một số học trò, trên đường đi qua nước Trần, gặp một đám trẻ nhỏ chơi đùa giữa đường. Ngài ngồi trên xe nhìn đám trẻ, thấy có một cậu bé cặm cụi lấy cát đắp một cái thành nhỏ mà không đùa nghịch. Đức Khổng Tử dừng lại hỏi cậu bé :


    - Sao cậu không chơi đùa với mấy đứa trẻ kia ?

    Cậu bé đáp :


    - Đùa giỡn thì vô ích. Sự đùa giỡn có thể làm rách quần áo, nhọc công mẹ vá khâu và làm buồn lòng đến cha, nên tôi không đùa nghịch.

    Nói xong, cậu tiếp tục đắp thành. Đ. Khổng Tử lại hỏi :


    - Cậu không tránh cho xe của tôi đi sao ?

    Cậu bé thản nhiên đáp :


    - Từ xưa đến giờ, xe phải tránh thành, chớ có bao giờ thành tránh xe.

    Đức Khổng Tử nghe cậu bé trả lời hay quá, thấy cậu bé nầy có vẻ khác lạ, liền xuống xe đến gần cậu bé bàn luận nhiều việc xa xôi. Cậu bé đều trả lời xuôi rót, nhưng có tánh cách biến trá. Đức Khổng Tử trách rằng :


    - Cậu hãy còn bé mà sao đã biến trá lắm vậy ?

    - Người ta sanh ra 3 ngày đã biết tìm vú mẹ, con thỏ sanh ra 3 ngày đã chạy tung tăng trên đồng nội, con cá sanh ra 3 ngày thì biết xuôi ngược khắp sông hồ. Đó là tánh tự nhiên, sao gọi là biến trá ?

    - Cậu ở xóm nào, làng nào, cha mẹ ở đâu ?

    - Tôi sanh tại đây, họ Hạng tên Thác, chưa có tên tự.

    - Ta muốn cậu cùng đi chơi với ta, ý cậu thế nào ?

    - Trong nhà tôi còn có cha, cần phải phụng, còn có mẹ cần phải dưỡng, có anh để phụ tùng, có em phải dạy dỗ, còn có thầy để học hỏi, đâu có rảnh để đi chơi với ông.

    - Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng lòng không ?

    - Thiên tử mê cờ thì bốn biển không người gìn giữ, chư Hầu mê cờ thì chính sự không an, nho sĩ mê cờ thì việc học đình trệ, nông phu mê cờ thì quên việc cày cấy, vì thế tôi không đánh cờ.

    - Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không ?

    - Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tỳ thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên tôi không bình luận việc thiên hạ.

    Đức Khổng Tử lại hỏi :

    - Lửa nào không khói ? Nước nào không cá ?
    Núi nào không đá ? Cây gì không cành ?
    Người nào không vợ ? Ai kẻ không chồng ?
    Trâu nào không nghé ? Ngựa nào không con ?
    Trống nào không mái ? Mái nào không trống ?
    Ai là quân tử ? Ai kẻ tiểu nhân ?
    Vật gì không đủ ? Vật gì có thừa ?
    Thành nào không chợ ? Người nào không con ?

    Cậu bé Hạng Thác liền đáp :

    - Lửa đôm đốm không khói. Nước giếng không cá.
    Núi đất không đá. Cây khô không cành.
    Tiên Ông không vợ. Ngọc Nữ không chồng.
    Trâu đất không nghé. Ngựa gỗ không con.
    Trống độc không mái. Mái độc không trống.
    Hiền là quân tử. Kẻ dại tiểu nhân.
    Ngày Đông không đủ. Ngày Hạ có thừa.
    Hoàng thành không chợ. Đứa trẻ không con.

    Sau khi Hạng Thác trả lời xong, Đức Khổng Tử hỏi tiếp :

    - Cậu có biết gì về lẽ Đạo hằng của Trời Đất ?
    Sự cuối cùng của Âm Dương ?
    Đâu là phải ? Đâu là trái ?
    Đâu là trong ? Đâu là ngoài ?
    Ai là Cha ? Ai là Mẹ ?
    Ai là chồng ? Ai là vợ ?
    Gió từ đâu đến ? Mây từ đâu ra ?
    Sương từ đâu có ? Trời Đất xa nhau mấy dặm ?

