TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 11 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 9101112 CuốiCuối
Kết quả 51 đến 55 của 59

Chủ đề: Nghiệp

  1. #51
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 15: Frenen

    ~~~Phía Nam Feldivik~~~

    Trời đã trưa, nắng đã lên cao và sương mù cũng đã tan hết. Frenen và Reena cưỡi ngựa bám theo bìa rừng. Nếu họ vào trong rừng quá sâu thì dễ chừng đụng lũ quỷ, còn nếu ra hẳn khỏi rừng thì quân Chủ Thị sẽ thấy, như chính Frenen đang thấy rõ ngọn cỏ nơi chân trời. Cưỡi ngựa trong rừng thì chẳng nhanh được, nên tới trưa họ mới tới phía Nam Feldivik. Vẻ như có ngựa chỉ giúp họ nhanh lên một tí và khỏe cái chân một chút.

    Trên đường đi Frenen đã kể lại hết đầu đuôi sự việc cho Reena hiểu sự, từ khu rừng Pirab cho đến cái đêm Kwi và Stieng Vũ Trang đánh nhau ác liệt ở Feldivik. Dễ chừng, sau đêm ác liệt đó, phe Stieng Vũ Trang chưa rút hẳn mà vẫn còn lảng vảng quanh đây, lí do nào đó thì khó đoán.

    “Có điều này em thật sự khó hiểu. Em cứ có cảm giác là con quỷ biết ta sẽ tới chỗ nó, như cái kiểu lũ thú xuất hiện đúng lúc với lá thuốc,” Reena nói. “Chàng có thấy vậy chăng?”

    “Bọn chúng đã ở đó, đêm qua, giấu những bước nhảy vào trong cơn giông, lặng thầm quan sát chúng ta khi nàng vẫn còn say giấc,” Frenen đáp.

    “Chàng nói thật chứ?”

    “Ta không nhìn thấy chúng, nhưng ta cảm thấy chúng. Nếu chúng muốn ra tay thì chúng ta chẳng có đường sống. Nhưng quả thực, chúng chỉ đến, rồi đi. Tới lúc này, ta chỉ nghĩ là chúng không ý nghĩ thù địch gì với ta. Hay chí ít là chúng có thể chỉ là quân do thám, và chúng không muốn đánh động… con người.”

    “Chúng giảo hoạt hơn chàng tưởng. Chúng không chỉ biết có con người. Chúng biết rõ con người này khác con người kia. Chúng biết ta mâu thuẫn với đám Chủ Thị. Có như thế thì con quỷ mới biết sử dụng con ngựa để trao đổi với chúng ta.”

    “Có lý.”

    “Còn xét tới việc chúng điều khiển được muông thú, thì thành ra, chúng đang ở quanh ta,” Reena nói đoạn nhìn lên cành cao.

    “Lũ sóc.”

    “Cũng có thể là chim chóc nữa. Nhưng cũng có ngoại lệ, đó là lũ chó.”

    “Phía Bắc đang có chiến tranh, phía Nam thì có do thám trà trộn. Ta cầu cho đám quân Chủ Thị bận rộn và đường về của chúng ta được bình yên. Chẳng lâu nữa là ta sẽ tới được bìa rừng phía Đông và phải ra ngoài đồng cỏ. Dẫu biết có thể đám Chủ Thị sẽ nhìn thấy, nhưng ta phải trở về Tarbas càng sớm càng tốt, trước khi đêm xuống và lũ quỷ xuất hiện.”

    ~~~Biên giới Tây-Nam Tarbas, ngày hai mươi tháng Chín~~~

    Trở lại cuộc truy đuổi nơi đồng cỏ. Frenen chẳng thể lường được có một nhóm quân kỵ sĩ Chủ Thị đón lõng. Mỗi lúc kẻ thù lại càng tiến tới gần. Và khi chúng đến đủ gần, những mũi tên bắt đầu được bắn ra. Vẻ như chúng đang nôn nóng, chẳng muốn bắt tận tay. Những mũi tên vốn được nhắm vào con ngựa chứ chẳng phải kẻ cưỡi ngựa. Lũ kỵ sĩ chẳng dám kháng lệnh Murkuro mà làm đả thương Reena. Tuy nhiên, nếu mũi tên có lầm lỡ trúng người đi chăng nữa thì cũng không sao, bởi vì đó là tấm lưng của Frenen.

