TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 11 của 13 Đầu tiênĐầu tiên ... 910111213 CuốiCuối
Kết quả 51 đến 55 của 61

Chủ đề: Lưỡi Kiếm của Thần Shiva - Jeff EEdwards- Full

  1. #51
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Bài viết
    68
    Xu
    610

    Mặc định

    Lưỡi Kiếm của Thần Shiva



    Tác Giả: Jeff Edwards
    Người Dịch: qnnguyen
    Biên Tập: Không Không


    Chương 48


    Đại lễ đường Nhân dân
    Thiên An Môn
    Bắc Kinh, Trung quốc
    Thứ Ba, 2 tháng 12, 20:49 giờ địa phương


    Jia Bangguo đang đứng với hai tay chống lên mặt bàn họp bằng gỗ tếch. Mắt hắn đảo nhanh qua các lãnh tụ quanh bàn, ước lượng tám người kia trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản.

    “Thưa các đồng chí,” hắn nói, “chúng ta có rất ít thời giờ. Chúng ta phải khẩn trương tiến hành xả nước đập Tam Hiệp. Và toàn bộ đồng bằng Trường Giang phải được di tản ngay.”

    Trong bất cứ hội nghị nào trong nước CHNDTH, lời của Jia đã được tán thành ngay rồi, tiếp theo là tiến hành ngay lập tức. Thân là Đệ Nhị Phó Chủ Tịch và Bí Thư của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc, trên danh nghĩa hắn là người quyền thế thứ ba ở Trung quốc.

    Nếu đây là một cuộc họp toàn thể Bộ Chính Trị, hắn đã có thể gom góp đủ số phiếu để chống lại bất cứ đối thủ nào. Nhưng trong Ban Thường Vụ, hắn không có số quan chức để ủng hộ mình. Ở nơi đây, nơi trung tâm của tập đoàn lãnh tụ trung ương của Trung quốc, hắn chỉ có thể dựa vào lực thuyết phục của mình mà thôi.

    “Chúng ta có rất ít thời gian.” Hắn lặp lại. “Nếu chúng ta hạ lệnh lập tức, chúng ta có thể khiến cho lượng nước do đập Tam Hiệp lưu trữ hạ xuống đến mức độ có thể kiểm soát trong vòng hai ngày. Sau đó, nếu đập nước bị tấn công, ngập lụt ở hạ lưu chỉ sẽ là một sự phiền phức, chứ không phải là tai họa nữa.”

    “Hoàn toàn không được!” Ma Yong gắt. “Khôi hài! Tua-bin thủy điện ở Tam Hiệp cung cấp gần như 15% số điện mà toàn quốc cần dùng. Nếu chúng ta hạ mực nước xuống mức như để phòng lũ lụt, điều này sẽ ảnh hưởng đến cơ sở công nghiệp của chúng ta, sản xuất lương thực của chúng ta, giao thông, thông tin liên lạc… Tôi cũng không dám tính toán là nền kinh tế cả nước sẽ bị thiệt hại như thế nào nữa.”

    Ma Yong là Bí Thứ của nhóm lãnh đạo Tài Vụ và Kinh Tế. Sự quan tâm đầu tiên, sau cùng và duy nhất của hắn là sức mạnh kinh tế của Trung quốc. Điều này khiến hắn trở thành địch thủ của bất cứ cá nhân hay tổ chức nào đe dọa đến tài vụ của Trung quốc.

    “Nếu vậy thì tôi đề nghị làm một bài tính khác vậy.” Jia nói. “Đồng chí thử tính xem giao thông và kinh tế của chúng ta sẽ bị thiệt hại như thế nào, nếu phân nửa số các cây cầu cho cả xe lửa lẫn xe cộ của Trung quốc bị quét sạch bởi một trận lũ lụt thảm khốc. Và trong khi còn đang tính toán với những con số, đồng chí cũng nên ước lượng xem nền kinh tế quý báu của đồng chí sẽ phải mất bao lâu mới hồi phục lại được khi mà 400 triệu đồng chí của chúng ta bị thiệt mạng.”

    “Bằng chứng của đồng chí đâu?” Mã hỏi bằng một giọng chua loét. “Làm thế nào đồng chí biết được bọn Ấn Độ sẽ tấn công đập Tam Hiệp chứ? Có phải bọn chúng đã chia sẻ kế hoạch bí mật của chúng với đồng chí rồi? Hay đồng chí có những nguồn tình báo riêng, hoạt động bên trong chính phủ Ấn Độ?”

    “Đương nhiên là không.” Jia nói. “Nhưng mà tôi có thể đọc một tấm bản đồ. Khi triệt tiêu cứ địa tên lửa phòng không của chúng ta ở Thành Đô, Tự Cống và Trùng Khánh, bọn chúng đã dọn sẵn một con đường cho một vụ cường kích bằng phi đạn hành trình vào đập này rồi. Tôi nói này, các đồng chí, bọn Ấn Độ đang định tấn công đập Tam Hiệp đó!”

    Câu này khiến một loạt xì xầm chạy quanh bàn họp.

    Đệ nhất Phó Chủ Tịch Lu Shi giơ một tay lên và mọi tiếng nói lắng xuống. Lão chậm rãi nói. “Đồng chí Jia ơi, tôi không hoài nghi gì lòng chân thành của đồng chí và các mối lo lắng của đồng chí đáng để chúng ta cẩn thận suy xét. Nhưng mà, có một thứ gọi là quá cẩn thận đó! Như đồng chí Ma vừa nhận định, chúng ta không hề có bất kỳ chứng cứ nào rằng láng giềng phía nam của chúng ta đang dự tính phá hủy đập Tam Hiệp. Một cuộc tấn công như thế chính là một vụ cường kích trực tiếp và sẽ làm hạ tầng cơ sở nước ta tàn phế. Chính phủ Ấn Độ thừa hiểu là khi ấy chúng ta sẽ bị buộc phải dùng đến các phương tiện chiến lược mà.”

    Câu nói cuối cùng này làm bầu không khí đông cứng lại. Trong số lãnh tụ tối cao của đảng Cộng Sản, cái từ “chiến lược” là nói trại cho “hạt nhân” mà mọi người đều hiểu.

    Wei Jintao, Bí Thư của Quốc Vụ Viện, chụm các đầu ngón tay vào nhau. “Có lẽ chúng ta nên cho tình hình xuống thang đi, trước khi buộc phải suy xét đến… ơ… phương tiện chiến lược.”

    Hắn nhìn qua Lu Shi. “Nếu mục đích của chúng ta là trừng phạt Ấn Độ đã chứa chấp kẻ thù của Trung quốc, chúng ta chắc chắn đã đạt được rồi. Nếu mục đích của chúng ta là biểu diễn uy thế quân sự trong khu vực này, chúng ta cũng đã đạt được luôn rồi. Tôi không rõ chúng ta trông mong đạt được những gì nữa khi tiếp tục cuộc xích mích với Ấn Độ này.”

    Trước khi Lu kịp trả lời, Jia lại lên tiếng. “Tại sao chúng ta lại phải nói vòng vo như thế này chứ? Chúng ta là cấp lãnh đạo cao nhất trong quốc gia này. Nếu chúng ta không thể nói thẳng ở nơi này, làm sao chúng ta có thể làm ra những quyết định thẳng thắng mà chúng ta cần làm được chứ hả? Nếu chúng ta đang nói đến vũ khí hạt nhân, thì chúng ta không nên ngụy trang bằng cách gọi chúng là ‘phương tiện chiến lược’ nữa. Và chúng ta nên ngừng giả vờ như đây là một cuộc ‘xích mích’. Mọi người trong phòng này đều biết là chúng ta đã tiến qua khỏi cái đó rồi. Nếu chúng ta lột bỏ cách nói chuyện quanh co, thì chúng ta đang bàn đến khả năng chiến tranh hạt nhân với Ấn Độ đó!”

    Hắn gõ mạnh một ngón tay xuống mặt bàn. “Đúng, tôi nói thẳng những từ ấy ra đó. Chiến tranh hạt nhân. Mọi người chúng ta nên suy nghĩ đến các từ này và chúng ta nên suy nghĩ chúng mang ý nghĩa gì. Tại vì chúng ta đang loạng choạng đi về chiều hướng đó và không ai ở cái bàn muốn nhìn nhận điều ấy cả.”

    Nhiều thành viên trong hội đồng có vẻ như muốn đồng ý, nhưng không ai lên tiếng.

    Lu Shi lạnh nhạt nhìn Jia, nhưng tiếng nói của lão vẫn bình thản. “Một lần nữa, đồng chí Jia, tôi nhìn nhận lòng chân thành của đồng chí và tôi không muốn xem nhẹ sự quan tâm của đồng chí. Nhưng tôi nghĩ rằng đồng chí phản ứng thái quá rồi. Chúng ta đã đánh bại chiếc tàu sân bay Ấn Độ. Chúng ta đã cho Hải quân Mỹ thấy rằng chúng không thể xen vào việc của Trung quốc mà không lãnh nhận hậu quả. Các cuộc giao chiến chính yếu đã qua rồi. Có thể còn vài vụ đụng chạm nhỏ chúng ta còn phải ứng phó, nhưng mà công việc còn lại chủ yếu là chính trị, chứ không phải quân sự nữa.”

    Wei Jintao nhướn một bên lông mày. “Xin đồng chí nói rõ điều này, được không, đồng chí Lu?”

    Lu Shi không đáp. Tuy nhiên, Chủ Tịch Xiao Qishan tằng hắng. Mọi ánh mắt lập tức quay sang lão ta.

    Từ sau lần giải phẩu tim hồi năm ngoái, đã từng có một âm mưu đẩy lão ra khỏi vị trí và nhiều lần vận động kín đáo để đẩy lão vào hưu trí. Nhưng Lu Shi đã không ngừng đấu tranh để giữ lão tại chức.

    Mọi người đều hiểu rằng Lu Shi sẽ thừa kế lão trong ngôi vị Chủ Tịch nhà nước; điều này làm người ta khó hiểu nổi sự kiên trì ủng hộ lão của Lu Shi. Không ai hiểu nổi vì sao Lu Shi lại cố tình trì hoãn lại việc lão nắm giữ quyền lực tối cao. Phải chăng đó chỉ đơn giản là lòng trung thành với lão chủ tịch? Hay là Lu đang tiến hành theo một thời khắc biểu nào đó mà sự trì hoãn là điều cần thiết và mong muốn? Hay là một điều gì khác hẳn? Mặc dù có biết bao phỏng đoán, dường như không ai biết được đáp án.

    Mục đích Lu tiếp tục ủng hộ lão Xiao Qishan thì không rõ ràng, nhưng thành quả của nó thì không bí ẩn chút nào. Lão chủ tịch cũng đã đáp lại sự ủng hộ ấy y như vậy, bằng cách giao hết quyền lực và sức ảnh hưởng của lão cho Lu Shi.

    Lão Xiao bao giờ cũng giả vờ đấu tranh tư tưởng và ra vẻ khách quan, nhưng mà, khi những lời lẽ văn hoa được gạt bỏ đi và các hành vi của lão được đánh giá lại, lão lãnh tụ già nua luôn luôn ủng hộ Lu Shi.

    Chủ Tịch Xiao lại đằng hắng, lần này nhẹ hơn. Nhiều gương mặt quay về phía lão mang vẻ trông chờ, như thể vài thành viên đang mong mỏi rằng tình thế nghiêm trọng sẽ buộc lão Xiao rời khỏi phe Lu Shi và nắm lại quyền lãnh đạo. Kéo mọi người lại từ bờ vực tai họa.

    Nếu thế thì họ đã bị thất vọng rồi.

    Lão Xiao nói. “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa không còn là một quốc gia của người nhà quê nữa rồi. Chúng ta là một cường quốc kinh tế của toàn thế giới và QNDGP đang nhanh chóng trở thành một lực lượng quân sự hàng đầu trên địa cầu. Các quốc gia khác trên thế giới phải được bài học rằng chúng ta không còn thể nào bị dồn vào chân tường nữa rồi.”