    Cậu bé Hạng Thác liền trả lời :

    - 9 lần 9 chu kỳ là 81. Ấy là đạo của Trời Đất.
    8 lần 9 là 72. Ấy là Âm Dương cùng cuối.
    Tây là phải. Đông là trái.
    Trong là lý. Ngoài là biểu.
    Trời là Cha. Đất là Mẹ.
    Mặt Trời là chồng. Mặt Trăng là vợ.
    Gió từ cây xao động. Mây trong núi bay ra.
    Sương từ đất dậy. Trời Đất xa nhau ngàn ngàn
    vạn vạn dặm.

    Cậu bé Hạng Thác đã trả lời đầy đủ các câu hỏi của Đức Khổng Tử. Bây giờ cậu bé xin thỉnh giáo Đức Khổng Tử đôi điều :


    - Thưa Ngài, vịt ngỗng sao nổi trên mặt nước ?
    Chim hồng chim nhạn sao lại kêu to ?
    Tùng bách sao ngày Đông vẫn xanh lá ?

    Đức Khổng Tử đáp rằng :


    - Vịt ngỗng vì chân nó banh mà nổi bơi trên mặt nước.
    Chim hồng chim nhạn kêu to là vì cổ nó dài.
    Tùng bách ngày Đông xanh lá là vì ruột nó đặc.

    Cậu bé Hạng Thác cười nói rằng :


    - Chắc không hẳn như vậy đâu.
    Tôm cá vẫn nổi trên mặt nước mà chân nó có banh đâu.
    Ễnh ương, ếch nhái kêu to mà cổ của nó có dài đâu.
    Cây trúc rổng ruột mà ngày Đông vẫn xanh lá.

    Sau khi bắt bẻ các câu trả lời của Đức Khổng Tử, Thần đồng Hạng Thác hỏi tiếp :


    - Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu vì sao ?

    - Chuyện dưới đất không thiếu gì sao lại hỏi chuyện trên Trời.

    - Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà ?

    Đức Khổng Tử lại nói rằng :


    - Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần gì nói chuyện Trời Đất.

    - Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi ?

    Đức Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi.


    Ngài quay lại nói cùng các học trò rằng : “ Hậu sanh khả úy.” (kẻ sanh sau đáng sợ thật). Đó là kẻ rất khó tìm thấy trong thiên hạ. Nói xong Ngài trở lên xe đi thẳng.


    Bài thi : Thần đồng vấn Khổng Tử :

    Hưu khi niên thiếu thông minh tử,
    Quảng hữu anh tài trí quá nhân.
    Đàm luận thế gian vô hãn sự,
    Phân minh Cổ Thánh hiện kỳ thân.


    Tạm dịch :

    Đừng khinh tuổi trẻ bậc Thần đồng,
    Có lắm anh tài trí quảng thông.
    Luận việc thế gian không giới hạn,
    Thánh xưa hiện rõ thể vừng đông.


    Tối hôm ấy, Đức Khổng Tử ngồi thẩn thờ trước án, ngọn đèn bạch lạp lụn tàn. Tử Lộ mạo muội vào hỏi thầy :


    - Thầy trầm tư về cuộc tranh luận với Hạng Thác ? - Phải.

    - Thầy không vui vì mình yếu lý ? - Không.

    Thấy Tử Lộ có ý hồ nghi, nên Đức Khổng Tử nói tiếp :


    - Nầy Do, bình sanh ta đi chu du thiên hạ để truyền bá Nhơn đạo, mặt luôn luôn hướng thẳng, lòng sáng tợ gương, ý thành, ngôn chánh. Còn miệng lưỡi của Hạng Thác là miệng lưỡi của phường biện sĩ, nên có thể chứng minh ngựa trắng không phải là ngựa trắng. Khi xướng thuyết Liên Hoành cũng thuận, mà bày kế Hợp Tung cũng thông. Xét từ bản chất của ngôn ngữ, cuộc tranh luận vừa qua cũng như nước chảy dòng đôi, xa trăm ngàn đợt sóng nhấp nhô, nhưng kỳ thật không lượn lớn lượn nhỏ nào va chạm. Do làm sao hiểu được !


    (Tử Lộ là học trò giỏi của Đ. Khổng Tử, tên Trọng Do, kêu tắt là Do)Tử Lộ hỏi : - Vậy cớ nào thầy buồn ?

