TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 2 của 14 Đầu tiênĐầu tiên 123412 ... CuốiCuối
Kết quả 6 đến 10 của 66

Chủ đề: Võ Thuật Thực Chiến

  1. #6
    Ngày tham gia
    Apr 2008
    Đang ở
    Hải Tần Bắc Thành Phủ
    Bài viết
    6,372
    Xu
    742

    Mặc định Bí Quyết luyện Công của Thiếu Lâm

    Bí quyết luyện công của Thiếu Lâm

    Huyền Thịnh (Theo Karate Bushido)


    Bí quyết của võ phái này nằm trong câu khẩu quyết: “Khí nhiều hơn, tập luyện gian khổ hơn”. Các nhà sư Thiếu Lâm đã thực hiện câu này từ nhiều thế kỷ và những nhà vô địch của các võ phái cũng nằm lòng câu này.

    Trung Hoa còn một câu thành ngữ khác: “Khi bạn đã lên đến đỉnh, chỗ để bắt đầu lại là ở dưới đáy”, có ý khuyên chớ nên coi thường và bỏ qua những đòn thế căn bản. Càng tập luyện chúng thuần thục, việc ra đòn càng chính xác, linh hoạt, hữu hiệu. Ngoài ra, còn phát huy tốc độ ra đòn, sức mạnh và sự dẻo dai.

    Muốn cơ thể dẻo dai, phải tập vươn dãn bằng các động tác làm nóng người. Với Thiếu Lâm, yêu cầu là môn sinh phải cúi gập người tới mức có thể "hôn"các ngón chân ở hai tư thế đứng và ngồi.

    Thiếu Lâm dạy ba cấp độ về khí: Tui li (chuyển khí): môn sinh phải chuyển được khí lực ra tay chân khi tung đòn; Baofa li (tụ khí): tụ khí vào điểm chạm đòn để gia tăng sức công phá; gun li (nén khí): dù ở cự ly gần vẫn có thể tung đòn.

    Một bí quyết nữa là tinh thần phải hoàn toàn thư giãn, thanh thản. Lo âu, giận giữ, buồn rầu hay hưng phấn, vui vẻ... đều là cảm xúc có hại, vì làm mất sự quân bình của cơ thể. Tinh thần càng thanh thản, thể xác sẽ ở tình trạng hoàn hảo, tốc độ và sức mạnh của đòn tung ra sẽ đạt mức tối đa.

    Ba phần của cơ thể (đầu, mình, tứ chi) phải phối hợp hoạt động một cách tập trung để phát huy tối đa hiệu năng của đòn đánh. Võ thuật Trung Hoa cũng nhắc đến hai sự hòa hợp ngoại và nội tại. Ngoại tại là sự hòa hợp giữa tay với chân, vai với hông, chỏ với gối. Nội tại là sự hòa hợp giữa tâm với thần, thần với khí và khí với lực. Hai sự phối hợp này phải luôn đi với nhau vì mọi chuyển động của các cơ phận đều do mệnh lệnh từ não (tức là thần). Ðể đạt được sự phối hợp này, hãy bắt đầu tập các đòn thế thật chậm, từ ý nghĩ đến từng mệnh lệnh cho tay, chân, vai, hông... rồi tập nhanh dần lên.

    Tốc độ ra đòn sẽ tăng tiến dần theo số lần tập luyện. Hãy tập zhi quan (đấm thẳng), bai quan (đấm móc), gou quan (đấm vòng) hàng trăm lần mỗi ngày: cú đấm sẽ trở thành lưỡi gươm nhọn, nhanh, mạnh khủng khiếp.

    Ðấu pháp cá nhân sẽ hình thành sau thời gian dài bền bỉ luyện quyền. Sẽ không còn phân biệt đâu là công hay là thủ nữa mà thủ cũng là công và ngược lại. Thời điểm tung đòn quyết định cũng sẽ được nhận biết tự nhiên, vì các đòn thế đã nhập tâm thì sẽ tuôn ra trôi chảy một cách bản năng.

    Sắc Lang
    Lần sửa cuối bởi Hoathieugia, ngày 14-07-2008 lúc 01:47. Lý do: Tự động gộp 2 bài viết liên tiếp
    ---QC---
    Tân nương lục vấn : Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.


  2. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    vnspirit,
  3. #7
    Ngày tham gia
    Apr 2008
    Đang ở
    Hải Tần Bắc Thành Phủ
    Bài viết
    6,372
    Xu
    742

    Mặc định Võ Tây Sơn

    THƠ VÕ TÂY SƠN

    một nguồn thơ ca bị quên lãng



    Trong lịch sử dân tộc Việt Nam có trên 4000 năm văn hiến gìn và giữ nước. Trải qua biết bao thời đại anh hùng nào là Lê, Lý, Trần, Nguyễn... nhưng thời đại mà tôi yêu thích nhất là nhà Tây sơn. Cái thời mà theo quan niệm tôi: Ðất nước có một nền văn học rực rỡ, có một nền chữ viết đầu tiên, đó là chữ Nôm; và cũng là thời chiến tranh chống ngoại xâm oai hùng nhất. Ðã là người Việt, không ai không tự hào về lịch sử thời Tây sơn, cái thời đã sinh ra vị anh hùng bất tử: Quang Trung - Nguyễn Huệ, cái thời đã đưa dân tộc chúng ta lên đỉnh cao, làm cho các nước láng giềng khiếp phục. Nhưng đặc biệt nhất của thời này là nền văn học chữ Nôm ra đời, tạo nên một dòng thơ ca mang sắc thái riêng biệt đầu tiên của người Việt Nam. Trong nguồn thơ ca ấy có một "mảng" rất đặc biệt, đó là nguồn thơ ca trong võ thuật, còn gọi là Thơ Võ. Nhưng đáng tiếc thay nhà Tây Sơn quá ngắn, nhà Nguyễn lên cầm quyền, họ trả thù bằng cách hủy bỏ tất cả những gì mang dấu tích cũ. Dòng họ, con cháu nhà Tây Sơn phải lẩn trốn khắp nơi, do đó cái nguồn thơ này bị tản mạn và được lưu truyền một cách âm thầm, bí mật lan tỏa trong dân gian. Chính vì vậy mà hôm nay tôi muốn đem cái sở học từ vị võ sư của tôi đã truyền lại và xin viết lên đây một vài điều đã biết và học được về thơ võ Tây Sơn này.


    T
    hế nào là nguồn thơ ca trong võ thuật? Nói đến thơ ca việt Nam là phải nghĩ ngay đến ca dao. Ca dao là cội nguồn của dân tộc, khởi đầu từ tục ngữ, phong dao, nó mang tính thơ, nhạc và hồn người, hồn nước. Ca dao là của riêng của người Việt nam, bởi lẽ người Việt Nam chúng ta, ngay từ thủa nằm nôi đã gắn bó ít nhiều với thể thơ này. Ngày nay trong kho tàng văn hóa, ca dao đã dàn trải qua ba miền đất nước, chữ nghĩa ca dao được lưu truyền qua mọi nghệ thuật. Thể thơ lục bát đã dành được một vị trí cao trong văn học, nghệ thuật Việt Nam, tiêu biểu là truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.

    Trong cái nguồn thơ ca vô tận ấy, có một "mảng " bị lãng quên hay nói thẳng ra là đã bị mai một. Cái mảng thơ ca này rất đặc biệt, đó là thơ ca trong võ thuật gọi là "Thơ Võ". Vậy thế nào là thơ võ?