    Jia Bangguo và Wei Jintao trao đối ánh mắt từ hai bên bàn. Những lời từ miệng của lão Xiao rõ ràng là kịch bản của Lu Shi.

    Lão chủ tịch tiếp tục nói. “Tôi đã phát lệnh cho đại sứ của chúng ta ở Hoa Kỳ và Ấn Độ, vạch rõ chi tiết của các yêu cầu của chúng ta cho chính phủ của hai nước này. Nếu Ấn Độ muốn tái lập bang giao bình thường với Trung quốc, họ phải chấm dứt việc chứa chấp kẻ thù của chúng ta, bao gồm cả bọn khủng bố vẫn đang xúi dục bạo động ở khu vực tự trị Tây Tạng. Để biểu lộ thiện chí, họ phải bắt đầu bằng cách trục xuất tên đầu sỏ quấy động, Đạt Lai Lạt Ma. Cũng như thế, Hoa Kỳ đã được cảnh báo rồi… Những ngày tháng quân đội Mỹ thống ngự đã chấm dứt rồi. Nếu chúng còn thử xen vào việc của nước ta, chúng sẽ khám phá ra rằng cái thế lực ngày càng thụt lùi của chúng đã không còn chống lại chúng ta được nữa.”

    Lu Shi gật đầu. “Nói hay quá, thưa đồng chí Chủ Tịch.”

    Lão hướng ánh mắt hung hăng đến mỗi thành viên, nói. “Đây là thời cơ của chúng ta. Ngôi sao của Tây phương đã rơi rụng rồi, còn ngôi sao của chúng ta lại đang bốc lên. Nếu ý chí của chúng ta vẫn cứng cỏi, chúng ta sẽ làm chủ thế kỷ này đó!”

    Tiếng nói của lão dịu xuống. “Đây là thời đại của Trung quốc. Chúng ta không thể nào vứt nó đi được.”

    ***

    Mười phút sau khi cuộc họp chấm dứt, Jia Bangguo đuổi theo kịp Wei Jintao đang ra khỏi khu kiến trúc. Hai người đi sánh vai xuống các bậc thang đá từ Đại lễ đường Nhân dân đưa đến quảng trường Thiên An Môn. Cả hai đều có xe hơi riêng đang nổ máy chờ ở lề đường, nhưng họ ra hiệu cho tài xế chờ và cùng nhau đi qua hàng rào an ninh để đứng yên trong đêm lạnh lẽo.

    Bảy ngôi sao trong chùm Bắc Đẩu Thất Tinh chiếu sáng trong màn đêm. Chùm sao này tượng trưng cho mùa đông và truyện thần thoại kể lại nó được tạo ra trong kinh hoàng, tử vong và là hậu quả của những hành động bất cẩn của những người được cho là khôn ngoan.

    “Tôi không nghĩ là hắn quan tâm đến chuyện gì sẽ xảy ra.” Jia nói.

    Wei Jintao không nói gì cả.

    “Lu Shi.” Jia nói. “Tôi không nghĩ hắn còn quan tâm điều gì nữa rồi. Hắn đang phẫn nộ và bi thương. Và hắn muốn trừng trị người nào đó để bớt đau khổ. Hắn đã tiêu diệt những kẻ đã giết con hắn, cùng với cả một ngôi làng nơi mà chúng ẩn nấp. Nhưng như thế vẫn chưa đủ.”

    Wei nhìn vào Jia. “Đồng chí đang nói gì vậy, hả đồng chí?”

    Jia Bangguo lúc này bắt đầu cảm thấy cái giá buốt của không khí trong mùa đông. Hắn lật cổ chiếc áo khoác lên. “Tôi đang nói là ngài Phó Chủ Tịch của chúng ta đang tìm kiếm một kẻ địch nào đó để tiêu diệt và hắn không cần biết kẻ đó là ai. Nhưng mà còn tệ hơn thế nữa, tôi nghĩ hắn đã không còn quan tâm đến hậu quả nữa rồi.”

    “Điên à?” Wei Jintao nói. “Có lẽ là tôi không đồng ý với nhiều quyết định của hắn, nhưng mà đồng chí Lu sẽ không bao giờ làm nguy hại đến tương lai của Trung quốc đâu. Hắn yêu đất nước này còn hơn là yêu mạng của chính mình nữa mà.”

    “Đó là điều tôi muốn nói đó!” Jia nói. “Tôi không nghĩ là hắn còn yêu mạng mình nữa rồi. Tôi không nghĩ hắn quan tâm đến sống chết gì nữa rồi.”

    Jia ngẩng mặt về phía chòm sao, đôi mắt chuyển từ ngôi sao này qua sao kia trong nhóm Bắc Đẩu Thất Tinh. “Nếu chúng ta không làm cái gì đó sớm, tôi cũng không rõ Trung quốc có còn một tương lai nào nữa hay không.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ---QC---


  2. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Blue_planet,
  3. #52
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Bài viết
    68
    Xu
    610

    Mặc định

    Lưỡi Kiếm của Thần Shiva



    Tác Giả: Jeff Edwards
    Người Dịch: qnnguyen
    Biên Tập: Không Không


    Chương 49


    USS Midway (CVN-82)
    Biển Andaman (phía đông của quần đảo Nicobar)
    Thứ Ba, 2 Tháng 12, 19:24 giờ địa phương


    Đại tá Anthony Romano, hạm trưởng của chiếc USS Midway, nhìn các khu vực màu xanh lục càng lúc càng nhiều trên màn ảnh của hệ thống khống chế hư hại. Màn ảnh cho thấy sự mô tả ba-chiều của kiến trúc bên trong của chiếc tàu: các sàn tàu, vách chắn, vỏ tàu được vẻ màu xám bán trong suốt để cho người xem có thể nhìn xuyên qua kết cấu ở bề mặt để thấy được các phòng ốc và lối đi bên dưới.

    Màu xanh lục tượng trưng cho nước biển. Năm ngăn kín bên phải của khung hình chiếc tàu được tô màu xanh từ sàn lên đến quá đầu người. Đó là những phần tàu bị ngập nước khi các quả phi đạn hành trình Trung quốc phá thủng vỏ tàu.

    Nhờ các hệ thống khống chế thiệt hại tự động, khả năng kín nước tốt và phản ứng nhanh chóng của thủy thủ đoàn, vụ ngập nước được giới hạn vào khu vực nhỏ nhất. Giờ đây, sau khi cố gắng cật lực để ngăn không cho nước tràn vào, họ lại cố tình để nước ùa vào. Trên màn ảnh hệ thống khống chế hư hại, nhiều ngăn kín bên trái đang bị tô màu xanh nhanh chóng, khi nhiều tấn nước được bơm vào những khu vực trước đây đang khô ráo.

    Kỹ thuật này được gọi là ngập nước ngược. Đây là một phương pháp được nhìn nhận dùng để khôi phục độ nghiêng của một chiếc chiến hạm khi nó đã bị ngập nước đủ để nó có nguy cơ lật.

    Romano đã biết đến phương pháp này ngay từ khóa học đầu tiên về khoa khống chế hư hỏng ở trường sĩ quan hải quân ở Annapolis. Ngồi thoải mái trong lớp học, trong bài tập, phương pháp ngập nước ngược có vẻ là một cách thức hợp lý để sửa độ nghiêng của một chiếc tàu. Nhưng mà nơi này không phải là Trường Võ Bị Hải Quân và hàng ngàn lít nước biển ùa vào chiến hạm của hắn không phải chỉ là lý thuyết nữa rồi.

    Cái ý kiến này xuất phát từ chính đô đốc Zimmerman. Chỉ cần cho một tý nước vào bên trái, làm cho sân bay bằng phẳng lại, thế là họ lại có thể phóng máy bay rồi.

    Chẳng qua là đây không phải là một tý nước. Mà là một lượng lớn nước. Mà nước không phải là ùa vào những ngăn kín trống không. Nước sẽ được bơm vào hai nơi chứa thiết bị điện tử, một phòng chứa dụng cụ phụ trợ, một phòng chứa giàn máy điều hòa không khí và một phòng chứa quạt gió. Đám chuyên viên và kỹ sư của Romano đã phải bỏ ra nhiều giờ hối hả tháo ốc, tháo dây điện và di dời càng nhiều dụng cụ thiết bị càng tốt ra khỏi các ngăn kín đã được chọn cho vụ ngập nước ngược này. Tuy nhiên thời gian không đủ để di chuyển được một phần ba số thiết bị. Và giờ đây, máy phát điện, hộp cung cấp điện, máy vi tính, máy bơm, máy thổi hơi, nhiều giàn ổ cứng đang bị cho ngập trong nước biển đầy tính chất ăn mòn.

    Khi nhiệm vụ này chấm dứt, số lượng nước dư thừa này sẽ được bơm ra khỏi tàu, tuy nhiên một số lớn thiết bị sẽ không còn đáng tiền sửa chữa nữa. Trận đánh kế tiếp còn chưa bắt đầu mà chiếc Midway đã phải gánh chịu thêm hàng mấy triệu đô-la thiệt hại rồi. Có thể hàng mấy chục triệu ấy chứ.

    Romano lắc đầu và cố nhịn câu chưởi thề. Cả biên đội nằm dưới quyền chỉ huy của đô đốc Zimmerman, nhưng chính chiếc tàu này lại là trách nhiệm của Romano. Hơn thế, hắn lại yêu con quái thú bằng kim loại này bằng sự cuồng nhiệt mà hắn chỉ dành cho vài người mà thôi. Hắn yêu quý từng mối hàn, từng cái đinh và từng phân sàn tàu từ đầu đến đuôi. Midway là bé cưng của hắn và hắn không ưa nổi bất cứ kẻ nào làm ‘nàng’ chịu thiệt.

    Hắn cũng hiểu được cái lý luận đưa đến việc làm này và hắn cũng đồng ý. Nhưng hắn không bắt buộc phải vui vẻ với quyết định ấy, mà hắn thật sự không vui.

    Phần tô màu xanh trên màn hình hệ thống khống chế hư hại đã đạt đến mức quá đầu người ở các vùng được chỉ định bị ngập nước.

    Đại tá Romano quay sang viên phụ tá về việc khống chế hư hại. “Anh nghĩ sao, hả Steve?”

    Đại úy Steve Cohen kiểm tra các thông số trên hai màn ảnh máy vi tính khác nhau. Rồi gã lại liếc nhìn lên trang bị đo độ nghiêng được gắn trên một xà ngang trên trần. Gã gật đầu. “Có vẻ như chúng ta đã bằng phẳng lại rồi đó, thưa Đại tá. Sàn bay chắc đã phải ổn và bằng phẳng rồi.”

    Gã bấm vài nút và kiểm tra một màn ảnh thứ ba. “Tất cả số nước ấy đã khiến chúng ta ngập sâu hơn trong nước và chúng ta sẽ mất một ít tốc độ.”

    “Hi vọng rằng cái đó sẽ không tạo ra vấn đề gì.” Romano nói. “Sĩ quan Phi Hành đã cam đoan là chúng ta có thể bù đắp việc bị giảm tốc độ bằng cách gia tăng tốc độ máy phóng và cường độ của hệ thống EMALS (42). Ít ra khái niệm là như thế. Chúng ta không thể biết chắc được cho đến khi làm thử.”

    EMALS viết tắc cho Electromagnetic Aircraft Launch System, kỹ thuật thế hệ mới của sàn bay đã thay thế hệ thống phóng bằng hơi ép, được trang bị trên các hàng không mẫu hạm thuộc lớp mới của Mỹ. Hệ thống dùng điện này nhẹ hơn, nhanh hơn và hữu hiệu hơn xa loại hệ thống cơ khí dùng hơi nước trước đó. Quan trọng hơn là EMALS cung cấp mức điều khiển chính xác chưa từng có, giúp cho hệ thống này có thể phóng bất cứ thứ gì, từ máy bay không người lái loại nhẹ cho đến những máy bay nặng quá năng lực của các hệ thống phóng cũ.