    - Ta buồn vì có Khổng Khâu mà còn phường biện sĩ. Hạng Thác nhắc cho ta nhớ đến vai trò của kẻ biện sĩ. Biện sĩ chỉ thuyết cho sự lợi ích mà không thuyết cho Chơn Lý. Khắp thiên hạ, kẻ cầu lợi đông như kiến cỏ, người hướng về Chơn Lý đốt đuốc khó tìm.Thế sự trôi chảy không ngừng. Chánh đạo của ta liệu truyền lưu được bao lâu nữa ? Đó chẳng phải là điều đáng buồn hay sao ?

    Tử Lộ toan lui ra, Đức Khổng Tử kêu lại hỏi :


    - Trò Do, trò còn nhớ người hiền nước Sở ?

    - Bẩm, có phải là Sở cuồng Tiếp Dư ca hát nghêu ngao.

    - Trò còn nhớ 2 ẩn sĩ họ Kiệt, họ Tràng ?

    - Bẩm, có phải 2 lực điền ở giáp ranh Sở, Thái ?

    - Họ khuyên ta bỏ đi việc chính sự lụy phiền, để làm người tỵ thế. Khuyên ta : Trời không hề nói gì mà vạn vật điều hòa. Ta cũng muốn êm lời, nhưng gặp việc nghĩa mà không làm, biết Chơn Lý mà không nói thì phải sống với đồng loại hay sống với chim muông !

    Tử Lộ ra ngoài nói với các bạn : Thầy nói : Hậu sinh khả úy. Không phải sợ kẻ sanh sau tài giỏi hơn mình, mà sợ họ làm sai lạc Chánh lý bằng ngoa ngôn xảo ngữ vị lợi đó thôi.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi Ngọc Kỳ Lân, ngày 11-05-2015 lúc 10:18.

    ꧁༺Tương Tư Vị Liễu༻꧂
    ┊  ┊  ┊  ┊
    ┊  ┊  ┊  ★
    ┊  ┊  ☆
    ┊  ★


  6. Bài viết được 2 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    HuongTram,unu,
  7. #14
    Ngày tham gia
    May 2014
    Bài viết
    1,098
    Xu
    1,592

    Mặc định

    71/ Ái Ốc cập ô
    72/ Ban môn lộng phủ
    73/ Bệnh nhập Cao Hoang




    Ái Ốc cập ô

    Giải nghĩa : Chỉ vì yêu thích căn nhà mà yêu cả con quạ trên mái nhà nữa .

    Cách dùng : Dùng để ví với việc vì yêu thích một người nào đó mà yêu luôn cả những gì liên quan tới người đó .

    Xuất xứ : Những năm cuối đời nhà Thương, Trụ Vương xa xỉ, hoang dâm vô đạo, khiến cho trăm họ muôn phần cực khổ. Thủ LĨnh Cơ Xương của nước chư hầu phía tây quyết định lật đổ sự thống trị của nhà Thương, tích cực luyện binh chuẩn bị chiến đấu, thế lực ngày càng vững mạnh, ông còn mở kinh đô về phía đông tới tận ấp phong Thiểm Tây, chuẩn bị đông tiến, nhưng tiếc rằng ông vẫn chưa kịp thực hiện được nguyện vọng của mình thì đã qua đời .

    Sau khi Cơ Xương mất, con trai của ông là Cơ Phát kế thừa vương vị của cha, người đời sau gọi ông là Chu Vũ Vương. Dưới sự phò tá của quân sự Khương Thái Công và em trai Chu Công Cơ Đán, Chiêu Công Cơ Thích, Chu Vũ Vương đã liên kết chư hầu các lộ, xuất binh thảo phạt Thương Trụ Vương. Hai bên giao chiến với nhau, lúc này Trụ Vương đã mất hết nhân tâm, thuộc hạ của ông ta vô cùng khiếp nhược trước quân Chu hùng mạnh, cuối cùng đại bại, kinh đô của nhà Thương là Triều Ca đã bị quân Chu tấn công nhanh chóng. Thương Trụ Vương tự thiêu ở Lộc Đài, triều Thương bị diệt vong.

    Sau khi Thương Trụ Vương chết , trong lòng Chu Vũ Vương vẫn chưa yên tâm ,bởi vì ông cảm thấy thiên hạ vẫn chưa được an định. Ông cho triệu kiến KHương Thái Công , hỏi : "Sau khi vào An đô,ta nên xử trí những quyền thần quý tộc, quan binh của triều đại cũ ra sao ?"