    C
    ổ nhân ta sau những năm tháng chinh chiến, đã học hỏi và đúc kết biết bao nhiêu là kinh nghiệm, thì trong những ngày tháng thanh bình, quây quần với nhau mới đem những kinh nghiệm ấy ra mà phân tích, rút tỉa cái cốt lõi truyền lại cho con cháu về sau. Sau khi "chiết" chiêu, phân thế võ, chỉ rõ các đòn, thế đánh sanh tử, họ xếp lại thành một bài võ, rồi dùng thơ ca, diễn tả các thế võ ấy một cách hào hùng, hợp với vóc dáng, nhân cách, triết lý của con người nghệ sĩ Việt Nam:

    Những khi ngày rỗi việc nhàn
    Kiếm làm một "thảo" luận bàn ngâm nga

    Hoặc:

    Nay trăm đường thế biến ra
    Kiếm làm một "thảo" ngâm nga để truyền.


    Truyền là truyền cái tâm đắc, sở học, truyền cái cốt lõi một đời người. Từ đó các bài thơ võ Hán Nôm ra đời, phép nêm vận rất là chặt chẽ, theo luật Ðường thi. Ðủ các khổ: Tứ tuyệt, ngũ ngôn, song thất lục bát... Nhưng đặc biệt là các bài phú võ, hoàn toàn làm theo thể lục bát, là nguồn thơ của người Việt Nam. Bài phú võ là một bài vè gồm các câu 6 câu 8, phép nêm vận, luật bằng trắc mang đầy tính nhạc và thơ, khi ngâm lên thể hiện được sự hào hùng, lãng đãng cái tính chất của ngàn xưa... của Tay Quyền, Ngọn Roi trong chiến trận, mang lại sự hưng phấn diệu kỳ.

    Nay xin đơn cử hai bài thơ võ sau đây để nêu rõ tính chất nghệ thuật của nguồn thơ này. Gồm một bài thơ thảo bộ "Ðồng Nhi" và một bài thảo roi "Thái Sơn".

    Thảo bộ là bài tập về tay không, và thảo roi là bài tập với cây gậy, cây côn. Roi là tiếng Nôm, mà Côn là tiếng Hán; cũng như thảo là tiếng Nôm mà quyền là tiếng Hán.

    Từ "Thảo" trong cổ thư là một thể viết chữ Hán (lệ, chân, triện, thảo) viết rất nhanh, rất nghệ thuật mà ngày nay thường gọi là lối viết bay bướm, lả lướt: "Thảo thư". Trong nét "thảo" là nét vẽ, nét hoa. Do đó khi luyện tập một bài thảo, tức là tập một bài võ ta, chúng ta có thể hình dung đó là một bài võ hài hòa, uyển chuyển, nhanh nhẹn, linh hoạt, đẹp đẽ; khác với võ Tàu và các môn võ khác trên thế giới.

    Thảo Bộ Ðồng Nhi(Ðứa trẻ thần đồng)

    - Thiệu võ
    - Bái tổ

    Chấp thử lập Ðồng Nhi
    Khuynh thân bạt thủ chi
    Tiền tấn du luân thích
    Ðình bộ lập song phi
    Ðại Bàng lai thối bộ
    "Tiên cô" tấn đả chi
    "Thái Hòa" hoành quá hải
    "Ðồng Tân" thối đả chi
    Nhị thủ giai trụ thích
    Lưỡng túc nghịch song phi
    Bạch xà lai ngọa địa
    Hồi đầu tấn thích chi
    Ðầu thân giai đả thối
    Tróc túc ác hổ tùy
    Chuyển luân khinh thoái bộ
    Nhứt hộ thủ môn kỳ
    Hồi đầu bái Tổ Sư.


    Chuyển thành tiếng Việt:
    - Phú (ca dao)

    Vào đường Bái Tổ trước tiên
    Chấp tay đứng trụ lập liền Ðồng Nhi
    Nghiêng mình bạt thủ một khi
    Bước tới tay phải tức thì đâm lên
    Dừng chân bay lập hai bên
    Ðại bàng lui bước từ trên bay về
    "Hà Tiên Cô" bước đánh liền
    "Thái Hoà" qua biển cũng lìa cung mây
    "Ðồng Tân" lùi đấm xuống ngay
    Hai tay cứng chắc đâm ngay tức thì
    Hai chân đá nghịch như phi
    Bạch xà trở lại nằm lì đất thiêng
    Quay đầu tiến tới đâm liền
    Ném mình quay lại mặt tiền đấm theo
    Ðuổi theo cọp dữ khóa chân
    Nhẹ nhàng lùi bước bánh xe xoay vần
    Một mình cọp dữ ải quan
    Trở về bái tổ là đường xưa nay.


    Qua bài thơ trên chúng ta thấy Thiệu thơ là thể thơ ngũ ngôn. Phép nêm vận, luật bằng trắc rất đúng, và bài phú là bài vè, với những câu sáu câu tám theo thể lục bát ca dao Việt Nam. Bài phú võ giảng giải ý nghĩa của bài Thiệu thơ. Qua bài phú, các động tác đều là những thế võ được gói ghém diễn tả ý nghĩa trong câu. Các từ Hà Tiên Cô, Thái Hòa, Ðồng Tân là tên các vị tiên trong "Bát Tiên", điển tích của Trung quốc. Các danh từ riêng này được giữ nguyên vì nó là điển tích của văn học. Ðể cảm nhận cái thú vị này, chúng ta tiếp tục xem bài thảo roi sau đây: Roi Thái Sơn. Bài này gồm hai bài Thiệu thơ (một bài chữ Hán, một bài chữ Nôm) và một bài phú (bài chữ Hán không ghi ra đây mà chỉ ghi hai bài sau)

    - Thiệu Thơ: Roi Thái Sơn
    - Bái Tổ

    Thái Sơn đích thủy địa Sa liên
    Thượng bổng kỳ lân quá Bạch viên
    Quí kỳ độc giác Trung bình hạ
    Thượng thích đài đăng tấn thừa thiên
    Hồi đầu trực chỉ liên tam thích
    "Ðồng Tân" thuận thế phá giang biên
    Tẩu thố tồn sơn hoành phá kiếm
    Linh miêu mai phục tấn thích ngưu
    Thừa Châu bố địa loan côn thích
    Hồi tiền kim kê đả trung lan
    Si phong sậu võ ngưu khai giác
    "Triệu Tử" đoạt thuyền giá mã an
    Hồi đầu bái Tổ Sư.


    Phú: Roi Thái Sơn

    Tay cầm roi đản khai trương
    Vọng tiền bái tổ là đường xưa nay
    Diện tiền thế ấy rất hay
    Thái sơn đích thủy, côn này đổ nghiêng
    Ðại xa phục thổ chẳng hiền
    Kỳ lân phản ứng ngựa liền cao bay
    Hoành roi một bước lướt vào
    Quí kỳ Ðộc giác trực giao diện tiền
    Côn trùng tất thích trung thiên
    Hồi đầu trực chỉ diện tiền tam giao
    "Ðồng Tân" xuất thế anh hào
    Giang biên phá trận xông vào tiền môn
    Hoành sơn thỏ chạy dập dồn
    Phục châu Hạ địa vươn côn đảo trừ
    Linh miêu núp dưới bóng người
    Chờ trân vùng dậy ngựa chuồi tới đâm
    Thừa châu côn nọ tay cầm
    Biến thiên Bố địa mà đâm diện tiền
    Lui về giữ thế trung kiên
    Ðề côn đả kích phá yên trận đồ
    Gió rung lá rung ồ ồ...
    Sừng trâu mở rộng côn đồ chiến chinh
    Thuyền rồng giữa biển linh đinh
    Mã yên "Triệu Tử" đoạt thuyền thành công.