    Trên lý thuyết, một chiếc tàu sân bay có trang bị hệ thống EMALS có thể phóng máy bay với sức gió tương đối chưa tới 10 hải lý/giờ trên sàn bay (*). Cái này khác xa tốc độ hơn 30 hải lý/giờ mà các tàu sân bay được trang bị hệ thống cũ đòi hỏi phải đạt đến.

    (* người dịch: để phóng hay thu máy bay, tàu sân bay phải chạy nhanh và ngược chiều gió để giúp máy bay thêm vận tốc để cất cánh hay hạ cánh, khi mà cánh có được lực nâng. Sức gió tương đối là tốc độ gió ngược chiều cộng thêm tốc độ tàu.)

    Họ sẽ sớm biết được lý thuyết này có đúng với sự thật hay không.

    Romano nhấc một chiếc điện thoại và bấm nút phòng chỉ huy. “Thưa đô đốc, đây là Đại Tá Romano. Tôi đang trên đường lên phòng điều hành. Chúng ta có thể chuẩn bị cất cánh bất cứ lúc nào đô đốc sẵn sàng.”

    Hắn lắng nghe vài giây, lễ phép chào rồi gác máy, tiến ra cửa.

    “Phải thành công.” Hắn tự nói. “Nhất định phải thành công.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    (42) EMALS viết tắc cho Electromagnetic Aircraft Launch System, là hệ thống phóng máy bay từ hàng không mẫu hạm mới nhất, được thiết kế cho hàng không mẫu hạm lớp Ford. Trước kia có dự định nâng cấp lớp hàng không mẫu hạm Nimitz để sử dụng hệ thống này, nhưng không thành công vì lớp Nimitz và các lớp khác không đủ điện năng cho EMALS. Hệ thống này sử dụng máy điện chạy thẳng (thay vì xoay tròn như máy điện cổ điển) có khả năng gia tốc từ yếu đến mạnh tốt hơn loại hệ thống phóng cũ dùng hơi nước có gia tốc cấp thời tạo áp lực nhiều hơn cho khung thân máy bay, làm giảm sự bền bỉ của máy bay. Nước Anh và Ấn Độ đều tỏ ra hứng thú với hệ thống này cho hàng không mẫu hạm tương lai của họ (lớp Queen Elizabeth của Anh và siêu mẫu hạm INS Vishal của Ấn Độ). Đô đốc Yin Zhuo của Hải quân của QNDGP từng cho hay rằng chiếc mẫu hạm tương lại của Trung quốc cũng sẽ được trang bị loại hệ thống phóng máy bay này.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi qnnguyen, ngày 30-08-2016 lúc 03:30.

  4. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Blue_planet,
  5. #53
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Bài viết
    68
    Xu
    610

    Mặc định

    Lưỡi Kiếm của Thần Shiva



    Tác Giả: Jeff Edwards
    Người Dịch: qnnguyen
    Biên Tập: Không Không


    Chương 50


    USS Towers (DDG-103)
    Vịnh Bengal
    Thứ Ba, 2 Tháng 12, 23:56 giờ địa phương

    Chiếc Towers lướt đi trong đêm như một chiếc bóng, lớp sơn hướng quang ngụy trang của nó dường như gói cái dáng thon dài đầy góc cạnh của chiếc tàu vào một màu sắc còn đậm hơn cả đêm khuya nữa. Cách đó hơn 400 km về phía tây, phía bên kia biên đội tàu sân bay của Trung quốc, chiếc khu trục cùng lớp Donald Gerrard cũng đang lao nhanh. Cả hai chiếc chiến hạm đều chạy trong trạng thái ‘tối thui và im lìm’, mọi cảm biến tích cực và trang bị bức xạ đều bị tắt, hướng đi và tốc độ của chúng đã được tính toán để tạo ra diện tích mặt cắt ngang nhỏ nhất cho ra-đa địch.

    Ngay cả ánh trăng cũng được lưu ý đến. Theo như niên giám hải quân, lúc mặt trăng chính thức lặn vẫn còn cách lúc này 5 phút nữa, tuy nhiên phân nửa mặt trăng đã khuất xuống dưới chân trời phía tây. Vào lúc 1 phút sau nửa đêm, toàn bộ mặt trăng sẽ bị địa cầu che khuất. Dưới ánh sao còn lại, lớp sơn ngụy trang trên cả hai chiến hạm sẽ khiến chúng rất khó bị phát hiện bằng mắt, cho dù là mắt người hay cảm biến quang học.

    Một hệ thống ngăn chặn tia hồng ngoại có khả năng thích ứng tự động làm cho độ nóng do cả hai chiến hạm lưu lại, chỉ xê xích nửa độ so với nhiệt độ không khí chung quanh mà thôi. Và ký hiệu âm thanh của chiến hạm cũng bị cắt giảm bởi những mô-đun giảm thanh tích cực thuộc thế hệ thứ bảy, cộng với động cơ tàu đã được cách ly âm thanh.

    Mặc dù có những lời đồn thổi trong mạng internet, bấy nhiêu kỹ thuật quỷ dị ấy cũng không khiến cho hai chiến hạm Mỹ này trở thành vô hình. Nếu quả thật có một kỹ thuật nào có thể làm 9.800 tấn thép hoàn toàn biến mất, thì các kỹ sư của nền công nghệ quốc phòng Mỹ vẫn chưa mò ra. Cho dù ở vào trạng thái hoàn toàn tàng hình, hai chiếc USS Towers và USS Donald Gerrard cũng không phải không thể bị phát hiện. Chúng chỉ khó thể bị phát hiện hơn thôi.

    ***

    Sự khác biết giữa hai tình trạng ấy, ‘không thể’ và ‘khó thể’ bị phát hiện, vẫn đang nặng nề trong tâm trí của Trung Tá Silva trong khi nàng đứng cạnh Đại Tá Bowie trong phòng hành quân CIC và quan sát màn ảnh chiến thuật Aegis. Dưới tình huống nào khác, sự khác biệt trên lý thuyết giữa hai tình trạng ‘không thể’ và ‘khó thể’ phát hiện có lẽ đã trở thành một tiêu đề tranh cải kỹ thuật rất hấp dẫn. Nhưng mà trong tình huống hiện tại, cái khác biệt nhỏ xíu trên lý thuyết ấy có thể là khác biệt giữa sống hay chết.

    Trên màn ảnh, hai phù hiệu màu xanh lơ tượng trưng cho hai chiếc Towers và Gerrard đang lướt vào những vùng màu đỏ dùng để miêu tả vùng được bao phủ bởi ra-đa của các chiến hạm Trung quốc gần nhất. Các vùng này có ám hiệu bằng màu dựa theo xác suất bị phát hiện: màu đỏ nhạt để chỉ xác suất thấp, màu đỏ đậm hơn để chỉ xác suất cao hơn. Ở ngoài rìa của vùng ra-đa địch bao phủ, màu đỏ nhạt đến độ gần như màu hồng. Gần đến chiếc tàu sân bay Trung quốc, màu đỏ đậm dần thành màu đỏ máu.

    Hai chiến hạm Mỹ ở phương hướng gần như đối diện nhau, chiếc Towers chạy về hướng tây còn chiếc Gerrard tiến về hướng đông, cả hai đều chậm rãi tiến về đội chiến hạm Trung quốc nằm ở giữa. Đến một điểm nào đó, hai chiếc khu trục hạm Mỹ sẽ vượt qua một lằn ranh mơ hồ nào đó, nơi mà các góc cạnh có thể đẩy tạt đi bức xạ vi ba và các tấm lát trên vỏ tàu có thể hấp thu bức xạ ra-đa sẽ không còn khả năng che giấu chúng khỏi các cảm biến của địch nữa. Mục đích của họ là bắt đầu cuộc tấn công trước khi họ vượt qua lằn ranh vô hình đó.

    Nếu mọi thứ đều diễn ra theo kế hoạch đã định sẵn, quân Trung quốc sẽ không hề hoài nghi gì sự hiện diện của hai chiếc chiến hạm Mỹ cho đến khi họ phát hiện ra những quả phi đạn đang lao đến mình. Mà đến lúc đó, thì đã quá muộn rồi.

    Mắt của Silva vẫn dán vào màn ảnh. Bên cạnh phù hiệu của chiếc Towers là một ô chữ sáng rực chứa xác suất bị phát hiện do máy vi tính tính ra; dãy số này gồm hai phần được chia bởi một gạch chéo: 62,0/7,8. Nhóm số đầu, được trình bày để người quan sát có thể so sánh dễ dàng, là thông số diện tích mặt cắt ngang của một chiếc khu trục hạm lớp Arleigh Burke tiêu chuẩn. Nhóm số sau là thông số ký hiệu ra-đa đã được giảm thiểu của một chiếc tàu thuộc Nhóm III Arleigh Burke đã được cải tiến.

    Dựa theo cường độ tín hiệu hai chiến hạm nhận được ở vị trí hiện tại, máy vi tính của hệ thống ‘chỉ huy và quyết định’ Aegis dự đoán 62% khả năng một chiếc khu trục Arleigh Burke chưa được cải tiến sẽ bị ra-đa Trung quốc phát hiện, và 7,8% khả năng các cảm biến Trung quốc đó có thể phát hiện chiếc Towers.

    Trong khi Silva đang quan sát, số liệu đổi thành 68,2/9,1, khi chiếc USS Towers nhích đến gần hơn vòng đai phòng thủ của chiếc tàu sân bay Trung quốc.

    Trên quan điểm trí thức, Silva nhìn nhận là 9 phần trăm không phải là xác suất cao, nhất là khi so sánh với gần 70 phần trăm mà một chiếc tàu ít có tính năng tành hình hơn đã phải chịu vào lúc này. Nhưng mà cho dù có được các kỹ thuật tiên tiến nhất, thì vẫn có gần một phần mười khả năng một gã chuyên viên ra-đa Trung quốc sẽ nhìn sâu vào đám hình phản xạ hỗn loạn trên khung ảnh của gã và nhận ra một vết mờ nhạt nhỏ xíu tượng trưng cho chiếc USS Towers.

    Silva kéo tầm mắt ra khỏi ô số liệu xác suất bị phát hiện và quan sát tình hình chiến thuật tổng thể. Chiếc tàu sân bay địch được bao bọc bởi bốn chiếc tàu chiến mặt nước: một cặp khu trục nhỏ đa năng Type 054A (lớp Jiangkai II) ở phía tây bắc và tây nam, và một cặp khu trục phòng không Type 51C (lớp Luzhou) ở phía đông bắc và đông nam. Như vậy là cả hai chiếc khu trục Trung quốc đều ở phía đông của biên đội, gần chiếc Towers nhất, có lẽ để phòng vệ chống lại biên đội Midway đang triệt thoái.

    Phù hiệu của các chiến hạm Trung quốc được bao quanh bởi một vòng tròn được vẻ bằng đường chấm, tượng trưng cho khu vực được tính toán là ‘không thể xác định’. Các chiến hạm địch được ước tính là nằm đâu đó trong vùng ‘không thể xác định’ ấy, nhưng vị trí chính xác thì không rõ.