    Khương Thái Công nói " Thần có nghe nói câu này : Nếu như yêu thích một căn nhà nào đó thì cũng yêu luôn cả con quạ trên mái nhà người ta ; Nếu như không thích ai đó thì ghét luôn cả tường bích hàng rào nhà người ta . Điều đó đã rất rõ ràng , giết chết toàn bộ những gì thuộc về kẻ địch, một người cũng không để lại , Đại Vương thấy sao ?"

    Vũ Vương cho rằng điều đó quá tàn nhẫn . Lúc này Chiêu Công Cơ Thích tiến lên nói : "Thần cũng đã từng nghe nói câu này : 'Người có tội, phải giết ; người vô tội thì hãy nên để cho họ tiếp tục sống . Nên giết chết tất cả nhwũng người có tội , không để cho chúng còn lại chút tàn dư.'Đại Vương , Ngài nghĩ sao ?"

    Vũ Vương như vậy làm như vậy thì cũng không thoả đáng. Lúc này , Chu Công tiến lên nói:"Theo thần thì nên chjo tất cả mọi người ai về nhà đó , ai trồng ruộng người đó . Bậc quân vương không nên chỉ thiên vị bạn bè cũ và thân thuộc của mình , nên lấy nhân nghĩa đẻ cảm hoá người trong thiên hạ ."

    Vũ Vương nghe vậy thì rất đỗi vui mừng , như đưọc mở cờ trong bụng , bèn nghĩ nếu lấy cách đó để trị quốc thì có thể an định được thiên hạ .
    Sau đó , Vũ vương đã thục hiện nhân nghĩa theo đề nghị của Chu Công , hậu đãi quý tộc , quan lại,tướng sĩ của thời xưa , hậu đãi trăm họ trong thiên hạ .Quả nhiên ,thiên hạ đã đưọc an định nhanh chóng , lòng dân quy thuận , Tây Chu cũng ngày càng lớn mạnh .

    Ban môn lộng phủ


    Nghĩa từ : Ban: tên người thợ khéo tay Lỗ Ban

    Nghĩa câu : Tương đương với câu Múa rìu qua mắt thợ .

    Cách dùng : Dùng đả kích (cũng dùng trong lối nói khiêm tốn )người dám thể hiện bản lĩnh nghiệp dư trước những người có nghề chuyên nghiệp .

    Xuất xứ :

    Lỗ Ban là người nước Lỗ , thời Xuân Thu. Theo truyền thuyết ông là thợ thủ công giỏi, rất giỏi kiến trúc và điêu khắc ,kì nghệ tuyệt thế vô song . Mọi người đều tôn ông làm tổ sư nghề thợ mộc .

    Nhà Thơ LÝ Bạch nổi tiếng đời Đường , tự Thái Bạch hiệu là Thanh Liêm Cư Sĩ ,người Miên Châu, Xương Long . Từ nhỏ ông đã có kiến thức rất phong phú, ngoài kinh điển nho gia, sách sử nổi tiếng , ông còn đọc sách của bách gia tri tử và yêu thích thích kiếm thuật . Ông rất tin vào đạo giáo , thích ẩn cư , học thuật cầu tiên,. Đồng thời lại mang hoài bão góp sức cho nước nhà.

    Đưòng Huyền Tông từng có lời thề trở thành ông vua anh minh đã cho triệu tập nhân tài.Trong dịp này Lý Bạch cho rằng chơ hội thi thố tài năng đã đến . Đường Huyền Tông thấy ông có tài ngang dọc , giỏi thơ văn lại có vẻ bề ngoài tuấn tú bèn cho làm quan ở Hàn Lâm Viện .MỘt thời gian sau Vương công , quý tộc quan lại hiển đạt đua nhâu kết thân với LÝ Bạch . Do tính tình ông cương trực , không a dua nịnh hót, thường phản bác những lời lẽ rèm pha nên chưa đầy 2 năm sau ông bị cách chức ,đuổi ra khỏi kinh thành .

    Theo kể lại , vào một đêm ,khi Lý Bạch trèo thuyền đi dạo trên hồ , thăm Thái Thạch Cơ , ông đã uống rất say, nhìn thấy trăng dưới nước ông nhảy xuống mò nên bị chết đuối .
    Cũng có ý kiến cho rằng : Lý Bạch cố tình nhảy xuống sông tự vẫn ( lý do này có lý hơn bởi có nhiều nhà văn,nhà thơ tài ba tìm con đường giải thoát mình bằng cách tự vẫn .)