    Tên liên tiếp bay vút qua, dẫu có là hụt đi chăng nữa thì Frenan vẫn sợ thót tim. Chỉ cần một mũi tên trúng phải mông ngựa thôi là đủ để ngựa ngã quỵ. Điều khiển ngựa lạng lách sẽ giúp làm kẻ thù khó nhắm trúng, nhưng lại làm cho ngựa cậu chậm lại. Rồi sau đó thì chúng lại càng nhanh chóng áp sát và vung kiếm chém lên đùi ngựa của cậu. Dẫu là thế nào đi chăng nữa thì việc kẻ thù tóm được cậu chỉ là vấn đề sớm muộn.

    Bất lực, Frenen thốt lên, “Mẹ kiếp!”

    “Frenen,” Reena chợt gọi.

    Frenen đương lúc rối bời, không đáp lại.

    “Frenen, xin chàng hãy nghe em. Chúng ta không thể thoát.”

    “Chúng ta sẽ thoát!” Frenen la lên.

    “Không, chúng ta sẽ không thể. Chỉ có mỗi mình chàng là có thể thôi! Hãy để em lại, người chúng muốn là em.”

    Đúng rồi, Frenen, để ả lại. Frenen nghe như có lời thì thầm của Flink bên tai. Ra chiến trường kị nhất là dắt díu theo đàn bà con gái. Và cũng cấm kị vì đàn bà con gái mà lao ra chiến trường. Vì bản thân, chỉ vậy thôi! Frenen nghe như có giọng nói của Flink bên tai.

    “Không được!” Frenen la lên. “Chúng sẽ không tha cho nàng.”

    Chúng có tha cho ả hay chăng thì chưa biết, chỉ biết là chúng sẽ không tha cho mày, đó là điều mày biết chắc chắn. Hãy quyết định nhanh lên, bởi mũi tên của chúng đến gần lắm rồi!

    “Không được!” Frenen tự nói với mình.

    Ả là con điếm xinh đẹp, ả sẽ biết cách sống sót trước một đám đực rựa.

    “Không được!”

    Ả sẽ bị chúng hiếp, nên mày thấy giận dữ. Giận mất khôn. Mày không còn là thằng Frenen lúc nào cũng điềm tĩnh và mưu trí nữa. Mày vì một đứa con gái mà đánh mất bản thân, đánh đổi cả mạng sống. Không đáng, không đáng.

    “Không!”

    “Frenen! Hãy nghe em. Để em lại rồi đi đi!” Reena nói.

    Ả đang nài nỉ mày. Ả nài nỉ là vì mày, hay là vì những gã kia sẽ thỏa mãn sự khao khát nhục dục của một con điếm? Điều gì dám chắc là ả sẽ ở lại với mày, ngay khi ả trở về an toàn với bang hội? Hãy để ả ở lại, để ả có thứ ả muốn. Còn mày, mày đã có thứ mày muốn, mạng sống, và manh mối về Chủ Thị. Để ả đi.

    “Không!”

    Để ả đi.

    “Không.”

    Để ả đi!

    “Không…” Frenen chợt nhắm mắt, nhăn mặt, nghẹn ngào như muốn khóc. “Không, không, không. Ta xin lỗi!”

    “Chàng không cần phải xin lỗi. Em hiểu mà.” Đôi mắt Reena ướt lệ. “Hẹn chàng ở kiếp sau. Hãy đưa em con dao…”

    “Hẹn nàng ở kiếp sau…” Frenen nói đoạn nhảy giật lùi khỏi lưng ngựa, đương lúc nhanh tay rút dao chém một đường nhẹ lên đùi ngựa.