    Qua bài Roi Thái Sơn về Thiệu thơ chỉ có 12 câu, riêng bài phú có 24 câu. Cứ hai câu phú thì giảng ý một câu Thiệu. Khi đọc hoặc ngâm nga lên, ta thấy bàng bạc cái cảnh hào hùng trong chiến trận. Tính chất văn học và điển tích rất là phong phú. Ví dụ như hai câu:

    Si phong sậu võ ngưu khai giác
    "Triệu Tử" đoạt thuyền giá mã an

    (Nếu hiểu nghĩa si phong: ngọn gió dữ; sậu võ: lá buôn; ngưu khai giác: trâu mở sừng; Triệu Tử: danh tướng trong Tam Quốc chí; đoạt thuyền: tích cứu Ấu chúa lần thứ hai bên Tôn Ngô). Nhưng khi đi vào thơ thì thật tuyệt, cổ nhân đã dịch ý như thế này:

    Gió rung lá rung ồ ồ...
    Sừng trâu mở rộng côn đồ chiến chinh
    Thuyền rồng giữa biển linh đinh
    Mã yên "Triệu Tử" đoạt thuyền thành công.


    Một cây roi được múa lên hào hùng như ở trận Tương Dương Trường Bản. Mà ở đây, một cây roi khéo léo uyển chuyển của danh tướng Triệu Tử Long trên thuyền chật hẹp. Hai đường roi ở hai trận chiến khác nhau xa. Cái khác biệt này chính là "cái ta" của người Việt Nam. Các danh từ như núi Thái Sơn, Ðồng Tân, Triệu Tử là những điển tích văn học Trung quốc. Nhưng dù sao đi nữa, nền văn hóa nước ta vẫn còn mang sắc thái này. Nhưng dùng nó trong thơ ca võ thuật cốt để khắc sâu các đòn thế, tạo được nét hào hùng khi nghĩ về chúng. Ðặc biệt là khi ngâm nga cùng lúc với diễn tập. Ðộng tác hòa hợp với lời thơ thi vị vô cùng.

    Như vậy qua hai bài thơ võ trên, chúng ta có thể mường tượng được về mục đích, ý nghĩa của nguồn thơ này. Nguồn thơ võ học thời Tây Sơn với quan niệm văn võ tương hòa:

    Văn thiếu võ, văn thành nhu nhược
    Võ thiếu văn, võ trở bạo tàn
    Võ văn hai chữ tương quan
    Lục thao, tam lược đứng hàng Hùng Anh.

    Và với quan niệm "khử vu tồn thanh" nhà Tây Sơn đã sáng lập nên một nền binh bị hùng mạnh, từ nghệ thuật chiến đấu cá nhân cho đến chiến thuật quân sự đoàn ngũ. Trong quyển "Tây Sơn Bí Kíp" của tướng Nguyễn Trung Như (một vị quan dưới thời Tây Sơn) có bài "Nghiêm Thương" của vua Quang Trung, bài Song Phục Kiếm của bà Bùi Thị Xuân và riêng Nguyễn Lữ có bài "Thảo Hùng Kê" rất là đặc sắc.

    Nguyễn Lữ là một trong ba anh em nhà Tây Sơn. Một ngày nọ, và xuân trong dịp lễ hội Tết Việt Nam, theo truyền thống dân gian thường hay tổ chức "chọi gà". Ông đã quan sát thấy một con gà nhỏ mà đã đá thắng một con gà lớn bằng mưu kế và sự khôn ngoan của mình. Ông đã sáng tạo ra bài "Hùng Kê", tiêu biểu cho con người Việt Nam với các đức tính sau:

    Con kê (gà) có dáng đi đẹp, chân có hai cựa, đó là tướng võ

    Nhưng trên đầu lại mang một cái mào (mũ) đó là tướng văn

    Thấy kẻ địch (dù to lớn) không bao giờ khiếp sợ, đó là đức Dũng

    Trong chiến đấu quyền biến và khôn ngoan, đó là đức Trí

    Khi gặp mồi (thức ăn) không ăn ngay mà túc túc gọi đàn, đó là đức Nhân.

    Và đây là bài Thiệu "Hùng Kê". Bài này không có phú mà theo ý tôi là một bài thơ rất tâm đắc, vừa có tính văn học nghệ thuật cao, lồng chứa cả triết lý và cốt lõi của võ học Việt Nam chúng ta.

    Thảo Hùng Kê:
    - Bái Tổ

    Lưỡng kê giao nạp thể tranh hùng
    Song túc tề phi trảo thượng xung
    Trấn ải kim thương như bạch hổ
    Thủ quan ngân kiếm tựa thanh long
    Xuyên cung độc tiễn tăng ư trác
    Hồi thủ đơn câu thủ tứ hung
    Thiểu tẩu, dược trâm thiên sở tá
    Nhu, cương, cường, nhược tận kỳ trung


    - Hồi đầu bái tổ.

    Dịch nghĩa:

    Hai con gà giao đấu, bắt đầu tranh hơn thua
    Ðôi chân cùng nhảy, móng vuốt bung ra
    Giữ ải với cây thương vàng, uy dũng như cọp trắng
    Giữ cửa quan với kiếm bạc, uyển chuyển tựa rồng xanh
    Mũi tên bắn ra, nhờ mỏ mổ liền
    Quay đầu về đuôi một cựa ra giữ bốn bên
    Giả chạy phóng trâm, Trời đã dạy
    Mềm, cứng, Mạnh, Yếu, đem ra hết.


    Qua bài thơ trên, cũng viết theo thể Ðường thi, đặc biệt trong bài này có phép đối chữ, đối câu với đối ý thật là tuyệt. Hầu hết các bài thơ võ trong nguồn thơ này đều có phép đối ý. Ở hai câu (3 và 4) chúng ta đọc lên, nghiền ngẫm mới cảm nhận được, hay câu kết (7 và 8). Hiểu được ý của người xưa, đó mới là điều thú vị. "Mềm, cứng, mạnh, yếu đều đem hết ra dùng. Cái "chủ ý" trong bài là lồng chứa tất cả cốt lõi của nền Võ trận Việt Nam, một nguyên lý khoa học võ thuật, một nghệ thuật chiến đấu mà nhà Tây Sơn đã có công sáng tạo dựa trên nguyên tắc: Thấp có thể tranh Cao; Nhỏ có thể đánh Lớn; Yếu có thể đánh Mạnh; Gần có thể đánh Xa mà vẫn có thể chiến thắng địch thủ một các dễ dàng.

    Tóm lại, nguồn thơ ca này tưởng đã bị mai một theo thời gian, không ngờ, ngày nay truy tìm nó vẫn còn được lưu truyền tản mạn khắp đất nước. Nó rất là quý báu cho những nhà, những người luyện võ để nhớ lại những thế võ ngày xưa (vì lúc đó chưa có băng hình để lưu giữ). Nó cũng không được lưu giữ bằng văn tự mà phần nhiều chỉ được truyền khẩu. Người viết bài này đã may mắn thu nhặt được khoảng 50 bài thơ võ đủ các thể loại trong phạm vi 6 tỉnh nhân một chuyến đi Bình Ðịnh, và cũng đã hân hạnh xem một tập thơ võ, di bút của một võ sư tên tuổi lúc bấy giờ đã ghi chép lại trên 80 bài thơ phú của nguồn thơ ca này.

    Nay, tôi xin được đơn cử đôi bài giới thiệu đến mọi người yêu võ thuật mà từ trước đến nay chưa thấy ai nhắc đến để may ra cứu vớt , phục hồi một nguồn Thơ Võ Tây Sơn đã một thời vang bóng.

    Nha Trang, quê tôi, nơi đã lưu giữ một phần nguồn thơ này - nơi mà tôi có được "tình yêu" và cuộc sống.

    Bài viết của tác giả Lê Đẩu
    Tân nương lục vấn : Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.