    Vì các ăng-ten ra-đa của chính chúng đã bị tắt đi, hai chiếc Towers và Gerrard phải dựa vào dữ liệu được cung cấp bởi thiết bị chiến tranh điện tử AN/SLQ-32(V)3. Thiết bị SLQ-32 (được nhân viên sử dụng đọc là Slick-32, người dịch: ‘slick’ nghĩa là trơn tru hay lanh lẹ) có khả năng phát hiện, nhận diện và truy lùng hầu như tất cả mọi loại ra-đa truy lùng, nhắm bắn hay định vị. Nhưng cho dù có khả năng thích ứng cao và tính toán mạnh, Slick-32 vẫn chỉ là một cảm biến tiêu cực. Nó có thể xác định phương hướng của ra-đa địch, nhưng nó không có khả năng tính toán thiết bị bức xạ của địch cách bao xa. Thông số phương hướng này cũng đủ để nhắm phi đạn Harpoon (43) rồi, nhưng thiếu số liệu về tầm xa tối cần thiết cho hầu hết các hệ thống vũ khí khác.

    Nếu hai chiếc Towers và Gerrard không phải hoạt động trong tình trạng hạn chế bức xạ tuyệt đối, chúng có thể trao đổi phương hướng qua mạng thông tin chiến thuật, thiết lập và duy trì vị trí ra-đa địch và xác định vị trí chiến hạm Trung quốc một cách chuẩn xác và liên tục. Thay vì vậy, họ bị buộc phải dùng số liệu do một chiếc máy bay không người lái Night Eagle III đang bay trinh sát vòng vòng bên trên biên đội địch ở cao độ 6,000 m, lâu lâu chuyển xuống cho họ.

    Được cấu tạo bằng nguyên liệu hỗn hợp có khả năng để bức xạ xuyên suốt qua mà không phản chiếu lại, máy bay này nhỏ, nhẹ và có tính năng tàng hình khá cao. Cứ khoảng mỗi 15 phút, nó lại chiếu một tia laser đèn lưỡng cực cực tím lên trời, mang theo một khối số liệu bằng kỹ thuật số đến một trong số 11 chiếc vệ tinh thông tin liên lạc SATCOM trong quỹ đạo. Vệ tinh này lập tức mã hóa dữ liệu từ máy bay không người lái ấy và lại chuyển nó trở về mặt đất trong một tín hiệu UHF đã mã hóa. Lúc ấy, tín hiệu này được hai chiếc khu trục hạm Mỹ tiếp nhận và giải mã.

    Qua những lần cập nhật định kỳ ấy, vùng không thể xác định quanh mỗi chiến hạm Trung quốc càng lúc càng thu nhỏ lại thành một điểm và hai chiếc Towers và Gerrard biết chính xác vị trí của mỗi chiếc địch hạm. Tuy nhiên với mỗi phút trôi qua và chiến hạm Trung quốc dịch chuyển trong đội hình của chúng, trang bị Slick-32 chỉ có thể theo dõi phương hướng của chúng thôi. Ước tính về tầm xa sẽ càng lúc càng trở nên không đáng tin cậy và vòng tròn tượng trưng vùng ‘không thể xác định’ lại mở rộng ra.

    Chiếc Night Hawk III có khả năng duy trì liên lạc liên tục với các vệ tinh, liên tục cập nhật vị trí của địch hạm, nhưng lập trình của nó là cố gắng tránh bị phát hiện. Có ít nhất là ba phi tuần tiêm kích J-15 đang bay vòng vòng trong khu vực này để bảo vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc. Phương thức liên lạc của chiếc Night Hawk III rất kín đáo, nhưng không phải hoàn toàn vô hình.

    Một lần nữa, chung quy cũng chỉ là sự khác biệt giữa ‘không thể’ và ‘khó thể’ phát hiện mà thôi. Sự thành công hay thất bại của nhiệm vụ này, cái sống hay cái chết, đều tùy thuộc vào việc duy trì chiếc máy bay không người lái này và hai chiếc chiến hạm Mỹ bên dưới mức có thể bị phát hiện.

    Bất cứ một chiếc nào trong số các máy bay tiêm kích Trung quốc ấy đều có khả năng may mắn bắt được một tia phản chiếu từ chiếc Towers hay Gerrard vào bất cứ lúc nào. Một trong số các viên phi công có khả năng tình cờ liếc mắt lên trên (hay xuống dưới) vừa đúng một góc độ nào đó và thoáng thấy một cái dáng đen thui kỳ dị giữa các làn sóng hay một cái bóng đen nhỏ có cánh in trên bầu trời đêm.

    Silva biết rằng nàng không nên có những suy tư như thế, nhưng mà đây là cái khoảng thời gian mà nàng rất ghét. Cái khoảng thời gian chờ đợi. Chính là cái khoảng khắc yên lặng trước khi bão tố trong truyền thuyết ấy mà. Cái khoảng thời gian dài vô tận khi không có hành động nào, khi mà mỗi giây đều như kéo dài ra thành một lưỡi dao sắt bén như dao cạo, mà người ta không có gì để làm ngoại trừ việc suy tư về đủ thứ chuyện sai lầm có thể xảy ra.

    Trên màn hình chiến thuật, phù hiệu của hai chiếc Towers và Gerrard đã ở thật sâu vào khu vực càng lúc càng đỏ đậm của vùng được bao phủ bởi ra-đa Trung quốc rồi. Khung số cho thấy xác suất bị phát hiện đã là 88,1/17,6. Đã có đến gần một phần năm khả năng bọn họ bị phát hiện rồi, mà các con số này vẫn còn tiếp tục tăng lên cao thêm.

    Nếu chia đôi phần tốt nhất và tệ hại nhất của khu vực ‘không thể xác định’, các chiếc khu trục Trung quốc đang cách xa họ chỉ hơn 70 km. Chúng đã lọt vào tầm của phi đạn Harpoon từ lâu rồi, nhưng từ buổi thuyết trình trước khi tiến hành nhiệm vụ, Silva đã biết rằng Đại Tá Bowie dự tính tiến gần thêm 5 km nữa trước khi bắt đầu cuộc tập kích.

    Như hầu hết các tàu chiến mặt nước của Mỹ, chiếc Towers chỉ mang theo có tám quả phi đạn đối hạm Harpoon thôi. Chiếc USS Donald Gerrard cũng chỉ có tám quả. Như vậy, họ chỉ có thể dành bốn quả cho mỗi mục tiêu, nhưng mà chiến hạm Trung quốc nghe đâu được trang bị các hệ thống chống phi đạn rất tốt.

    Bowie muốn tiến đến gần đủ để tiếp tục xạ kích bằng trọng pháo, trong trường hợp số lượng Harpoon ít ỏi không đủ bảo đảm đánh gục kẻ địch.

    Chỉ cần trước đây một năm thôi, một cuộc xạ kích bằng pháo từ tầm xa 60 km đã là một điều không thể thực thi. Để đánh các mục tiêu trên mặt nước, tầm xạ kích hữu hiệu của một viên đạn pháo tiêu chuẩn 127 mm của Hải quân chỉ chưa đến 20 hải lý (36 km), chưa được phân nửa tầm xa mà kế hoạch của Bowie đòi hỏi. Nhưng đó là trước khi sự xuất hiện của Vulcano.

    Trong suốt nhiều thập kỷ qua, đã có nhiều cố gắng để triển khai đạn pháo có rocket hỗ trợ để đạt được tầm xa hơn, nhưng không dự án nào của Mỹ thành công cả. Hai dự án hứa hẹn nhất, Ballistic Trajectory Extended Range Munition (BTERM) và Extended Guided Munition (ERGM), đều bị hủy bỏ vì vượt quá ngân sách và những trở ngại kỹ thuật dai dẳng.

    Hải quân Hoa Kỳ cuối cùng đành đi đường vòng để tránh các vấn đề này bằng cách mua đạn từ hãng OTO-Melara của Ý. Nền công nghệ quốc phòng Ý đã thành công trong khi các tập đoàn công nghệ quân sự của Mỹ đều thất bại. Các quả đạn 127 mm Vulcano của hãng OTO-Melara hoàn toàn phù hợp với pháo 127 mm trên chiến hạm Mỹ và tầm bắn tối đa của chúng là 75 km.

    Các pháo thủ trên hai chiếc Towers và Gerrard đều đã được huấn luyện sử dụng đạn Vulcano và họ đã trải qua một số lần huấn luyện đáng nể, qua phương pháp mô phỏng trên máy vi tính, để chuẩn bị sử dụng loại đạn mới này. Tuy nhiên máy huấn luyện mô phỏng chính xác nhất cũng có giới hạn thực tế và những cuộc tập dượt bằng đạn thật chỉ xảy ra được 5-6 lần mà thôi.

    Xét đến các sự kiện ấy và biết rằng Hải quân Hoa Kỳ chưa từng sử dụng đạn Vulcano trong thực chiến lần nào, Bowie đã quyết định nhích tới gần mục tiêu thêm một chút nữa, trước khi bắt đầu cuộc tập kích.

    Silva hoàn toàn đồng ý với lối suy nghĩ của viên hạm trưởng này. Hoàn toàn hợp lý khi mà hắn không dựa dẫm vào các đánh giá trên sách vở về khả năng của món vũ khí mới này. Tốt nhất là thêm vào một mức an toàn trong trường hợp sách vở viết sai.

    Nhưng mà số xác suất bị phát hiện vẫn tiếp tục tăng lên. Trong khi Silva quan sát, nó đã đổi thành 91,6/22,9 rồi. Trong vài phút nữa, khả năng bị phát hiện sẽ đạt đến 30 phần trăm. Quá cao để người ta cảm thấy thoải mái rồi.

    Silva nhìn quanh và chạm vào ánh mắt của Bowie. Hắn hơi nhướn một bên lông mày lên, nói. “Có lẽ đây là cảm giác của một hạm trưởng tàu ngầm nhỉ.”

    Hắn quay sang màn ảnh chiến thuật. “Cố gắng lẻn vào vòng đai cảm biến của quân địch mà không bị phát hiện. Hiểu rằng chỉ có sự im lặng và may mắn mới có thể giữ được tính mạng của mình.”

    Trung tá Silva gật đầu, nhưng không nói gì cả. Mắt nàng lướt qua lại giữa số liệu ước lượng khoảng cách với mục tiêu và xác suất bị phát hiện. Hai dãy số, một con số giảm dần còn con số kia thì tăng dần. Im lặng và may mắn. Im lặng… May mắn. Im lặng…

    Một loạt âm thanh tín hiệu UHF đã mã hóa vang lên từ máy truyền tin SATCOM, mang theo số liệu vị trí mới nhất từ chiếc Night Hawk III. Trên màn ảnh Aegis, khu vực ‘không thể xác định’ của các chiến hạm Trung quốc lập tức thu nhỏ lại thành những điểm tách rời.

    Đại tá Bowie nhìn vào vị trí của các mục tiêu, ước tính góc độ và khoảng cách đối chiếu với kế hoạch trong đầu. Hắn gật đầu, tằng hắng và nói lớn. “Chúng ta tiến hành nào.”

    Và đột nhiên, thời điểm đã đến.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    (43) Harpoon RGM-84 là phi đạn hành trình đối hạm được Hoa Kỳ triển khai từ 1977. Phi đạn này được cải tiến và nâng cấp nhiều lần và hiện được rất nhiều quốc gia sử dụng. Có nhiều phiên bản cho tiêm kích, tàu mặt nước, tàu ngầm và trên bộ. Khác với các loại phi đạn hành trình đối hạm thường gặp vào thập kỷ 1970-1980 chỉ có thể bay sát mặt nước thẳng đến mục tiêu và liên tục tìm tòi mục tiêu, Harpoon có thể được gài lập trình để bay theo tuyến đường rắc rối (bay vòng) tạo mê hoặc cho địch thủ, bay sát mặt nước mà chỉ sử dụng ra-đa để đo và điều chỉnh cao độ nên khó bị phát hiện. Sau đó, khi tiếp cận mục tiêu, Harpoon mới bật ra-đa tìm mục tiêu. Khi phát hiện mục tiêu, nó lao vọt lên không, rồi đâm xuống từ trên cao. Vì lộ trình biến đổi bất ngờ, địch khó đánh chặn hơn. Vì tuyến đường phức tạp, ta có thể bắn nhiều phi đạn tấn công vào mục tiêu từ phương hướng khác nhau tạo khó khăn và mê hoặc cho chiến hạm địch. Vì lao xuống từ trên cao, Harpoon có thể được thiết kế nhỏ hơn, mang đầu đạn nhẹ hơn, nhưng vẫn xuyên thủng được sàn tàu (mỏng hơn vỏ tàu) và gây thiệt hại nặng (nổ sâu bên trong mục tiêu). Dòng phi đạn này rất thành công và được Liên Xô mô phỏng (xem Kh-35U).