    Ngựa bị chém đau, đâm hoảng sợ, vùng chạy hết sức, chỉ trong giây lát mà Frenen đã bị bỏ lại xa phía sau. Reena còn chưa hiểu chuyện gì, khi ả ngoái đầu lại thì thấy bụi đất tung mù mịt bởi vó ngựa, và thấp thoáng trong màn khói bụi là hình bóng Frenen tức tốc trốn vào cánh rừng gần đó. Mọi thứ diễn ra quá nhanh, khiến cho Reena phải đau đáu tiếc nuối, vì hai người không có lấy một khoảnh khắc ngắn ngủi để chỉ trao nhau cái nhìn từ biệt, và lời hứa hẹn sẽ trở lại bên nhau.

    Mày ngu lắm! Bóng ma ám ảnh Flink vẫn cứ đeo bám lấy Frenen. Ả chẳng phải tay nài ngựa xuất sắc, ả sớm muộn cũng bị tóm, và mày cũng vậy.

    “Chúng ta sẽ làm được!” Frenen đáp trả cương quyết, cắm cúi chạy sâu vào trong rừng.

    Trên cao nơi bầu trời, một con đại bàng cổ trắng khổng lồ lượn cánh, đưa con mắt tinh tường—như có thể nhìn thấy kiến bò nơi ngọn cỏ—kia quan sát tất cả. Vệt bụi mù mịt xẻ dọc cánh đồng cỏ kia chợt tách ra làm hai, một vệt tiếp tục xẻ theo hướng Bắc và một vệt rẻ vào cánh rừng phía Đông. Con đại bàng tiến lên hướng Bắc, như linh tính của loài săn mồi vĩ đại mách bảo rằng, nơi đó sắp sửa diễn ra điều lạ thường.

    ~~~Frenen~~~

    Cầu nguyện cho Reena bình an hơn là tính mạng của bản thân mình, Frenen chạy thục mạng vào sâu trong khu rừng. Chẳng cần nhìn lại, đôi tai cậu mách bảo rằng kẻ thù vẫn đang đuổi theo sau lưng. Cây rừng thưa thớt chẳng thể giúp làm chậm chân lũ ngựa lại, tiếng vó ngựa vẫn vang lên đều đặn và dần to hơn. Kẻ thù hiện hữu sau lưng và hiểm nguy biết chăng đang rình rập phía trước—thú dữ lang thang hay quỷ Stieng nằm phục, điều đó khiến Frenen cảm thấy sợ hãi. Tim đập mạnh, cơ hoành quặn đau, đôi chân thấm mệt, với cậu chạy đua là hạ sách. Cậu tìm cách lẩn nấp.

    Từ trên cao nơi lưng ngựa, chỉ trong một thoáng chốc mà bóng dáng con mồi lẩn mất làm đám Chủ Thị nghi ngờ. Kẻ dường như là cầm đầu nhóm kỵ binh chợt ra hiệu cho cả nhóm dừng lại. Hắn đảo mắt dò quanh khắp hướng. Thế giới hiện ra tĩnh lặng, không một tiếng động, cũng chẳng một dấu hiệu của sự di chuyển, như thể muôn loài trong một đêm đã bị tuyệt diệt. Sau một chốc, hắn suy luận rằng con mồi chẳng thể nào chạy xa hơn tầm mắt, mà chỉ lẩn trốn quanh đây. Nơi đây mới chỉ vùng ven của khu rừng, nên cây rừng còn nhỏ, chưa kể trận gió lớn đêm qua đã xới tung hết cành lá, để lại trên cao xơ xác đủ để nhìn thấy mây trời và dưới đất được rải một thảm lá giòn tan, sau một cái thoáng nhìn thì kẻ cầm đầu tin rằng con mồi đang ở dưới mặt đất. Một cái nhìn rà soát trên mặt đất, hắn phát hiện những cành khô bị gãy ngang, cách đều nhau một bước chạy, xếp thành một hướng. Và như thế, hắn liền âm thầm ra lệnh cho thủ hạ hành động.