  4. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    vnspirit,
  5. #8
    Ngày tham gia
    Apr 2008
    Đang ở
    Hải Tần Bắc Thành Phủ
    Bài viết
    6,372
    Xu
    742

    Mặc định

    NHẠC VÕ TÂY SƠN


    Tỉnh Bình định là nơi còn giữ được nhiều bộ môn văn hóa đặc thù như: hát bội, bài chòi, võ thuật và Nhạc võ Tây Sơn. Trong phạm vi bài này, người viết xin lạm bàn đến môn Nhạc Võ Tây Sơn.

    TỪ VĂN MINH TRỐNG ÐỒNG

    Bộ môn văn hóa này, theo dân thoại Bình Ðịnh gọi là "Nhạc Võ Tây Sơn" và theo nhạc pháp gọi là "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ". Ai cũng biết, sắc thái đặc biệt trong nền văn hóa cổ xưa của người Việt nổi bật hơn cả là việc dùng trống. Những cuộc khai quật đã đem đến cho các nhà khảo cổ cái trống đồng mà đặc trưng hơn cả là "trống đồng Ngọc Lũ" là chứng cớ đặc biệt của nền văn minh Việt.

    "Tiếng trống từ xưa đến nay đối với dân tộc Việt Nam vẫn là hiệu lệnh để thi hành công việc tập đoàn, để báo hiệu một công việc có quan hệ chung, trống ra quân, trống ngũ liên, trống thu không, trống cầm canh... thường ở đình làng nào cũng có cái trống lớn để báo hiệu, trước khi là một công việc nghệ thuật từ trống chầu đến cầm chầu cho con hát. Vậy dụng ý của trống đồng là đại biểu uy lực của thủ lãnh quần chúng, ban hành mệnh lệnh để rồi trở nên huy hiệu của mệnh lệnh và trở nên thiêng liêng, cho đến thời quốc gia độc lập mới có đền thờ "Ðồng Cổ" như là quốc giáo (1).

    Vì vậy, ta có thể nói rằng việc chế tạo và sử dụng trống là sở trường của Văn Hoá Việt Nam, và không có chi là lạ khi ta biết rằng trong thời Tây Sơn (1788-1802) sắc thái đặc biệt nọ của văn hóa dân tộc được anh em Nguyễn Nhạc khai thác đến triệt để, thì nghệ thuật chơi trống cũng đưa đến tuyệt đỉnh

    ÐẾN NHẠC VÕ TÂY SƠN

    Nhạc khí căn bản của nhạc võ Tây Sơn là một dàn trống do quân Tây Sơn dùng khi thao diễn quân sĩ tại võ trường, khi xuất quân cho khí thế thêm mạnh mẽ, khi thúc quân lướt tới trận mạc cho mau lẹ, khi cần hành quân tiến thối nhịp nhàng, khi hãm thành cho uy thế thêm mãnh liệt, hoặc là khi khải hoàn mà reo mừng thắng trận.

    Bộ trống đúng theo kinh điển gồm 12 cái, mỗi cái mang tên một con giáp của thập nhị chi: tí, sửu, dần, mẹo, thìn... và khi học nhạc thì tên các con giáp này cũng là tên các cung bậc do tiếng trống phát ra. Ðường kính mỗi trống lớn, nhỏ khác nhau, da bịt trống thì căng chùng, thẳng cũng khác nhau nên tiếng trống cao thấp khác nhau.

    NGHỆ THUẬT ÐÁNH TRỐNG

    Khi đánh trống thì nghệ sĩ dùng roi trống (dùi trống), có khi bỏ cả roi trống mà chỉ dùng những ngón tay, dùng bàn tay, dùng nắm tay, dùng cùi chỏ... nghĩa là dùng đủ cả bộ phận của hai tay. Trường hợp dùng roi trống thì cứ mỗi nhịp điệu cử động của ta là ta có thể nghe được bốn âm thanh phát ra: nơi đầu roi trống (1), kéo sang đuôi roi trống (2), hạ cùi chỏ xuống (3), và bật ngửa nắm tay vào mặt trống (4). Cứ như thế mà hai tay của nghệ sĩ nhảy múa trên 12 cái trống khi lơi lả nhẹ nhàng, khi dồn dập gấp rút, khi phấn khởi khoan thai. Chỉ có hai cái tay mà đánh cả một dàn trống 12 cái nên nhạc pháp gọi là "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ".

    Tuy nhiên, trong trường hợp mà nghệ sĩ vượt khỏi tầm kinh điển đến bậc siêu thặng thì ngoài 12 cái trống đặt ngay trước mặt để cho hai tay sử dụng theo đúng nhạc pháp Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ, hãy còn đặt thêm 5 cái trống khác ở phía sau: một cái đặt ngang nơi đầu để đầu ngả ngửa húc vào, hai cái đặt ngay hai bên hông cho hai cùi chỏ thúc vào và còn hai cái nữa thì đặt cho vừa tầm hai gót chân để đá hậu vào, vị chi là 17 cái trống. Nghệ sĩ "chơi" nổi 17 cái trống (ông Tám Ngang) thì không còn nữa, mà trước đây chỉ còn có nghệ sĩ chơi được 12 trống mà thôi. Tuy nhiên, khi nghe xem thì vẫn thấy là siêu việt.

    Trước khi chơi, nghệ sĩ đi một đường quyền, bái tổ rồi mới bắt đầu đánh trống và các bản nhạc lần lượt nổi lên. Nghệ sĩ, điệu bộ hùng dũng, công lực dồn lên nét mặt, trổ ra hai tay dồn dập bên 12 cái trống xem như một nghệ sĩ đang múa đường quyền bên 12 cái trống kiểu lăng ba vi bộ nên mới gọi là nhạc võ. Nghệ sĩ chơi bộ môn này cần phải biết võ thuật và khiếu thẩm âm để sự biệu diễn tăng thêm phần ngoạn mục.

    NGHỆ THUẬT BỊ MAI MỘT

    Những năm trước đây, không nghe ai nhắc đến "Nhạc Võ Tây Sơn" là vì một lẽ dễ hiểu. Thói đời thắng được thì là vua mà thua là giặc. Khi nhà Tây Sơn thất bại, nhà Nguyễn Gia Long chiến thắng, nhà Tây Sơn bị nhà Nguyễn tru di đến nỗi mộ phần của các Ngài cũng bị quật lên, nghiền xương tán nhỏ làm thuốc súng bắn xuống biển, các tôi trung nhà Tây Sơn đều phải mai danh ẩn tích. Thậm chí đến những cái hay của nhà Tây Sơn cũng phải dấu đi kẻo để lộ cho người khác biết được đi báo thì sẽ bị tù đày. Do đó mà di tích nhà Tây Sơn đều bị phá bỏ hết. Ðồng bào Bình Khê thương nhớ ba Ngài lén lập đền thờ mà bề ngoài cũng phải ngụy trang là miếu thờ thần. Ai có thương nhớ giữ được cái gì hay của Ba Ngài thì để bụng chẳng dám phô trương vì sợ chính quyền nhà Nguyễn mà hay được thì không tránh khỏi hậu quả khốc hại. Nhạc võ Tây Sơn cũng cùng chung cái số phận này.

    Tôi cũng xin phép mở một cái dấu ngoặc tại đây để nêu lên một lý do thứ hai (Thi sĩ Quách Tấn cho biết: Ngày xưa, môn võ thuật Bình Ðịnh chia làm 4 bộ môn: côn, quyền, kiếm, cổ (trống) chứ không phải kích.

    Về môn Cổ thì võ sinh thường treo lủng lẳng ngay hàng, hàng năm, muời cái trống (loại trống chầu hát bội) để tập võ. Võ sinh sẽ đánh, đá vào cá cái trống ấy. Trống bị sức mạnh đánh, đá sẽ văng ra xa và nhờ dây treo thối ngược lại. Lối tập võ bằng trống này, một là để tạo những cú đánh (đấm), đá mạnh, nặng cân hơn; hai là để tập sự nhanh nhẹn chống đỡ, tránh né. Nếu ai không tinh mắt lẹ tay thì chắc chắn sẽ bị trống thối ngược lại đập cho vỡ mặt, gãy xương.