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


  6. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Blue_planet,
  7. #54
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Bài viết
    68
    Xu
    610

    Mặc định

    Lưỡi Kiếm của Thần Shiva



    Tác Giả: Jeff Edwards
    Người Dịch: qnnguyen
    Biên Tập: Không Không


    Chương 51


    USS Towers (DDG-103)
    Vịnh Bengal
    Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:13 giờ địa phương

    Viên sĩ quan Tác Chiến (TAO) bấm nút nói. “Điều Hành Vũ Khí, TAO đây. Anh được phép xạ kích. Hãy bắn vào Mục Tiêu Mặt Nước Không Một và Mục Tiêu Mặt Nước Không Hai bằng Harpoon đi.”

    Tiếng trả lời vang lên ngay lập tức. “Điều Hành Vũ Khí đây, aye.”

    Vài giây sau, sàn tàu bằng thép rung lên khi những quả phi đạn hành trình đối hạm gầm thét lao ra khỏi ống phóng của chúng.

    “TAO, Điều Hành Vũ Khí đây. Bốn con chim rời ổ rồi, không thấy trục trặc gì. Đã bắn hai quả tới mỗi mục tiêu mặt nước địch.”

    Trung tá Silva quan sát phù hiệu của bốn quả đạn bạn xuất hiện trên màn ảnh chiến thuật và lao đến những điểm trung gian đã được hoạch định từ trước, nằm phía bên kia của các mục tiêu. “Còn phải bao lâu nữa mới bắn đợt thứ nhì vậy?”

    “Khoảng ba phút nữa.” Đại tá Bowie đáp.

    Kế hoạch là tấn công trong hai giai đoạn. Đợt phi đạn đầu sẽ bay quá chiến hạm địch, bên dưới tầm nhìn của ra-đa Trung quốc. Khi các quả Harpoon này đã bay được nửa đường đến các địa điểm trung gian, đợt phi đạn thứ nhì sẽ được phóng đến các điểm trung gian của chúng, nằm ở phía bên này của các mục tiêu.

    Khoảng cách giữa hai đợt phóng đã được tính toán để cho tất cả các quả Harpoon đều bay đến điểm trung gian của chúng cùng lúc. Sau đó, mọi quả phi đạn đồng loạt chuyển hướng bay thẳng đến mục tiêu và chuyển sang giai đoạn tấn công tối hậu, khi mà các ra-đa truy lùng mục tiêu được bật lên.

    Bên phía tây của biên đội địch, chiếc USS Donald Gerrard cũng sẽ tiến hành một cuộc tập kích y như vậy vào hai chiếc tàu khu trục nhẹ bên phía bên kia của đội hình địch.

    Cách đánh này được gọi là ‘simultaneous time-on-target’, tạm dịch là ‘đồng thời đến mục tiêu’. Nếu được thực hành đúng đắn, mỗi chiếc tàu hộ vệ của Trung quốc sẽ phải đột nhiên đối đầu với bốn quả phi đạn Harpoon, bay đến từ những phương hướng khác nhau.

    Các chiếc tàu khu trục nhẹ đa năng lớp Jiankai II (Giang Khải II) và khu trục phòng không lớp Luzhou (Lữ Châu) được biết là có trang bị hệ thống chống phi đạn hành trình mạnh mẽ. Nếu phải đối diện với một (hay cho dù nhiều) quả Harpoon bay đến từ cùng đại khái một phương hướng, rất có khả năng là các chiến hạm Trung quốc này sẽ đánh chặn được hầu hết hoặc tất cả phi đạn. Nhưng mà khả năng chúng có thể xạ kích bốn phi đạn địch cùng lao đến từ những phương hướng khác nhau thì thấp hơn nhiều.

    Nếu các đánh giá chiến thuật gần đây nhất đều chính xác, thì một cuộc tập kích theo lối ‘đồng thời đến mục tiêu’ sẽ đánh trúng một hay hai phát vào mỗi chiến hạm địch.

    Đối với Silva, thời gian dường như đã gia tốc dữ dội. Khoảng thời gian 3 phút giữa hai đợt phi đạn dường như lướt qua trong vài giây ngắn ngủi, rồi sàn tàu lại run lên vì đợt Harpoon thứ nhì được phóng đi. Bốn phù hiệu vũ khí bạn lại hiện lên trên màn hình Aegis và ngay lập tức bắt đầu bay về hướng điểm trung gian của chúng.

    Các phi đạn này chỉ vừa bay chưa đến 1 phút thì báo cáo của nhóm Chiến Tranh Điện Tử (EW – Electronic Warfare) đã vang lên trên mạng. “TAO, đây là EW. Tôi bắt được hai nguồn phát xạ X-band, hướng đi hai-tám-không. Đặc điểm tín hiệu và nhịp tần số phù hợp với ra-đa điều khiển xạ kích của máy bay tiêm kích Chengdu J-15.”

    Trước khi bất cứ người nào kịp phản ứng, tiếp theo là báo cáo của viên chỉ huy Không Chiến. “TAO, Không Chiến đây. Dòng dữ liệu từ chiếc Night Eagle III vừa bị cắt ngang giữa chừng.”

    Viên TAO bấm nút nói. “Không Chiến, TAO đây. Nói rõ báo cáo vừa rồi. Có phải anh bị mất liên lạc với vệ tinh không?”

    “TAO, Không Chiến đây. Thưa thiếu tá, không phải vậy ạ. Chúng ta vẫn còn liên lạc tốt với SATCOM 7, nhưng vệ tinh đã mất liên lạc với máy bay không người lái rồi.”

    Silva trao đổi ánh mắt với Bowie. “Đại tá, nếu tôi không lầm, một phi tuần Trung quốc vừa đánh rơi chiếc máy bay không người lái của chúng ta rồi.”

    Nhận định của nàng được xác nhận bởi viên Sĩ Quan Phòng Lái chỉ hai giây sau. “TAO, Phòng Lái đây. Thủy thủ canh gác vừa báo cáo trông thấy một quả cầu lửa ở hướng hai-bảy-năm. Góc độ là 51 độ.”

    Bowie quay sang viên TAO. “Chuẩn bị kích hoạt SPY nhé. Các bằng hữu Trung quốc của chúng ta vừa nhận ra là chúng ta đang ở trong xóm của họ rồi đó. Tôi muốn chúng ta sẵn sàng chuyển sang tư thế chiến đấu Aegis hoàn toàn ngay lập tức khi được lệnh.”

    Hắn đề cao giọng để cho toàn bộ nhân viên phòng hành quân CIC đều nghe được. “Mọi người nghe đây. Sắp sôi nổi lên rồi đó. Mọi người hãy tập trung và sẵn sàng cho bất cứ điều gì nhé!”

    Trên màn ảnh Aegis, phù hiệu của các phi đạn Harpoon vừa bay đến các điểm trung gian cuối cùng và quẹo về phía các chiến hạm địch. Các phi đạn này thuộc loại bay rà sát mặt nước để tránh vùng bao phủ của ra-đa từ các mục tiêu càng lâu càng tốt. Trong vòng khoảng 90 giây nữa, chúng sẽ có thể bị phát hiện bởi các nhân viên ra-đa Trung quốc.

    Bowie không có ý đồ cho phép các chiến hạm địch kịp thời gian phản ứng chống lại các phi đạn ấy. Hắn gật đầu với viên TAO. “Bắn pháo vào chúng đi.”

    Viên TAO chuyển lệnh cho nhóm Điều Khiển Vũ Khí và chiếc chiến hạm giật lên khi khẩu pháo 127 mm nhả ra phát đạn đầu tiên. Tiếng súng vang lên bên trong phòng hành quân CIC như một tiếng sấm, chỉ hơi giảm thấp vì các vách tường thép cách ly căn phòng với tháp pháo.

    Khẩu pháo bắt đầu chu kỳ nạp đạn tự động của nó, cứ mỗi ba giây lại bắn một quả trong tiếng nổ chấn động cả xương cốt. Sau khi năm quả đạn được phóng đi, khẩu pháo lại quay sang chiếc khu trục hạm Trung quốc thứ nhì và nhả ra năm quả khác. Rồi khẩu pháo lại quay trở về chiếc khu trục hạm đầu và lại bắn năm phát.

    ***

    Viên pháo Vulcano:

    Mỗi giây bay được 800 m, viên pháo đầu tiên chỉ mất 74 giây đã bay đến mục tiêu. Khi bay đến đoạn cuối của đường bay, mô-đun kiểm soát hai cánh nhỏ ở đầu mũi tiếp nhận dữ liệu GPS và so sánh với vị trí được ước tính bởi khối đo lường quán tính, bên trong viên pháo. Mô-đun kiểm soát điều chỉnh góc độ của hai chiếc cánh nhỏ và viên đạn Vulcano chúi đầu vào giai đoạn bay cuối cùng.

    Cảm biến tia hồng ngoại khóa cứng vào nguồn nhiệt lượng lớn nhất mà nó có thể thấy. Mô-đun kiểm soát cánh nhỏ làm một điều chỉnh góc độ sau cùng và viên pháo dẫn đường lao đến mục tiêu như một ngôi sao băng.

    Chiếc tàu khu trục lớp Luzhou có hai động cơ tua-bin hơi nước do Trung quốc thiết kế. Khi viên pháo đầu tiên trong loạt đạn bắt đầu từ bầu trời lao xuống, ký hiệu nhiệt lượng mạnh nhất là một cụm khí siêu nóng bốc lên từ ống khói ở phía trước.

    Viên Vulcano đầu tiên đâm vào nơi nóng nhất của luồng hơi xả ra, khoảng 2 m bên trên ống khói, hoàn toàn hụt khỏi chiếc tàu khu trục và trúng vào nước khoảng 15 m bên trái của chiếc tàu. Nó nổ tung, bắn tung một làn mưa mãnh đạn hoặc là lao vào biển, hoặc là bắn trúng vào vỏ tàu thép của chiến hạm kêu leng-keng một cách vô hại.

    Ba giây sau, viên Vulcano tiếp theo bắn hụt chiếc tàu Trung quốc còn xa hơn nữa. Nhưng rồi, viên thứ ba đã đến.

    ***

    Khu trục hạm Shijiazhuang (Thạch Gia Trang), lớp Luzhou số 116, Hải quân QGPNDTH

    Trung úy Dong Jie quay ống nhòm sang phải và cuống quít đảo khắp bầu trời bên phải của tàu. Viên sĩ quân trực và tên thủy thủ canh gác đang tụ lại nơi cửa sổ kính bên trái của phòng điều khiển, tìm cách nhìn nơi hai vụ nổ vừa xảy ra bên trái của tàu.

    Nhưng mà họ đang nhìn sai hướng rồi. Các quả tên lửa hay đạn pháo, hay cái gì đó đã bay đến từ phía đông. Trung úy Dong đã nghe thấy chúng rõ ràng, một tiếng rít cao thé mà tai gã chỉ thoáng nghe được. Âm thanh gì thế nhỉ? Cái thứ gì nổ vậy nhỉ?

    Thế rồi gã lại nghe thấy tiếng rít ấy lần nữa, cũng từ phía đông như hai lần trước. Gã quay sang viên sĩ quan trực và nói. “Nghe kìa!”

    Nhưng viên sĩ quan trực không hề lắng nghe.