    Người ta an táng ông tại Thái Thạch Cơ. Từ đó Thái Thạch Cơ trở thành địa điểm du lịch nổi tiếng .

    Mấy thế kỷ sau nhà thơ đời nhà MInh , Mai Chi Hoán đến Thái Thạch Cơ làm bài điếu trước mộ Lý Bạch .Khi đứng trước mộ Thi Tiên Lý Bạch ,ông vô cùng ngạc nhiên và tực giận khi thấy những chỗ nào có thể viết chữ trên bia mộ thì mọi người đã viết cả . Những tác giả này văn thơ chẳng ra sao , đề loạn lên bài tiên thơ của LÝ Bạch, những câu thơ đó mà lại viết lên mộ của Lý Bạch thật là nực cười !

    Ông cảm thấy thật không phải với Lý Bạch, bèn đem bút viết :

    Thái Thạch giang biên nhất đống thổ
    Lý Bạch chi danh cao thiên cổ
    Lai lai võng võng nhất thủ thơ
    Lỗ Ban môn tiền lộng đại Phủ


    Bệnh nhập cao hoang

    (Vô phương cứu chữa)

    Giải nghĩa từ : Cao : chỉ dầu mỡ ;
    Hoang : phần giữa tim và hoành cách mô.

    Cao Hoang : chỉ thuốc không tới được nơi có bệnh.

    Ý nghĩa câu : Bệnh đã không còn cách nào chữa được .

    Cách dùng : Ví những bệnh tật ở giai đoạn cuối ,không thể cứu chữa được nữa .Câu này áp dụng trong trường hợp rơi vào tình thế nghiêm trọng , không thể cứu vãn được .

    Xuất xứ : Thời Xuân Thu ,Tấn Cảnh Công là con trai của Tấn Thành Công, tên là Nhũ. Ông ta ngu muội ,bất tài, tin gian thần , nghe lời xúc xiểm , đã vô cớ sát hại cả gia tộc nhà họ Triệu như : Triệu Đồng , Triệu Khoát -hậu duệ của trung thần Triệu Thuẫn . Ba năm sau , Tấn CẢnh Công nằm mơ thấy quỷ , tay rút chuỳ ,nhảy múa điên cuồng , thân hình to lớn , lớn tiếng mắng ông ta :" Đồ hôn quân vô đạo ! Con cháu ta có tội gì ? Ngươi bất nhân ,bất nghĩa , giết người vô cớ, ta đã tố cáo ngươi với Thiên Đế , xin tới đây lấy mạng của ngươi".

    Nói xong liền tiến thẳng tới chỗ Cảnh Công . Cảnh Công vô cùng sợ hãi,bèn chạy vào nội cung. Tên quỷ phá cửa xông vào , Cảnh Công sợ quá trốn trong nội thất , tên quỷ nọ lại phá cửa đuổi theo . Cảnh Công rất kinh hoàng , giật mình tỉnh dậy,hoá ra là một giấc mơ, nhưng từ đó ông ta mắc bệnh .

    Từ đó , bệnh của Cảnh Công ngày càng trầm trọng . Một hôm , thái ý dâng tấu nói :" Nước Tần Có một vị lương y , là học trò của thần y Biển Thước, ông ta có y thuật cứu người thoát khỏi tay tử thần , hiện giờ ông ấy là thái y của nước Tần , nếu như có thể mời ông ta tới đây , thì bệnh của quốc vương có thể sẽ được cứu."

    Nghe vậy , Cảnh công lập tức cho người tới nước Tần mời thần y. Tần vương cử lương y Cao Hoãn đến nước Tấn trị bệnh . Tần y vãn chưa tới nơi mà bệnh tình của CẢnh Công đã rất nguy cấp. Cảnh Công hoảng hốt lại nằm mơ , trong giấc mơ, ông thấy hai đứa trẻ đang lặng lẽ đứng bên cạnh mình nói chuyện với nhau .

    Một đưa nói :"Vị thái y cao minh đó sắp tới rồi , theo ta thì lần này chúng ta khó mà chạy thoát, chúng ta trốn đâu đây ?"
    Đứa kia bảo :" Chẳng có gì phải sợ cả , chúng ta trốn ở phía trên phần giữa hoành cách mô và tim , phía dưới của lớp mỡ , cho dù ông ta có dùng thuốc gì thì cũng chẳng làm gì được chúng ta ."