    Lần về sau, dường như con người mỗi ngày một yếu dần nên không còn ai dám tập võ bằng trống nữa mà tập bằng những bao đựng cát hoặc bằng bưởi, bòng... Từ đó, danh từ tập võ bằng trống không còn ai dám nhắc tới vì nhắc tới cũng thêm hổ thẹn với người xưa, dần dà rồi mai một.

    Có người bảo Nhạc Võ Tây Sơn là biến thể của lối tập võ bằng trống này. Ðiều đó không lấy gì làm chắc. Nhưng nếu quả vậy thì nhà Tây Sơn thật là kỳ tài đã khéo khai thác từ bộ môn võ thuật chuyển sang bộ môn âm nhạc, rồi lại dùng âm nhạc mà giáo dục võ thuật, gây không khí hào hứng trong quần chúng, kích động lòng hăng say chiến đấu của các chiến sĩ bằng tiếng trống.

    Ngày nay, tại Kampuchia, người ta cũng dùng trống để tập võ. Trên võ đài Miên mà thiếu tiếng trống thì võ sinh không tài nào biểu diễn được). Xin khép ngoặc lại.

    NHƯNG CÓ NGƯỜI CÒN GIỮ ÐƯỢC CHÂN TRUYỀN

    Nhưng may thay, vận nước đổi dời, khi thực dân bị lật đổ, nhà Nguyễn cũng nhào theo thì chỉ có hai người, một ở Bình Khê (nay là Tây Sơn) và một ở Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, còn giữ được cái chân truyền ấy và xem như quốc bảo. Người ở Bình Khê là ông Tám Ngang, ông là người sử dụng được 17 cái trống, ông đem dạy lại cho ba người: hai đứa con trai ông và một người học trò. Ðứa con trai đầu chết, đứa thứ hai thì năm 1954 ở trong đoàn văn công của Việt cộng tập kết ra Bắc, còn lại người học trò kia là nghệ sĩ Tân Phong (tức Nguyễn Phong). Người ở Tuy Phước tên là ông Bầu Thơm (tức Võ Ðôn) là một ông bầu hát bội và cũng là một nhạc sư về loại nhạc hát bội, ông dạy lại một người học trò đó là nghệ sĩ Mười Thông (tức Hoàng Thông) là một nghệ sĩ hát bội và một roi trống hát bội có hạng.

    Hai ông thầy vì tuổi già đã qui tiên còn lại hai người học trò trên kia, tuy không phải bậc siêu đẳng đánh nổi 17 trống, song cũng học được đúng truyền thống của nhạc pháp "Song Thủ Ðả Thập Nhị Cổ". Trước năm 1975, ở Phù cát có anh Nguyễn Việt cũng tập đánh được 12 trống và ở Bình Khê có hai em bé gái (một em 7 tuồi, và một em 12 tuổi) do đoàn Ca Võ Nhạc Tây Sơn đào tạo cũng tập đánh được 5 trống (ngũ âm) xem rất ngộ.

    Riêng Tân Phong, anh là một nghệ sĩ chơi thạo các môn như vẽ vời, ca hát, đờn địch, đắp tượng, chạm trổ, điêu khắc, viết tuồng, đóng kịch... Cái gì anh cũng thảy làm được. Nghe đâu anh cũng đã thất lộc cách đây vài năm. Xin thắp cho anh một nén hương lòng thương tiếc một người bạn tài hoa.

    GIÓNG TRỐNG KHẮP NƠI

    Trước năm 1975, anh Tân Phong vì mang nặng một tinh thần dân tộc nên anh sẵn sàng muốn truyền lại cho đoàn hậu bối cái quốc túy của văn hóa dân tộc, anh cũng đã thuận lời mời đi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn này nhiều nơi. Tôi còn nhớ:

    Ngày 8-11-1967, Hội Văn Hoá Bình Dân Sài Gòn mời anh trình diễn tại trường Quốc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ tại Sải Gòn nhân có buổi lễ của cơ quan UNESCO tổ chức tại trường này.

    Ngày 11 và 12-1-1968, trình diễn tại rạp Thống Nhất Sài Gòn và sân Tinh Võ Chợ Lớn do ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn Bình Khê tổ chức dưới sự giúp đỡ của Hội Ðức Trí Thể Dục SAMIPIC (Société pour l'Amélioration Moral Intellectuelle et Physique des Indochinois de Cochinchine) và đoàn thể Vovinam.

    Ngày 16-8-1969, trình diễn tại Trung Tâm Văn Hoá Bình Ðịnh tại Qui Nhơn nhân ngày khánh thành Trung Tâm này có sự chứng kiến của ông Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền, đặc trách Văn Hoá, ông Ðại sứ Ðại Hàn Dân Quốc và rất đông quan khách Việt Hàn Mỹ tham dự.

    Ngày 15-3-1970, được phái đoàn điện ảnh Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị thu hình và đã trình chiếu trên màn ảnh truyền hình Việt Nam vào đêm 25-4-1970 tại Sài Gòn và tại Cần Thơ, Qui Nhơn, Huế vào các đêm kế tiếp.

    Ngày 18-6-1970, được phái đoàn Ðiện ảnh Bộ Thông Tin thu hình làm phim tài liệu và sẽ trình chiếu trên các màn ảnh ciné và truyền hình.

    Nghe đâu, sau năm 1975, hai em bé ở Bình Khê mà đoàn Ca Nhạc Võ Tây Sơn đào tạo năm nào nay cũng đã mang trống Tây Sơn đi đánh xứ người, được nhân dân nhiều nước tán thưởng.

    Ngoài ra, hàng năm vào ngày mồng 5 Tết tại điện Tây Sơn Bình Khê, tiếng trống kích cảm của môn Nhạc võ Tây Sơn đã vang lên mở đầu cho chương trình tế lễ vua Quang Trung và lễ hội Tết đống Ða, kỷ niệm trận chiến thắng quân Thanh oanh liệt nhất trong lịch sử của vua Quang Trung Nguyễn Huệ vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1979.

    Ai có dự xem trên phim ảnh các lối đánh trống ở nước ngoài đều phải công nhận rằng nghệ thuật đánh trống của Tây Sơn thật là kỳ ảo.

    Trước năm 1975, ban Phổ biến Nhạc Võ Tây Sơn lại còn biểu diễn phối hợp giữa Nhạc võ Tây Sơn và Võ thuật Bình Ðịnh bằng cách khi nhạc võ nổi lên thì các võ sinh nam nữ ở bên ngoài đi những đường quyền, những đường côn, siêu, đao... múa, đá, tọa, nhảy nhịp nhàng theo tiếng trống và đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa xem chẳng khác chi những corps de ballet của Tây phương.

    BÀI BẢN NHẠC VÕ

    Vì mang danh là nhạc võ nên bài bản phần nhiều cũng mang tính chất quân sự như bài: Khai Trường, Xuất Quân, Hành Quân, Hãm Thành, Khải Hoàn.

    Nhạc võ Tây Sơn, muốn biểu diễn đúng theo truyền thống và xem cho đẹp mắt thì trước hết, đi đầu là bộ phận của chiêng, trống, có quân hầu, lọng che; theo sau là hai toán quân (mặc áo cạp nẹp, chân quấn vòng ve, đầu đội nón dấu, tay cầm đao, kiếm, côn...) rồi đến giàn Nhạc Võ đặt trên một chiếc xe đẩy (Nhạc trưởng đứng giữa, hai bên là bốn nhạc công: đờn, kèn, xụp xõa, mõ phụ họa); sau rốt là vị tướng chỉ huy lẫm liệt trên mình voi hoặc ngựa.