    Dong bước mau đến cánh cửa kín nước bên phải của phòng chỉ huy. Gã vặn mạnh cần kéo cửa lên, kéo cửa mở ra và bước ra hành lang bên phải dưới ánh sao. Khí trời đêm lạnh lẽo ập vào người gã như một nhát búa, nhưng gã muốn biết cái âm thanh kia từ đâu đến.

    Chẳng biết nó là cái gì, nhưng chắc chắn nó quá nhỏ để có thể thấy trên ra-đa bởi vì các màn ảnh trong phòng chỉ huy không cho thấy có vật gì đang tiếp cận cả và các nhân viên điều hành ra-đa cũng không có báo cáo bất cứ điều gì bất bình thường.

    Gã nâng ống nhòm lên mắt và quét qua bầu trời tối. Gã không thấy gì ngoài những ngôi sao. Nhưng mà kẻ nào lại có thể làm ra những điều này chứ nhỉ? Bọn Ấn Độ sao? Hay bọn Mỹ? Nhưng mà bọn chúng đã đi xa rồi mà. Bị đánh bại và bị xua đuổi khỏi chiến trường…

    Xuyên qua cánh cửa phòng chỉ huy còn mở, Dong có thể nghe tiếng điện thoại reo lên. Chắc là hạm trưởng rồi, đang muốn một bản báo cáo về những tiếng nổ kỳ quái kia đây mà.

    Tiếng rít đang lớn lên. Dong nghĩ rằng gã vừa thoáng thấy một cái gì đó, một cái bóng nhỏ và đen ngòm loáng thoáng lao xuống từ bầu trời tối thui.

    Thế rồi một cụm ánh sáng quắc làm lóa mắt gã. Chân gã rời sàn tàu khi sóng xung kích và mảnh đạn xuyên vào thân thể gã, ném gã văng xuyên qua cửa vào phòng chỉ huy.

    Lúc này, báo cáo vang lên trên loa, tiếng nói kích động của viên sĩ quan của nhóm Ra-đa lắp bắp nói về sự xuất hiện bất ngờ của bốn viên phi đạn đang lao đến từ những phương hướng khác nhau. Những tiếng thét lệnh cho các hệ thống vũ khí phòng thủ.

    Nhưng đôi tai tê tái của Dong Jie đã bị tràn ngập bởi nhịp tim đập xa xôi của gã. Ban đầu rất nhanh, rồi chậm dần… chậm dần…

    Gã khép đôi mắt, rồi lại mở chúng ra. Quan cảnh vẫn không hề thay đổi. Cho dù mí mắt gã đang đóng hay mở, gã chẳng thấy gì khác hơn là cái lóe sáng trắng của phát nổ.

    Óc gã không nhận biết âm thanh như lưỡi cưa máy của những khẩu pháo nhiều nòng loại Gatling đang khạc ra những tràng đạn 30 mm vào màn đêm. Gã không hề nhìn thấy hai hỏa cầu bùng lên trong đêm tối khi hai dòng đạn cao tốc cắt nát hai quả phi đạn địch. Gã không hề nhìn thấy các khẩu Gatling di chuyển về phía những mục tiêu kế tiếp.

    Và gã không hề nhìn thấy các quả Harpoon Mỹ còn lại vượt qua hàng rào phòng thủ và len lõi vào để hạ đòn sát thủ.

    ***

    USS Towers

    “TAO, Điều Khiển Vũ Khí đây. Harpoon đến mục tiêu, ngay lúc này đây!”

    Bowie không chút do dự. “Kích hoạt SPY đi!”

    Vài giây sau, các màn ảnh Aegis khổng lồ bắt đầu tràn ngập dữ liệu về quân địch: năm phù hiệu tàu mặt nước địch và bốn cặp phù hiệu máy bay địch.

    Trong một thoáng thời gian, 16 phù hiệu phi đạn bạn nằm chồng bên trên phù hiệu của các khu trục và khu trục nhẹ của Trung quốc, mỗi chiếc có 4 phi đạn bạn. Rồi phù hiệu phi đạn màu xanh lơ biến mất khỏi màn ảnh, chừa lại phù hiệu tượng trưng cho chiến hạm địch.

    Trung tá Silva quan sát các phù hiệu Harpoon tắt ngúm đi. Bao nhiêu phi đạn đã lọt qua được và bao nhiêu viên bị bắn hạ trước khi bay đến mục tiêu? Quan trọng hơn là, còn bao nhiêu chiến hạm hộ vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc còn khả năng chiến đấu?

    Lúc này, vì chiếc máy bay không người lái đã bị tiêu diệt, không có cách nào để đánh giá thành quả chiến đấu cả. Có lẽ phải mất nhiều phút nữa mới có thể làm rõ được chiếc tàu nào còn có thể di chuyển và xạ kích, và chiếc nào đã bị loại khỏi vòng chiến. Nhưng mà các chiếc tàu khu trục Mỹ đang ở thế hạ phong về quân số và không thể nào chờ đợi để biết thành quả được.

    “Cứ tiếp tục pháo kích vào chúng.” Bowie nói. “Năm viên, chuyển mục tiêu, năm viên, rồi lại quay trở lại.”

    Cứ mỗi ba giây, khẩu pháo lớn lại gầm lên và một quả Vulcano khác lại bắt đầu hành trình xa xôi đến một trong hai chiếc khu trục hạm lớp Luzhou.

    Ở phía bên kia của chiếc tàu sân bay Trung quốc, chiếc USS Donald Gerrard cũng đang hạ thủ với hai chiếc khu trục hạm hạng nhẹ ở bên rìa tây của trận hình địch.

    Cho tới nay, cuộc tập kích đã diễn ra y như trong kế hoạch. Cuộc đột kích đã xảy ra thật hoàn hảo, nhưng bất ngờ đã qua rồi. Khi mà các ra-đa SPY của họ đang phóng suất hằng mấy triệu watt năng lượng vào không gian, hai chiếc Towers và Gerrard đã mất đi mọi khả năng tàng hình rồi.

    Bây giờ các máy bay tiêm kích của địch đã biết họ ở đâu. Lúc này họ đã không còn lẫn tránh được nữa.

    Điều này được chứng minh chỉ 10 giây sau, khi tiếng nói của viên sĩ quan phụ trách Không Chiến vang lên trên mạng. “TAO, đây là Không Chiến. Bốn Bogies đang tiếp cận. Hai phi tuần mỗi cái hai chiếc. Có vẻ như bốn chiếc kia đang xông về phía chiếc Gerrard!”

    “TAO đây, aye. Chờ một chút.”

    Viên sĩ quan Tác Chiến nhìn sang Bowie. “Hạm trưởng, yêu cầu được phép khai hỏa vào máy bay địch.”

    Bowie gật đầu. “Cho phép.”

    Viên TAO quay trở về máy vi tính của mình và bấm nút nói. “Điều Khiển Vũ Khí, đây là TAO. Anh được phép khai hỏa. Xạ kích và hãy tiêu diệt mọi Bogies lọt vào tầm tác chiến của chúng ta!”

    Trên màn ảnh Aegis, hai cặp máy bay địch màu đỏ đang nhích lại gần chiếc Towers.

    Tiếng sấm lại vang lên khi khẩu pháo 127 mm lại phóng một quả Vulcano về phía một trong các tàu mặt nước của địch. Tiếng sấm này lập tức được tiếp theo bởi tiếng gào của tên lửa rời ống chứa.

    “TAO, đây là Điều Khiển Vũ Khí. Bốn tên lửa được phóng rồi, không có trục trặc gì cả. Mỗi chiếc Bogey có một quả.”

    Viên TAO đang với tay định bấm nút nói thì một báo cáo khác đã vang lên trên mạng. “TAO, Không Chiến đây. Bọn Bogies phóng phi đạn. Tôi đếm được 8 phi đạn đang bay đến.”

    Viên TAO bấm nút nói. “Mọi vị trí, TAO đây. Có Vipers đang tiếp cận! Tôi lặp lại, có phi đạn đang tiếp cận! Điều Khiển Vũ Khí, chuyển Aegis qua chế độ tự động sẵn sàng. Cho CIWS vào chế độ tự động tác xạ. Break. EW, chuẩn bị phóng chaff!”

    Chuyên viên Tác Chiến Điện Tử (EW – Electronics Warfare) trả lời ngay. “TAO, EW đây, sẵn sàng chaff rồi. Tôi đang theo dõi tám ra-đa truy tìm H-band, phù hợp với SSN-27 Sizzler. Xin được phép bắt đầu quấy nhiễu.”

    “EW, TAO đây. Cho phép. Quấy nhiễu tùy ý.”

    Một loạt tiếng gầm cho hay nhiều quả tên lửa SM-3 đã được phóng đi, tiếp theo là tiếng nói của viên sĩ quan chỉ huy nhóm Không Chiến. “TAO, Không Chiến đây. Mười sáu tên lửa đi rồi, không thấy trục trặc nào. Hai quả nhắm vào mỗi quả Viper.”

    Các máy vi tính Aegis đang theo phương pháp ‘bắn-bắn-nhìn-bắn-bắn’: bắn hai quả tên lửa đánh chặn vào mỗi phi đạn hành trình đang đến gần, dùng ra-đa đánh giá xem những phi đạn nào đã bị tiêu diệt, rồi lại bắn hai quả tên lửa khác vào mỗi quả Viper nào còn sống sót sau đợt xạ kích đầu tiên. Trừ phi được người ta cắt ngang quá trình, Aegis sẽ tiếp tục phương thức tác xạ này cho đến khi chiếc Towers đã bắn hết phân nửa số tên lửa SM-3 mang theo. Đến khi ấy, các máy vi tính sẽ tự động giảm nhịp tác xạ xuống thành ‘bắn-nhìn-bắn-bắn’.

    Lúc này, màn ảnh Aegis đã biến thành một nùi dấu hiệu đỏ và xanh rối loạn. Mắt của Silva nhảy từ dấu hiệu này qua cái khác, cố gắng tìm hiểu tình huống chiến thuật đang diễn biến nhanh chóng. Tình hình cuộc chiến đã trở nên phức tạp vượt qua trí óc con người có thể phân tích được. Trận chiến đã chuyển qua lĩnh vực cộng sinh giữa con người và máy móc, nơi mà con người chỉ còn có thể hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng xử lý và kết nối dữ liệu của máy vi tính, mà máy vi tính cũng hoàn toàn lệ thuộc vào con người làm ra những quyết định theo bản năng và đôi khi dựa vào vài khoảnh khắc tài hoa chiến thuật sáng chói.

    Phía bên trái của màn ảnh, tương ứng với phía tây của biên đội tàu sân bay Trung quốc, tình hình cũng phức tạp y như vậy. Chiếc Gerrard cũng đang tối tăm mặt mũi trong trận chiến của chính nó với những quả tên lửa, vừa lao đến lẫn lao đi, đang bay tán loạn.

    Giữa những dấu hiệu hỗn loạn, phù hiệu đỏ của chiến hạm mặt nước Không Hai lóe lên và được thay thế bởi khung số liệu ‘vị trí cuối cùng’. Chiếc chiến hạm ấy vừa biến mất khỏi ra-đa rồi. Hoặc là nó đã chìm lỉm, hoặc là nó đã nổ tung thành những mảnh vụn quá nhỏ để có thể phản chiếu tia sóng ra-đa. Dù gì đi nữa, nó cũng biến mất rồi.

    Silva đập nhẹ vào vai Bowie và chỉ vào màn ảnh. “Đại tá, chúng ta vừa tiêu diệt một mục tiêu mặt nước rồi đó.”

    Bowie dời chú ý từ trận chiến trên không sang các phù hiệu tàu mặt nước, vừa đúng lúc viên sĩ quan Tác Chiến Mặt Nước loan báo sự kiện tàu địch bị tiêu diệt.