    Sự im lặng đến lạ thường làm gia tăng nỗi lo sợ của Frenen, khi mà cậu đang nấp đằng sau một ụ đất. Cậu nín thở, di chuyển bàn tay cẩn trọng, trở mình từ từ để tránh gây tiếng động sột soạt, tất cả chỉ vì một cái hé nhìn thăm dò hòng thỏa mãn nỗi tò mò đến liều lĩnh. Ngay khoảnh khắc đó một mũi tên bay vút qua mặt cậu và găm xuống đất. Lập tức cậu liền vùng chạy hết tốc lực, bụng thấy kinh hãi đến rợn người. Những mũi tên hiểm ác lại bám dí lấy cậu. Nếu chẳng phải nhờ cây rừng đứng ra hứng chịu thì lưng cậu đã chi chít tên găm.

    Hốt hoảng rồi đâm bất cẩn, Frenen vấp chân phải một đoạn dây thừng căng ngang, ngã nhào ra đất. Một cái bẫy, cậu tin chắc, Nhưng là của ai? Cậu nhổm dậy và thấy mình bị bao vây bởi một toán người mai phục lạ mặt, mặt mũi râu ria bặm trợn, vũ trang đầy đủ.

    “Một thằng Chủ Thị!” một gã râu ria bặm trợn la lên.

    Một thằng Chủ Thị? Frenen nhăn mặt vẻ khó hiểu.

    “Giết nó đi!” một gã khác nói.

    “Khoan, những tên khác đang đến, trên lưng ngựa. Chuẩn bị chiến đấu!” Gã vừa la lên thì liền giương khiên đỡ lấy một mũi tên.

    Toán người mai phục kì lạ sau đó lao lên chặn đường đám kỵ sĩ. Một gã mai phục lao lên vừa giương khiên chắn tên, vừa khụy gối, vung rìu nhằm chân ngựa mà chặt ngang. Con ngựa lập tức bổ nhào xuống trước, kéo theo tên kỵ sĩ ngã lăn ra đất, rồi ngay sau đó hắn bị chính gã mai phục kết liễu bằng một nhát rìu chí mạng. Đằng kia một tên kỵ sĩ cũng bị kết liễu bằng hình thức tương tự.

    Ba tên kỵ sĩ từ đằng xa vừa tới thì liền hoảng hốt giật dây cương lại, toan quay lưng bỏ chạy, nhưng chưa kịp tẩu thoát thì đã bị quân mai phục nấp gần đó giương tên bắn rụng. Lúc này Frenen mới biết, đám người chưa rõ phe phái này đã mai phục sẵn từ trước, dễ chừng là đã bị đánh động bởi tiếng vó ngựa rồi liền nhanh chóng bày binh bố trận. Ngờ rằng đám người mai phục này cũng thuộc hạng cường đạo chẳng phải vừa, Frenen liền nhân lúc hai phe tàn sát, vùng mình bỏ chạy. Nhưng khốn khổ thay, chạy được mấy bước thì cậu bị một mũi tên bắn thẳng vào đùi, ngã lăn ra đất, quằn quại đau đớn.

    “Bắt sống chúng nó,” một gã ra lệnh, vẻ như là kẻ cầm đầu. “Becken, đi gọi lão già đến. Mày, mày, và mày, ra ngoài trông chừng. Chúng nó sẽ còn đến.”

    Đám người mai phục tới nắm tóc, dựng tù binh của mình quỳ dậy. Kẻ nào dùng dằng hay tỏ ra lì lợm thì bị chúng đánh tàn bạo. Một tên Chủ Thị la lên vẻ ngông cuồng, “Chúng mày là đám quân nào? Chúng mày có biết chúng mày vừa động vào ai không hả?”

    “Chúng mày là quân Chủ Thị phỏng?” gã cầm đầu hỏi. “À phải! Sợ thật.” Gã vừa dứt lời thì tán ngay một cú vào miệng tên Chủ Thị, làm hắn nằm lăn ra đất, mồm đỏ máu. Còn gã cầm đầu quân mai phục thì phẩy phẩy bàn tay, chửi rủa, nhăn nhó đau đớn, vẻ như lúc tung ra cú tán thì tay gã đã bị răng của tên Chủ Thị cắt đứt một đường mảnh, cũng đỏ máu. “Bọn ta là lính đánh thuê, bọn ta nhận tiền để giết, chứ không phải để nói. Hãy để người thuê chúng ta tự đích thân mà xưng tên. Chờ tới tối, mày sẽ được gặp ông ta.”