    Bắt đầu biểu diễn, vị tướng kêu gọi:

    Ngoài biên thùy quân thù xâm lấn
    Trong nội tình đất nước lâm nguy
    Phận làm trai sinh tử nẹ chi
    Quyết một dạ lên đường cứu quốc!


    Nhạc trưởng tiếp theo

    Anh em ơi!

    (Toàn thể nhạc công) "Dạ"

    Lệnh trên đà ban xuống
    Phận dưới phải thi hành
    Dùng kế mưu kích cổ đa thanh
    Ðịch lầm tưởng hùng binh vạn đội


    Ðằng trước khởi chinh cổ, giàn nhạc võ nổi lên và lần lượt theo các bài bản do vị tướng chỉ huy.

    1.- Bài Khai Trường

    Bài Khai Trường chỉ dùng để luyện tập quân sĩ hay chào mừng các vị tướng chỉ huy khi cần đến diễn võ trường. Ðiệu nhạc khoan thai, hùng dũng.Thuở xưa, mỗi dịp có vị Hoàng đế hay vị Nguyên soái đến diễn võ trường để mở một cuộc diễn võ, tập võ hay là chọn tướng sĩ thì khi vị ấy bước vào võ trường, mỗi xứ có một điệu nhạc riêng để chào mừng nhà lãnh đạo. Riêng đối với quân Tây Sơn, điệu nhạc đó là ba hồi trống khai trường. Nhưng mà nhạc hát bội thường chỉ có hai cái trống căn bản gọi là "trống âm" và "trống dương" hay "trống quân" và "trống chiến". Nếu người ta biết rằng hát bội ngày nay là do cụ Ðào Tấn ở Bình Ðịnh lập thành qui chế, thì phép đánh trống của hát bội cũng đánh nhái theo điệu Khai Trường của Nhạc Võ Tây Sơn.

    Trống Khai Trường của hát bội phải đánh đúng ba sách, mỗi sách tám phách. Khi đánh đúng 24 phách, nhạc sĩ mở ra thành trống chiến và chờ cho trống quân gióng giáp ba hồi lại 9 tiếng thì người trống chiến phải thét theo. Khi thét xong, nghĩa là khai trường xong thì nhạc sĩ mở trống ra cho nghệ sĩ ra sân khấu. Lúc đó thì người hát hát thứ gì, nam, khách hay xuân... thì người đánh trống phải đánh theo thứ ấy. Nhưng thường người đánh trống chỉ được quyền đánh khi người nghệ sĩ trên sân khấu đã "thủ" và "vĩ". Nếu người đánh trống tự ý đánh theo, gọi là đánh nhái.

    Nói về bài bản của nhạc hát bội thì có 8 bài kể từ bài nhịp một đến nhịp tám còn âm thanh hay hoặc dở tùy theo người nhạc sĩ bắt già hay non mà thôi.

    2.- Bài Xuất Quân

    Xuất quân có nghĩa là đem quân đội ra chiến trường, nó có nghĩa là khởi hành và bao giờ khởi hành thì điệu nhạc phải làm sao cho tinh thần chiến sĩ phấn khởi lên, hăng hái lên và cũng phải gây cho được trong lòng mọi người một niềm tin chiến thắng. Do đó, nhạc xuất quân của Nhạc Võ Tây Sơn theo điệu này là một điệu nhạc hùng, nhịp của nó càng nhặt làm cho tim mọi người đập càng lúc càng mau, nghe hăng hái, phấn khởi.

    3.- Bài Hành Quân

    Ta tưởng tượng một đạo quân hùng hậu đã xuất quân trong tình thần tối cao nhưng mà sau một khúc đường dài chắc hẳn cũng đã thấy mệt mỏi. Trong lúc ấy vị tướng chỉ huy chỉ kêu gọi nầng cao tinh thần suông, chúng ta có cảm tưởng rằng lời kêu gọi ấy không được đáp ứng. Trái lại, nếu lời khuyến khích là một lời êm ái, dịu dàng, có vẻ vui vẻ, có vẻ đùa cợt ... thay vì đem lời hùng hồn thì đem lời an ủi êm ái, chắc có lẽ kết quả sẽ hay hơn.

    Ðọc truyện Tàu, chúng ta còn nhớ lúc Quản Di Ngô ngồi trong cũi để được đưa về nước Tề thì thấy các quân khiêng cũi hơi mệt mỏi nên Quản Di Ngô bèn đặt ra những bài ca, bài hát để cho quân sĩ đi theo nhịp bài ca mà quên mệt mỏi. Còn trong dã sử của Tây Sơn, người Bình Khê thường thuật lại rằng: Khi quân Tây Sơn đi ra Thăng Long ngày đêm không nghỉ phải hai người võng một người thì tránh sao khỏi cái việc khiêng liên tiếp mười mấy ngày, quân Tây Sơn cũng có thể mệt mỏi, và huyền thoại truyền rằng vua Quang Trung mới bày ra chuyện thi đua kể chuyện tiếu lâm để cho quân sĩ hào hứng quên sự mệt mỏi và, chúng tôi cũng tin rằng không biết chừng dàn trống của Nhạc Võ Tây Sơn lúc ấy lại trổi khúc hành quân nhằm mục đích giống như mục tiêu của việc thi đua kể chuyện tiếu lâm trên kia.

    Khúc nhạc này của Nhạc Võ Tây Sơn cũng diễn tả được cái ý nghĩ đó. Khúc nhạc này có đoạn nhạc sĩ chỉ đánh thuần bằng tay không, bằng những ngón tay, bàn tay, nắm tay và cùi chỏ nghe rất vui tai và xem đẹp mắt.

    4,- Bài Hãm Thành

    Bây giờ chúng ta lại tưởng tượng tiếp như đoàn quân Tây Sơn đã đến dưới chân thành và vị tướng chỉ huy đã ra lệnh hãm thành thì phận sự của nhạc sĩ sử dụng giàn trống là phải gây cho chiến sĩ một tinh thần nỗ lực tối đa để công phá thành trì hầu cướp được cho mau lẹ. Ðiệu nhạc này nghe thật là sôi nổi, dồn dập, kích động tối đa lòng dũng cảm của mọi người.

    5.- Bài Khải Hoàn

    Và sau cùng là bài Khải Hoàn. Ðiệu nhạc này dĩ nhiên âm thanh phải diễn đạt cho được sự vui mừng, phấn khởi, hò reo của kẻ chiến thắng.

    Ai đã có nghe xem Nhạc Võ Tây Sơn sẽ nhận rõ điều đó. Tôi nói nghe và xem vì Nhạc Võ Tây Sơn xem đã đẹp mắt mà nghe cũng vui tai. Ðiệu bộ và âm thanh hòa nhịp khi khoan, khi nhặt, khi bổng, khi trầm, khi lơi lả, lúc dồn dập thật là khó tả.

    TÂM TÌNH NGƯỜI VIẾT

    Người viết bài này hân hạnh trước đây đã có mặt trong tất cả các buổi trình diễn Nhạc Võ Tây Sơn, nhưng không có lần nào mãn nguyện. Bởi lẽ, theo người viết, bộ môn văn hóa này cần phải được chấn hưng và trình diễn theo đúng truyền thống. Thế nhưng từ trước đến giờ, về mặt chính quyền thì ít để ý đến, mặc dù trên thực tế đã công nhận nó là hay và siêu việt nhưng không đật thành kế hoạch để chấn hưng. Còn nghệ sĩ thì vì thiếu sự để ý, đề cao của chính quyền, nên mặc cảm bị bỏ rơi, phần thì bận rộn sinh kế làm ăn nên cũng không công đâu tập luyện. Cho nên trong tất cả những lần trình diễn, người nghệ sĩ đều ở trong tình trạng bị "bắt cóc", chẳng khác nào bắc nước sôi rồi mới đuổi gà nên không tránh khỏi sự lụp chụp vì thiếu chuẩn bị, thiếu tập dợt; nghệ sĩ nhớ được ngón nào học được của ngày trước thì trổ ra ngón ấy chứ không có thì giờ xét duyệt lại, tập tành thêm cho hay, cho hoàn mỹ và thường chỉ trình diễn thuần việc đánh trống, thiếu phần phụ họa.