    Viên hạm trưởng gật đầu hướng Silva. “Mắt cô lanh thật.” Hắn bấm nút nói. “TAO, hạm trưởng đây. Cho khẩu pháo 127 mm chỉ tác xạ vào mục tiêu mặt nước Không Một thôi.”

    Trên màn ảnh, các phù hiệu phi đạn địch và bạn bắt đầu nhập vào nhau. “TAO, Không Chiến đây. Đã bắn hạ ba Viper. Chúng ta vẫn còn 5 phi đạn đang bay đến.”

    “TAO, aye. Break. EW, TAO đây. Bắn chaff đi.”

    Nhân viên Chiến Tranh Điện Tử lên tiếng nhận lệnh. “Bắn chaff, aye.”

    Tiếng nói của gã được tiếp theo bởi một loạt tiếng nổ nhỏ. “Đã bắn sáu viên.”

    Trong màn đêm, sáu quả đạn đầu tròn vọt ra khỏi giàn phóng Super-RBOC ở phía trước. Các viên ‘Super Rapid-Blooming Overboard Chaff’ (Super-RBOC, tạm dịch là đạn ‘chaff nổ cách xa tàu siêu nhanh’, xem ghi chú về chaff) bay vào không trung và nổ tung ở những điểm đã định trước, làm tung tóe ra những mảnh vụn kim loại và những đám mây bụi nhôm để lôi cuốn các ra-đa truy lùng mục tiêu trên phi đạn địch đang bay đến gần.

    Lại thêm một loạt gầm rú khi các máy vi tính Aegis phóng một đợt tên lửa đánh chặn SM-3 khác.

    “TAO, Không Chiến đây. Mười tên lửa phóng đi, không thấy trục trặc gì. Hai quả nhắm vào mỗi quả Viper còn lại.”

    Trên màn ảnh chiến thuật, bốn quả tên lửa SM-3 được phóng về phía các máy bay tiêm kích Trung quốc đã đến mục tiêu. Một trong số máy bay địch lóe lên và biến mất khỏi màn ảnh, được thay thế bởi khung số liệu ‘vị trí sau cùng’.

    “TAO, Không Chiến đây. Bắn hạ một Bogie. Số Bogie còn lại bay về phía nam.”

    Viên TAO gật đầu. “Phi đạn SSN-27 là một vũ khí nặng. Có lẽ chúng không mang theo nhiều hơn hai quả đâu.”

    “Có lẽ.” Bowie nói. “Nhưng chúng ta không nên dựa vào điều ấy.”

    Mười quả tên lửa đánh chặn nhập vào năm quả Viper. Sau khi đám phù hiệu hỗn loạn yên ổn lại, ba quả phi đạn địch vẫn tiếp tục bay đến gần.

    Bowie nhăn mặt. “Chúng ta vẫn nghe nói là SSN-27 rất khó đánh chặn, nhưng mà lạy Chúa… Phải làm thế nào mới bắn hạ được lũ khốn kiếp này chứ?”

    Một trong số phù hiệu phi đạn địch bỗng nhiên quẹo sang một bên và biến mất.

    “TAO, Không Chiến đây. Một quả bị chaff lừa rồi. Không quả nào bị quấy nhiễu cả.”

    Hai quả Viper còn lại gần như chạm vào phù hiệu của chiếc Towers trên màn ảnh.

    “TAO, Điều Khiển Vũ Khí đây. Hai quả Viper lọt lưới rồi. Chúng đã kích hoạt giai đoạn dẫn đường cuối cùng và chúng đã đến quá gần để có thể xạ kích bằng tên lửa. Khẩu CIWS đằng trước đang bắn.”

    Không khí rung lên vì tiếng gào của khẩu CIWS khi nó phun một tràng đạn tungsten về phía hai quả phi đạn hành trình. Một tiếng nổ điếc tai vang lên khi quả Viper nổ tung chỉ cách chiếc tàu khu trục vài trăm thước.

    Khẩu CIWS quay sang mục tiêu kế tiếp và bắt đầu khạc đạn. Tý xíu nữa là đã kịp thời rồi.

    ***

    SSN-27:

    Nửa giây trước khi lao vào mục tiêu, phần mũi của quả phi đạn bị trận mưa đạn tungsten đập nát, khiến bộ phận ra-đa truy lùng mục tiêu và bộ phận điều khiển phi đạn nát bấy. Nếu quả phi đạn cách xa mục tiêu 50 m thôi, thiệt hại như thế có thể đã đủ để làm nó lao đầu vào nước biển rồi. Nhưng mà quả SSN-27 đang di chuyển hơn hai lần tốc độ âm thanh và quán tính của tốc độ ấy khiến cho viên phi đạn mù lòa lao qua vài mét cuối cùng, trúng vào mục tiêu của nó.

    Quả SSN-27 đánh trúng bên trái của chiếc chiến hạm Mỹ, khoảng 4 m dưới sàn tàu chính. Mọi cảm biến tinh vi của phi đạn và bộ phận kích nổ của nó đã bị khẩu CIWS đánh tan nát, nhưng sự đơn giản của ngòi nổ cơ giới vẫn còn sống sót.

    Trong khoảnh khắc một phần triệu giây sau cuộc va chạm, lực va chạm truyền dọc theo chiều dài của quả phi đạn, khiến cho một thanh ferit kền lắp trong một vòng xoắn tính từ bị nén lại. Do hiện tượng từ giảo, sự biến dạng của thanh kền ấy tạo ra một xung động từ trường nhỏ xíu lan truyền suốt trong vòng xoắn, tạo ra một dòng điện. Dòng điện này kích hoạt hạt nổ vùi sâu trong đầu đạn của quả phi đạn.

    Hai trăm kg Cyclotri-methylene Trinitramine lóe lên thành một luồng lực hình nón đâm xuyên vào vỏ tàu với sức mạnh của một đầu tàu xe lửa. Vách bằng thép gập lại như giấy. Những cây cột bằng thép kêu kẽo kẹt và gãy sụp trong nhiệt độ và áp suất cao. Một dòng thác mảnh vụn lao vào trung tâm chiếc tàu qua cái lỗ thủng khổng lồ ấy.

    Thế rồi chỉ còn lại hỗn loạn và tử vong.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


  8. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Blue_planet,
  9. #55
    Ngày tham gia
    Nov 2007
    Bài viết
    68
    Xu
    610

    Mặc định

    Lưỡi Kiếm của Thần Shiva



    Tác Giả: Jeff Edwards
    Người Dịch: qnnguyen
    Biên Tập: Không Không


    Chương 52


    USS Towers (DDG-103)
    Vịnh Bengal
    Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:29 giờ địa phương

    Có một khoảng thời gian vĩnh hằng một cách kỳ quái khi mà mọi thứ dường như xảy ra như trong phim quay chậm vậy. Silva có thể nghe tiếng viên sĩ quan phòng Lái trên loa 1-MC, ra lệnh cho mọi người chuẩn bị va chạm. Có ai đó đang yêu cầu được cập nhật về tình huống của quả Viper cuối cùng. Trên màn ảnh Aegis, phù hiệu đỏ của quả phi đạn địch đang nhập vào cái vòng tròn màu xanh lơ tượng trưng cho chiếc USS Towers.

    Silva đang đứng cạnh Đại Tá Bowie, vài thước phía sau chiếc ghế của viên TAO và không có thứ gì ở gần bên cho nàng bám vào cả.

    Bowie bám vào một xà ngang bên trên đầu, còn Silva quay sang một cột thép từ sàn lên trần, nằm bên phải của nàng. Hai tay nàng bám quanh cột, đầu cúi xuống và hai gối hơi khụy xuống, cố gắng làm theo tư thế chuẩn bị chống va chạm mà mọi thủy thủ đều được học qua, nhưng ít ai nghĩ sẽ phải dùng đến.

    Thế rồi cái giây dài đằng đẳng ấy cũng qua đi, và dòng chảy thời gian từ mức chảy chậm rì lại tăng vọt thành một tốc độ điên cuồng.

    Sóng xung kích cắt ngang qua phòng hành quân CIC như một cơn bão táp và không gian đột nhiên đầy những mảnh vụn, những mẩu thi thể bay tứ tung và những tiếng kêu gào của những kẻ bị thương và hấp hối. Mọi đồ vật không được gắn chặt trong phòng, mọi cây viết, cuốn sổ và tách cà-phê lập tức vọt lên không và bay đi từ phía chỗ phi đạn nổ với cùng tốc độ với sóng xung kích.

    Các vị trí làm việc của hệ thống SLQ-32 ở khu vực Chiến Tranh Điện Tử và các màn ảnh ra-đa hấp thụ và làm giảm một phần lực lượng của vụ nổ. Nhiều bàn ra-đa bị giật ra khỏi các giá lắp ráp, màn ảnh nổ tung thành những chùm mưa thủy tinh, các mảnh thủy tinh bắn sâu vào mặt và thân thể của các nhân viên ra-đa.

    Hai tay của Silva bị kéo tuột khỏi cột thép. Nàng bị bắn vào một tấm bản ghi nhận tình hình, mạnh đến nỗi lớp kính dày bị rạng nứt. Cú va chạm làm nàng ngất ngư. Một bên đầu của nàng đập mạnh vào khung sắt của tấm bản. Nàng gục xuống sàn tàu, mê man.

    Nước từ hệ thống làm mát cho thiết bị xịt tung tóe từ những vết nứt trên ống. Nhiều giây điện bị chập mạch, làm máy cắt điện bật lên. Đèn trên trần tắt phụt và trong một khoảng thời gian ngắn, máu me và hỗn loạn diễn ra trong bóng tối hoàn toàn.

    Rồi đèn khẩn cấp chạy bằng pin được kích hoạt tự động, đem lại ánh sáng đỏ mờ cho cả căn phòng điêu tàn.

    Các màn ảnh Aegis lớn đều tối đen. Phần đông các trạm làm việc còn lại đều có ánh đèn cảnh báo vàng và đỏ nhấp nháy, cho biết các trình độ hư hỏng cả về vật chất lẫn điện tử.

    Silva nằm ngửa, ngắm nhìn các vùng sáng và tối chen lẫn kỳ dị trên trần phòng: ánh đèn khẩn cấp, lúc sáng lúc mờ vì những lọn khói từ vụ nổ, các ánh nhấp nháy của đèn cảnh báo và bóng người thấp thoáng đang lần mò trong bóng tối. Không khí mang nặng mùi hóa chất cháy, mùi dây điện bị chảy tan và mùi da thịt cháy nám.

    Dường như có lửa cháy gần đâu đây, nhưng điều ấy không có gì là quan trọng trong trí óc mù mờ của Silva. Đến một lúc nào đó, nàng chợt nhận ra là tay áo bên trái của nàng đang ngún lửa. Vải áo là loại chống lửa và có vẻ nó đang chống lửa thật. Bằng không, cả cánh tay áo của nàng đã bốc lửa ngùn ngụt rồi.

    Dần dần nàng ý thức ra là nàng cần phải ngồi dậy. Có nhiều chuyện còn cần nàng làm mà. Nhưng mà nàng không cách nào nhớ được đó là những chuyện gì.

    Tai nàng vẫn còn lùng bùng vì vụ nổ, nhưng nàng có thể nghe được những tiếng người cuống quít vang lên trong các loa treo trên trần phòng. Báo cáo. Hỏi han về thiệt hại. Yêu cầu mệnh lệnh. Không ai có vẻ như chú ý gì đến các lời nói ấy cả.

    Đầu nàng gục sang bên trái và nàng chợt nhận ra mình đang nhìn vào một người nằm nghiêng trong một vũng máu. Mặt hắn có vẻ quen thuộc. Nàng đã từng thấy hắn ở đâu rồi. Có thể nàng đã từng quen biết hắn, hay sao đó…

    Không. Không phải thế. Nàng biết hắn mà. Đây chính là Bowie. Đại Tá Bowie.