    Tên lính Chủ Thị nằm nơi đất, cười nhếch mép. “Chẳng cần phải nhọc công chờ đợi. Chẳng kẻ nào trên đời nào dám động tới Murkuro, trừ Salta. Lũ đánh thuê chúng bây nhát cáy tới mức không dám xưng danh, tưởng là dễ thoát được sao? Bọn ta sẽ truy ra chúng bay, viếng thăm từng đứa một, rồi tới vợ con, người nhà, họ hàng thân thích—”

    Gã cầm đầu đá mạnh một cú vào bụng tên lính Chủ Thị. “Mẹ kiếp đồ nhãi ranh! Chưa đến tận cùng thế giới nên tưởng ta đây ghê gớm.” Rồi gã ra lệnh cho thuộc hạ, “Nó còn mở mồm nói linh tinh thì cú tán thẳng vào mặt nó. Đánh chết cũng được.”

    “Hội Anh Em Lanterbreiner Phương Bắc!” Frenen chợt la lên, lập tức thu hút sự chú ý của cả đám người mai phục.

    “Mày vừa nói gì?” Gã cầm đầu hỏi.

    “Các người là Hội Anh Em Lanterbreiner Phương Bắc!” Frenen nói vẻ chắc chắn.

    “Cuối cùng cũng có một đứa biết đây biết đó.” Gã cười vẻ hài lòng. “Mày biết gì về Lanterbreiner?”

    “Hội những chiến binh quả cảm nhất phương Bắc, nói giữ lời và làm quyết liệt, đến đảng Leukem cũng phải kiêng nể. Họ để râu tóc dài và bện lại, khoác trên mình không chỉ áo giáp mà còn có lông thú để chống chọi cái lạnh phương Bắc. Rìu và khiên gỗ là quá đủ để họ khuất phục đối thủ,” Frenen đáp, nhớ về những vị khách vãng lai đến với Đồn V. Thương nhân, người hành hương, tu sĩ lang bạt, kẻ du thủ du thực, họ không chỉ mang theo hàng hóa, của lạ đến trao đổi, mà còn mang theo những câu chuyện nửa hư nửa thực về thế giới rộng lớn bên ngoài. Những người đến từ phương Bắc, họ hay kể về người tuyết khổng lồ ngự trị nơi đỉnh núi trắng, và mối thù truyền kiếp giữa hai dòng thừa truyền, Leukem và Lanterbreiner.

    “Nói sai rồi, Leukem sợ bọn ta.” Gã cầm đầu Lanterbreiner ra lệnh cho thuộc hạ, “Ta thích hắn, nhưng hãy giữ hắn câm mồm cho tới khi lão già xong việc của lão.”

    “Tôi không phải là người của Murkuro, tôi là—” Frenen chưa kịp dứt lời thì đã bị tán một cú mạnh vào gáy, gục ngay tức khắc.

    ~~~Reena~~~

    Nơi phía Bắc, cuộc truy đuổi Reena vẫn tiếp tục. Đó là một cuộc đuổi bắt thực sự, không một mũi tên ác ý nào được bắn ra, chỉ có áp sát và kiềm hãm. Một mũi tên trúng đùi ngựa sẽ dễ dàng hơn nhiều cho quân Chủ Thị, nhưng như thế thì Reena sẽ ngã đau và bị tổn thương–khi mà ngựa đang còn rất nhanh, chủ nhân của chúng sẽ không hề hài lòng chút nào. Thế là chúng đành phải kiên nhẫn chạy đua, dù sao thì Reena không phải là tay nài xuất sắc và ngựa của ả thì đã sắp đuối sức.