    Hai đưa trẻ nói xong thì chui vào lỗ mũi của Cảnh Công . CẢnh Công tỉnh dậy, cảm thấy giữa phần ngực và phần hoành cách mô đau đớn khủng khiếp, đứng ngồi không yên .

    Sau khi Cao Hoãn tới, lập tức được mới vào cung trị bệnh cho Cảnh Công . Tới lúc thông báo kết quả chẩn đoán, Cao Hoãn lắc đầu nói với Cảnh Công : "Bệnh của đại vương rất nặng , đã không có cách gì chữa khỏi rồi . Bệnh ở trên phần trên của "hoang" , ở phần dưới của "cao" châm cứu không được , kim không tới nơi ,uống thuốc thì hiệu lực của thuốc cũng không cứu được . Quả thực là hết cách rồi ."

    Cảnh Công nghe vậy, trong lòng nghĩ :lời của thái y nói giống hệt như câu chuyện mà hai đứa trẻ nói với nhau trong trong giấc mơ, bèn gật đầu nói :" Y thuật của ngài thật là cao minh !" Nói xong bèn sai ngưòi đem lễ hậu tới thưởng cho thầy thuốc , để cho ông ta về nước Tần. Không lâu sau thì Cảnh Công qua đời .


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi Ngọc Kỳ Lân, ngày 11-05-2015 lúc 22:47.

    ꧁༺Tương Tư Vị Liễu༻꧂
    ┊  ┊  ┊  ┊
    ┊  ┊  ┊  ★
    ┊  ┊  ☆
    ┊  ★


  8. Bài viết được 2 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    HuongTram,unu,
  9. #15
    Ngày tham gia
    May 2014
    Bài viết
    1,098
    Xu
    1,592

    Mặc định

    Thành ngữ
    -A





    Ái bất thích thủ: yêu quý không nỡ dời tay. Quyến luyến, không dứt được.

    Ái mạc năng trợ: Thương mà chẳng giúp được gì. Lực bất tòng tâm.

    Ái ốc cập ô: Vì yêu người cho nên yêu cả con quạ đậu trên nóc nhà người ấy. Khi yêu yêu cả đường đi lối về

    An bộ đáng xa: đi bộ cũng dễ chịu như ngồi xe vậy. Sống thanh bần đạm bạc, không tham của.

    An phận thủ kỉ: Yên phận giữ mình. An phân thủ thường.

    An gia lạc hộ: đến nơi mới yên ổn làm ăn sinh sống lâu dài.

    An cư lạc nghiệp: ổn định cuộc sống gia đình, vui vẻ làm ăn.

    An nhiên vô dạng: bình yên vô sự. Vẹn nguyên lành lặn.

    An như thái sơn: vững như núi Thái Sơn. Vững như kiềng ba chân.

    An thân lập mệnh: sống yên phận. An thân gửi mệnh.

    An thân, thủ phận. An phận, thủ thường: Muốn bình an, thì nên biết khả năng của mình. Giữ cho mình bình an thì đừng làm gì quá khả năng của mình.

    An thổ trọng thiên: ở quen rồi, không muốn di chuyển. Không muốn rời quê cha, đất tổ.

    An dinh trát trại: (Bộ đội) dựng trại trú quân. Bộ đội trú quân. Xây dựng cơ sở tạm thời.

    An chi nhược tố: bình chân như vại.

    Anh hùng nan quá mỹ nhân quan: Anh hùng không qua được sóng mắt người đẹp.

    Án binh bất động: im lặng mai phục bất động.

    Án bộ tựu ban: cứ thế mà làm, từng bước mà làm

    Án đồ sách kí: lần theo dấu vết. Rập khuôn máy móc

    Ám tiễn thương nhân: ngấm ngầm hại người, giết người không dao, ném đã dấu tay. Phát tên mờ ám.

    Ám tống thu ba: liếc mắt nhìn theo. Liếc mắt đưa tình. Ngấm ngầm cấu kết.

    Ám vô thiên nhật: tối tăm mù mịt


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi Ngọc Kỳ Lân, ngày 29-08-2015 lúc 03:06.

    ꧁༺Tương Tư Vị Liễu༻꧂
    ┊  ┊  ┊  ┊
    ┊  ┊  ┊  ★
    ┊  ┊  ☆
    ┊  ★

    ---QC---


  10. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    unu,
Trang 3 của 7 Đầu tiênĐầu tiên 12345 ... CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 2 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 2 khách)

DMCA.com Protection Status