    Cái ý nghĩ mạch lạc duy nhất ấy, sự nhận diện đơn giản và cơ bản ấy chính là tia lửa làm nhen nhóm lại ý thức của Silva. Nàng lại bắt đầu tiếp nhận và xử lý các dữ liệu thông tin. Thế giới lại trở nên rõ ràng và cùng lúc ấy, sự đau đớn cũng trở về, trong đầu nàng, nơi hai bên sườn nàng và ở cổ tay trái nữa. Bầm dập tại nhiều chỗ hơn là nàng có thể đếm và nàng đã chảy máu ở thái dương bên trái nữa, nhưng dường như không có thứ gì bị gãy cả.

    Nàng cố gắng chống tay ngồi lên và lập tực phải đánh giá lại, khi một cơn đau quặn cả bao tử lan lên từ cổ tay trái của nàng. OK, có lẽ cổ tay đã gãy rồi.

    Silva lăn người qua bên phải, chống đầu gối và tay phải còn nguyên vẹn xuống. Bên trái của phòng hành quân CIC có vài đám cháy và cả khu vực ấy mờ khói. Trong khi Silva đang nhìn, ba hay bốn thủy thủ xông tới các đám lửa với những ống CO2 chữa cháy, phun những luồng khí carbonic trắng để dập lửa.

    Silva đang gồng người để chuẩn bị đứng lên thì có động tĩnh làm nàng ngưng lại. Bowie đang vẫy nàng bằng ngón trỏ bên phải một cách yếu ớt.

    Nàng nhìn hắn kỹ hơn. Vùng sàn tàu quanh hắn đầy chất lỏng đậm màu. Cánh tay trái của hắn ghì chặt vào ngực, lòng bàn tay ấn mạnh vào một chỗ gần xương ức. Lớp vải áo của hắn lấm tấm những lỗ thủng nhỏ và, nếu xét bằng số lượng máu đang chảy qua các ngón tay của hắn, bên dưới bàn tay của hắn có một lỗ thủng còn to hơn nữa.

    Mắt hắn dán chặt vào mắt của Silva. Nàng có thể thấy rõ điều ấy cho dù dưới ánh sáng đỏ mờ nhạt của đèn khẩn cấp.

    Nàng lết nhanh đến gần hắn, hai đầu gối trượt đi trên sàn tàu ướt nhảy. Khi nàng đã đến gần, nàng đưa bàn tay không bị thương đến và cố gắng giúp hắn đè chặt lên vết thương nơi ngực.

    Nàng thử kêu to, nhưng âm thanh như kẹt bên trong cổ họng nàng. Nàng nuốt nước miếng và thử lại lần nữa. “Y tá! Tôi cần y tá ở đây!”

    Nàng không ngước mắt đi khỏi vết thương của Bowie, cố gắng giúp hắn làm chậm chảy máu.

    Nàng lại hô lên, tiếng của nàng to một cách bất ngờ. “Hạm trưởng bị thương rồi! Cho y tá đến đây ngay, ngay bây giờ!”

    Nàng bắt đầu nhìn quanh, cố tìm một thứ gì có thể dùng làm băng gạc tạm thời. Bất cứ thứ gì để thấm máu cho đến khi cứu hộ đến nơi.

    Có cái gì đó chạm vào vai nàng. Nàng nhìn xuống và kịp thấy bàn tay phải của Bowie trợt khỏi cánh tay nàng và rơi xuống sàn. Môi hắn đang nhấp nháy.

    Silva nhìn hắn bằng một ánh mắt mà nàng hi vọng là đầy trấn an. “Đừng nói gì cả, Jim ạ. Cứ nghỉ ngơi một chút đi. Y tá sẽ đến ngay thôi.”

    Bowie lẩm bẩm và một dòng máu chảy ra từ khóe môi hắn. Tiếng hắn chỉ lớn hơn lời thì thào một chút. “Gần hơn…”

    Silva cúi xuống cho đến khi mặt nàng chỉ còn cách mặt hắn vài phân.

    Mí mắt của Bowie sụp xuống. Khi chúng mở ra lại, chúng chuyển động chậm chạp như thể hành động mở mắt cũng khiến hắn phải sử dụng ý chí nhiều lắm.

    “Tàu là của cô rồi…” Hắn nói. “Tàu là…”

    Thế rồi có người quỳ gối xuống bên kia của Bowie. Những bàn tay nhanh nhẹn và rành nghề tìm tòi xem thân thể của Bowie còn mang vết thương nào khác hay không.

    “Cứ ấn mạnh như thế đi, thưa cô.” Một tiếng nói vang lên. “Tôi sẽ sẵn sàng băng bó ngay thôi.”

    Silva vẫn nhìn vào mắt Bowie nên nàng không thấy mặt của gã y tá. Gã kêu to, “Tôi cần một chiếc cáng ở nơi này và hai người khiêng! Stat (ND: từ chuyên môn trong giới y khoa có nghĩa ‘ngay lập tức’)!”

    Hai tay của gã lục lọi trong một túi vải xanh, móc ra một hộp băng được bọc trong giấy khử trùng màu nâu. “Sắp xong rồi,” gã nói, “vài giây nữa thôi.”

    Bowie rên lên và chậm rãi chớp mắt. “Tàu là của cô đó, Kat.” Hắn nói nhỏ. “Cô là…”

    Hắn ho mạnh và hít một hơi đau đớn. “Cô bây giờ là hạm trưởng rồi…”

    Silva lắc đầu. “Không đâu, Jim. Anh sẽ khỏe mà. Anh sẽ…”

    “Không!” Bowie gắt. Tiếng nói của hắn nửa như tiếng rên và nửa như gầm gừ. Mắt hắn rực lên một cách hung dữ mà Silva chưa từng thấy nơi hắn.

    Các ngón tay của viên y tá lôi bàn tay của Silva đi, làm việc nhanh chóng để nhét một xấp bông dày vào cái lỗ thủng nơi ngực của viên đại tá.

    “Đây là… mệnh… lệnh… sau cùng… của tôi…” Bowie khò khè. “Cô đảm nhiệm chỉ huy! Đảm…”

    Tiếng hắn nhỏ dần vào im lặng và hắn thả ra một hơi thở thật chậm và dài. Hắn không hít vào lần nào nữa.

    Viên ý ta hô to. “Khiêng cán! Đến đây! Tôi cần giúp đỡ!”

    Và rồi có người khác cũng quỳ xuống, chen vào bên cạnh Silva trên sàn tàu trơn máu.

    Gã y tá nhìn vào ánh mắt của Silva. “Hạm trưởng ơi! Chúng tôi cần một chút chỗ, OK, thưa cô?”

    Silva gật đầu và lết đầu gối lùi lại cho đến khi nàng có đủ chỗ để lồm cồm đứng lên.

    Đầu nàng nhức nhối vì cái hành động quá nhanh ấy và nàng lảo đảo vài giây trước khi đứng vững vàng. Thị lực của nàng lờ mờ, một phần vì sự đau nhức và một phần vì dòng lệ đột nhiên dâng lên và chảy ròng xuống đôi má.

    Nàng chớp mắt đánh tan lệ và loạng choạng bước vài bước đến nơi làm việc của viên TAO. “Máy thông tin của anh vẫn hoạt động chứ?”

    Viên TAO ngớ ngẩn gật đầu.

    Silva chỉ vào máy nghe choàng đầu của gã. “Cho tôi nói qua 1-MC đi.”

    Viên sĩ quan Tác Chiến nhìn nàng, liếc qua nơi các y tá đang cuống quít cứu chữa cho vị hạm trưởng đã ngã xuống. Rồi gã lại nhìn qua Silva, bấm ba nút liên tiếp và đưa dụng cụ tai nghe choàng đầu qua cho nàng.

    Silva không để ý đến tai nghe. Nàng chỉ nâng ống vi âm lên miệng và bấm nút nói. Khi nàng cất tiếng, tiếng nói của nàng vang lên khắp nơi trên chiến hạm.

    “Toàn thể thủy thủ đoàn nghe đây, đây là Trung tá Katherine Elizabeth Silva. Tôi có trách nhiệm đau buồn cho mọi người biết là Đại Tá Bowie bị thương rồi. Ông ấy…” Nàng dừng lời một giây, tìm cách diễn đạt những từ kế tiếp.

    Nàng lại bấm nút nói. “Chiếu theo mệnh lệnh chính thức từ Chỉ Huy Trưởng Ban Nhân Sự Hải Quân và chiếu theo lệnh từ miệng của Đại Tá Bowie, kể từ lúc này tôi đảm nhiệm quyền chỉ huy chiếc chiến hạm này.”

    Nàng hít vào một hơi và nói tiếp. “Trận đánh này vẫn chưa kết thúc và chúng ta cũng chưa bị loại khỏi vòng chiến. Tôi hoàn toàn có niềm tin với chiến hạm này và với mỗi người nam và nữ trong thủy thủ đoàn. Bây giờ… Chúng ta hãy đứng thẳng dậy và tiến trở vào vòng chiến!”

    Nàng thả nút nói ra và đảo mắt quanh phòng. Mọi gương mặt trong phòng hành quân CIC đều hướng về phía nàng. Nàng nhìn thấy khuôn mặt nàng đang tìm và gật đầu với Thượng sĩ Kenfield. “Này, Đồng Ruộng Mênh Mông… Hát cho chúng ta một bài đi nào.”

    Mặt gã thủy thủ này bầm dập và đầy máu, nhưng môi gã từ từ hé ra, mỉm cười ngượng ngập. “Có phải là mệnh lệnh không, thưa cô?”

    “Chứ còn gì nữa!” Silva nói.

    Gã thủy thủ đứng thẳng người hơn, vai căng ra. “Aye-aye, Hạm trưởng!” Gã đằng hắng, hít một hơi đầy buồng phổi và rống to tiếng rống bất khuất của phiến quân (* 44, nguyên bản Rebel yell) quen thuộc của gã.

    Chiến hạm đã bị thương. Nhiều thành viên trong phòng hành quân CIC đã chết hay bị thương. Vài đám cháy nhỏ vẫn còn bộc phát ở nhiều nơi trong phòng và viên hạm trưởng Bowie anh dũng và yêu quý đã bị mang ra khỏi phòng trên một chiếc cáng. Nhưng mà mỗi người còn khả năng hoạt động đều phụ họa theo tiếng rống của gã Đồng Ruộng Mênh Mông. Tiếng gào xung trận của phiến quân dường như làm không gian chấn động, biến thành tiếng biểu lộ cho sự kiên quyết, can đảm và thách thức.

    Cái này thật sự là không chuyên nghiệp rồi. Thật là ngớ ngẩn. Nhưng thật là tuyệt vời.

    Hạm trưởng Silva quét đi vài giọt lệ nơi mắt bằng bàn tay còn nguyên vẹn, nói. “Được rồi, mọi người. Chúng ta hãy xông lên đá mạnh vào đít chúng nào!”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    (44) Rebel Yell, tương truyền là tiếng gào xung trận của quân đội phản loạn miền Nam trong cuộc nội chiến Nam Bắc của Mỹ, thế kỹ 19. Tiếng gào này nghe nói bắt nguồn từ chiến sĩ da đỏ. Ngày nay, người ta chỉ dùng phiên bản của Hollywood, nghe đại loại như “Diii-Haaa!” hoặc “Diii-Hooo!”. Tuy nhiên, Thư Viện của Quốc Hội Mỹ còn lưu trữ phiên bản được thu âm từ một cựu chiến binh quân đội miền Nam vào năm 1936 lúc ông cụ đã hơn 80 tuổi. Theo phiên bản này, Rebel Yell nghe như “Uuuu.. Huuuu… Uuuu… Huuu…” kéo dài man dại. Phiên bản Hollywood vẫn được sử dụng rộng rãi để bày tỏ niềm phấn khích.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ---QC---


  10. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Blue_planet,
Trang 11 của 13 Đầu tiênĐầu tiên ... 910111213 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status