    Người viết xin mạn phép ước mơ mà đề nghị với nhà hữu trách Việt Nam sau này, nặng tình với Văn Hoá Dân Tộc, nếu xét thấy bộ môn Nhạc Võ Tây Sơn là một quốc túy và có một giá trị lịch sử huy hoàng thì cần phải đật kế hoạch cụ thể để bảo tồn và phát huy. Tìm kiếm những nghệ sĩ nào còn giữ được chân truyền bộ môn này, truyền lại cho đoàn hậu tấn.

    Ngày xưa, "Người Việt đã nghe tiếng gọi của Trưng Trắc, Trưng Nhị mà chống lại Tô Ðịnh muốn lấy luật pháp mà trói buộc; đã mười năm gian khổ theo Lê Lợi để khỏi phải bím tóc và kết đuôi sam giống người Minh; đã cùng Nguyễn Huệ đánh trống tiến quân vào Thăng Long để đuổi đám tướng binh nhà Thanh nhiễu loạn cuộc sống của dân chúng. Và chắc chắn mãi mãi về sau này, dân tộc Việt Nam còn thì văn hóa dân tộc Việt Nam cũng vẫn có, và vẫn còn cái tinh thần bất khuất để bảo vệ nền văn hóa của dân tộc" (2). Bởi vì tiếng trống Lạc Việt luôn luôn mang nặng tình tự dân tộc và văn hóa Việt Nam không bao giờ thiếu vắng tiếng trống đặc trưng đó

    Bài của tác giả Thái tẩu
    Tân nương lục vấn : Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.

  6. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    vnspirit,
  7. #9
    Ngày tham gia
    Apr 2008
    Đang ở
    Hải Tần Bắc Thành Phủ
    Bài viết
    6,372
    Xu
    742

    Mặc định

    VÉN BỨC MÀN BÍ MẬT CỦA CHÙA THIẾU LÂM

    Các nhà khoa học ngày nay đang có khuynh hướng chạy về phương đông để nghiên cứu về nền văn minh hàng ngàn năm trước tại các nước Á Đông.

    Với những triết lý cao siêu mà gần đây đã làm trấn động và gây kinh ngạc cho các giới Tây Phương như ngành : Châm Cứu, Thôi Miên, Zen, Yoga, Tai Chi, v...v...

    Các nhà khoa học đã công nhận và đem vào bệnh viện chữa trị cho bệnh nhân dưới hình thức vật lý trị liệu, châm cứu và đồng thời họ cűng sáng chế ra những loại máy điện tử để rò ra những huyệt đạo trong cơ thể con người.

    Thiếu Lâm là một bộ môn rất cao siêu và minh triết mà hầu hết mọi người đều biết đến. Tinh hoa của Thiếu Lâm là Võ Đạo. Thực sự ra võ thuật chỉ là những kỹ thuật tự vệ, dùng quyền cước để chiến đấu. Nhưng nếu võ thuật chỉ giới hạn ở phần tự vệ và chiến đấu thì thật là thiếu sót rất lớn cho kho tàng văn hóa Đông Phương và mất đi phần minh triết cao siêu của chữ ĐạO mà các giới Tây Phương đã thầm thán phục và ngưỡng mộ.

    Võ là ĐộNG, Đạo là TịNH. Tinh thần Võ Sĩ Đạo là mượn cái động để trở về cái tịnh. Có tịnh thì con người mới lập được quân bình cho chính mình. Có quân bình trong cơ thể thì mới phát sinh phần sáng suốt của trí tuệ.

    Ngày xưa Đạt Ma sư tổ sang Trung Hoa truyền môn nội công, khí công và tĩnh tọa cho các đệ tử ở chùa Thiếu Lâm (hay còn gọi là công phu) hầu giúp các vị sư được khỏe mạnh, sống lâu và đầu óc minh mẫn, sáng suốt một cách phi phàm (mở tuệ).

    Nội công là những thao tác giúp ta tự khai mở những huyệt đạo trong cơ thể, kết nạp thanh khí điển của càn khôn vű trụ và đồng thời khử đi phần trược khí trong cơ thể. Trược khí nhiều thì sinh ra bệnh hoạn. Do đó nhờ luyện nội công cűng giúp cho ta quán thông được ngű hành và tứ đại của bản thể. Qua đó tâm tánh của chúng ta sẽ trở nên trầm tĩnh, hiền hòa và bác ái.

    Khí công là phương pháp luyện khí đan điền, dùng hơi thở để nạp khí hạo nhiên và khôi phục lại nguyên khí. Khi nguyên khí được khôi phục thì con người sẽ được trường thọ, trẻ trung và vui vẻ yêu đời (hay còn gọi là pháp trường sinh).

    Nhờ vận chuyển nội công và khí công hàng ngày, đốc mạch và nhâm mạch sẽ khai thông, từ đó con người sẽ sinh ra sáng suốt, minh mẫn và sẽ đi đến chỗ vi diệu mà hành giả cűng khó thố lộ ra cho người khác biết.

    ÕTrở lại vấn đề, do bối cảnh lịch sử sau này, từ những bộ nội công và khí công căn bản đó, Thiếu Lâm mới tác chế thành 72 đòn tay (cầm nã thủ), 72 đòn chân (bát quái kỳ môn địa tấn), 108 đòn chõ, 72 tuyệt kỷ thân pháp căn bản.

    Sau khi đã đầy đủ nội lực căn bản (nội công) thì mới bước sang bài quyền.

    Căn bản của một bài quyền bao gồm tấn pháp, thân pháp, quyền pháp và cước pháp. Tùy theo trình độ, nội lực, khí lực, võ sinh sẽ học những bài quyền đi từ sơ cấp cho đến trung cấp như : tiểu niệm mầu, tiểu khai môn, tứ trụ, la hán quyền, mai hoa quyền, v...v... Bước vào hàng trung cấp, võ sinh sẽ được chọn lựa để học chuyên ngành tùy theo thể tạng và sở trường của mình để luyện thành tuyệt chiêu.

    Người tạng nhỏ thì luyện Báo Quyền, người thấp mà thân thể rắn chắc thì luyện Hổ Quyền, người trung bình thì luyện Xà Quyền, tạng người to lớn thì luyện Long Quyền, tạng người gầy cao thì luyện Hạc Quyền, v...v...

    Muốn bước lên học tiếp những bài quyền của hàng cao đẳng thì cűng tùy theo căn duyên và trình độ nội lực và khí lực của hành giả. Vì nếu nội lực và khí lực chưa tròn đầy mà gắng tập hoặc lóm sẽ bị nội thương hoặc tẩu hỏa.

    Tiểu đắc công phu căn bản của hàng trung cấp là xúc cốt công, nhuyễn công hay còn gọi là huyền công, đàn kình, khí kình và khinh linh quyền.

    Khinh Linh Quyền là sự huyền diệu của tấn pháp, thân pháp, quyền pháp, cước pháp phối hợp cùng tâm ý hiệp nhất. Cương, nhu, dűng, trí, tịnh, trong hư mà thật, trong thật mà hư, trong cương mà nhu, trong nhu mà cương, huyền huyền, ảo ảo, biến hóa không lường. Từ đây, hành giả mới bước sang lục hợp.

    Lục Hợp là sự phối hợp giữa khinh linh và huyền công để điều khiển ngű hành, tương khắc, tương sinh. Từ lục hợp mới bước sang tĩnh tuệ quyền, vô vi quyền (vô vi là sự trống không nơi tâm mà người đòi thường có câu : vô chiêu thắng hữu chiêu).

    Vô Vi Quyền là liên kết giữa hệ thống thần kinh và huyệt đạo trong cơ thể nhờ vào sự công phu lâu ngày, do đó những huyệt đạo trong cơ thể sẽ dẫn khí lực ra rất mau. Khi muốn xuất thủ thì đòn tự ra chứ không còn phải vọng tâm mà động thủ. Nói cho dễ hiểu là mỗi cử động đều nhanh như phản xạ của cặp mắt khi gặp bụi thì nhắm lại, khi té thì tay tự đỡ lấy thân chứ không cần phải suy nghĩ trước khi nhắm mắt hay chống tay. Từ vô vi quyền mới tác chế ra bài lúy quyền (võ say). Đứng ở tư thế mất thăng bằng như người say rượu mà vẫn xuất chiêu nhanh nhẹn, chớp nhoáng và đầy uy lực. Đến giai đoạn này, hành giả mới bắt đầu luyện bài Đạt Ma Khí Công.

    Đạt Ma Khí Công : Thao tác đưa đến vô vi, vô vi đua đến khí lực, khí lực nuôi dưỡng thao tác. Thao tác có sự sắp xếp thứ tự sinh ra bài Đạt Ma Khí Công. Khi luyện Đạt Ma Khí Công, tâm linh sẽ được phát triển một cách sáng suốt, hiền hòa, từ bi, huyền diệu vô cùng. Giai đoạn này hành giả sẽ tự ngộ pháp, trí huệ sẽ mở về bên triết giới và lúc này hành giả mới thật sự thấu hiểu Thái Cực.

    Thái Cực Quyền : là sự động tịnh biến hóa của lưỡng nghi mà tri giác không kịp kiểm soát (âm dương chi mẫu).


    Biển có lặng minh châu mới phát,
    Lòng cho yên mới hiện được thần.


    Tâm thật yên lặng thì mới có thể thấu hiểu được yếu lý của Thái Cực Quyền. Thái Cực là nguyên lý cấu tạo nên càn khôn vű trụ. Do đó Thái Cực Quyền là trình độ của các cao nhân đã qua qúa trình lãnh hội võ đạo và đắc pháp công phu mới đi theo bài Thái Cực để luyện tâm và ý. Thái Cực Quyền không chỉ giới hạn là một môn võ dưỡng sinh như nhiều người lầm tưởng. Thái Cực Quyền là sự tổng hợp của các tinh hoa của võ đạo. Tóm lại võ đạo là mượn cái động để trở về với cái tịnh hầu lập lại quân bình âm dương trong cơ thể, khỏe mạnh, sống lâu, hòa ái, vui vẻ trong một tinh thần sáng suốt và minh mẫn.

    Vű môn thái cực khí thành văn
    Thế sự như kỳ bất chấp tâm
    Khôi phục nguyên âm thần hiển lộ
    Công phu hành tiến ngọc khai vầng.


    Kính Bái,

    Võ sư Lý Hồng Tuấn

    Sưu tầm
    Tân nương lục vấn : Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.

  8. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    vnspirit,
  9. #10
    Ngày tham gia
    Apr 2008
    Đang ở
    Hải Tần Bắc Thành Phủ
    Bài viết
    6,372
    Xu
    742

    Mặc định

    DỊCH CÂN KINH 2 THÌ VÀ 4 THÌ


    Dịch Chân Kinh 2 Thì

    Đứng thẳng người, 2 cánh tay song song với thân người, lòng bàn tay hướng ra sau, cong lưỡi ngậm miệng.

    Tác dụng : Điều chỉnh hệ thần kinh thăng bằng cho cơ thể không bị đảo . Nếu tập quen chừng 50 lần thì cổ tay và cổ chân sẽ ấm, như thế là tập đúng.

    Thế này khai thông các huyệt âm dương kiều mạch và kích thích các huyệt âm dương duy mạch.

    Thì 1: Hít vào chậm chân nhón gót từ từ, 2 cánh tay song song cho ra phía trước và di chuyển từ từ lên ngang tầm mắt, bàn tay vẫn xòe, cổ tay cong, các ngón hướng xuống đất.

    Thì 2: Đổi hướng bàn tay, đưa lòng bàn tay ra phía trước, các ngón tay hướng lên trời Thở ra từ từ, 2 gót chân cũng hạ xuống từ từ theo 2 cánh tay từ từ hạ xuống đưa về phía sau lưng nhưng lòng bàn tay úp, các ngón hướng về phía trước. Tay và chân cùng khởi động và cùng nghỉ trùng nhịp.

    Trở lại thì 1 :
    Đổi hướng bàn tay, cho các ngón hướng về phía sau, lòng bàn tay ngửa và bắt đầu thì 1 lại.

    Động tác 1 là hít vào nhón gót lên thì 2 tay đưa lên ngang vai, nhưng chỉ khác là bàn tay và ngón tay lại chỉ xuống đất. Động tác 2 thở ra, 2 gót chân hạ xuống, cánh tay cũng xuống, Đưa ra sau nhưng bàn tay và các ngón tay lại hướng lên trời.

    Tác Dụng : Mở và kích thích 4 huyệt Âm Dương kiều mạch và Âm Dương duy mạch. Đó là cách thể hiện âm dương hòa hợp. Chân nhón gót là dương thì bàn tay chỉ xuống đất là âm. Chân hạ gót xuống đất là âm thì bàn tay và ngón tay lại chỉ lên trời là dương.

    Mục đích của động tác này là luyện thần kinh cho quen dần vói sự giao động tương phản để hòa hợp âm dương theo dịch lý đông phương là : ' Trong âm có dương, trong dương có âm '


    Dịch Chân Kinh 4 Thì (10 lần)



    Thì 1: Hít vào, nhón gót từ từ lên cao
    cùng lúc với đưa cánh tay lên ngang vai, chân nhón lên cao là dương, thì bàn tay chỉa xuống đất là âm. Bàn tay để chỉnh 2 kinh Âm Dương duy nằm ở 2 huyệt chính ở cổ tay : phía ngoài là " ngoại quan " thuc dương duy mạch, phía trong có huyệt " nội quan " thuc Âm duy mạch.

    Thì 2: Thở ra gồm 3 động tác :


    Ngửa tay đưa chưởng ra phía trứớc mặt, ngón tay lên trời.

    Vẫn nhón gót, bắt đầu thở ra từ từ cùng lúc ngồi xuống để mông chạm gót chân, lưng vẫn thẳng. Đồng thời 2 tay từ từ đưa ra sau lưng theo hơi thở ra, lòng bàn tay úp xuống, các ngón hướng ra phía trước.

    Thì 3: Hít vào có 3 động tác :

    Đổi hướng bàn tay, các ngón ra phía sau....

    Rồi bắt đầu đứng lên, vẫn nhón gót, lưng thẳng.

    Thở vào, đưa 2 tay lên ngang vai, hướng ngón tay xuống đất.

    Thì 4: Thở ra có 3 động tác :

    Vẫn nhón gót, đổi hướng ngón tay lên trời, bắt đầu thở ra và hạ 2 cánh tay xuống.

    Từ từ hạ gót đưa 2 tay ra sau, lòng bàn tay úp xuống đất, các ngón hướng ra phía trước.

    Khi gót chân chạm đất thì các ngón chân bật cong lên không được chạm đất là hết thì thở ra.

    Theo www.nhatnam.virtue.nu
    Tân nương lục vấn : Lang niên kỷ? - Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.

    ---QC---


  10. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    vnspirit,
Trang 2 của 14 Đầu tiênĐầu tiên 123412 ... CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status