    Mất một lúc và toán quân Chủ Thị cuối cùng cũng đuổi kịp được Reena. Lúc đó trời cũng vừa sập tối, chúng cũng biết nếu chúng chẳng nhanh hơn thì sẽ phải truy đuổi trong bóng tối, và điều đó cực kỳ bất lợi. Chúng cưỡi ngựa áp sát Reena, bao vây kiềm kẹp, làm ngựa của ả phải chững lại, rồi chợt hoảng sợ lồng lên, làm ả ngã ngửa ra đất.

    Reena vội lồm cồm bò trên mặt đất, trong khi đám quân Chủ Thị buông điệu cười khả ố, vẻ khoái chí lắm. Gã chỉ huy liền xuống ngựa, bản mặt lộ rõ cái máu đê tiện, lao tới tóm lấy Reena đè xuống, xé áo váy của ả một cách thô bạo. Ả liền ra sức chống cự, thì bị hai tên khác lao tới ghì chặt tay lại. Thường khi hãm hiếp, một cái bạt là đủ để uy hiếp và khuất phục ý chí chống cự của ả đàn bà. Nếu hai tên thuộc hạ không nhanh tay khống chế ả thì e rằng theo bản năng, tên chỉ huy sẽ vung ra một cái bạt tay, và cả bọn sẽ bị trừng trị vì đã lỗ mãng.

    Gã chỉ huy đi sâu vào trong người Reena chẳng mấy khó khăn, rồi sau đó hắn nhấp liên tục. Reena từ cựa quậy la hét chuyển sang rền rĩ yếu ớt. Mấy tên khác đợi sẵn phía sau, cởi sẵn thắt lưng, tay thọc vào hạ bộ nghịch vò, liếm môi, ánh mắt ham muốn, trông có vẻ nóng lòng lắm. Khi gã chỉ huy đang thúc mạnh vào lúc cao trào nhất, thì mấy tên lính chợt trố mắt chỉ tay về hướng Bắc, vẻ mặt sửng sốt, miệng mấp máy không nói lên lời: trong bóng tối mập mờ xuất hiện hình bóng của một toán người ngựa với đôi mắt sáng lập lòe ánh xanh dương kỳ lạ, đang dần tiến lại gần.

    Gã chỉ huy thì chẳng quan tâm gì hết, hắn cứ mải lo gồng mình thúc thật mạnh, thật nhanh, khi cơn khát dục đang lên cực đỉnh, mặc cho đám thuộc hạ liên tục cảnh báo. Mãi cho tới khi hắn kết thúc bằng một màn xả lũ, đẩy hết tinh trùng ra khỏi não thì sự tỉnh táo mới trở lại với hắn. Lúc đấy hắn mới hoảng sợ, la lên, “Kẻ nào đấy?”

    Những đôi mắt sáng cứ tiếp tục tiến lại gần mà không trả lời. Riêng Reena thừa biết chúng là ai–những kẻ đi tìm Markuro. Thật kỳ lạ là chúng lại xuất hiện ngay lúc này, ngay tại đây. Nhưng mặc kệ, Reena lại cháy lên hy vọng được cứu, chuyện bị đám lưu manh bất lương làm nhục lúc này không có gì là quá to tát với ả.

    “Các ngươi là ai?” tên chỉ huy lại cất tiếng hỏi, hối thúc thuộc hạ lấy trang bị vũ khí.

    “Ta chẳng buồn biết các ngươi, các ngươi chẳng đủ tư cách biết ta. Kẻ này là phường cường đạo, ả kia là hạng đĩ điếm. Ta đến để biết: Markuro đang ở đâu?” một kẻ mắt sáng nói bằng âm giọng nhẹ nhàng, vẻ như là kẻ chỉ huy.

    “Markuro?” tên chỉ huy liếm môi, vẻ như đang cố uốn lưỡi trước đối phương đông hơn và bí hiểm. “Markuro là kẻ nào? Ta không biết.”

    “Làm lãng phí thời gian quý báu của ta là tội rất nặng. Ta đang cất công, không ngại đêm tối. Thậm chí ta phải gạt qua một bên sứ mạng thanh lọc tội lỗi của con người. Ta hỏi lần cuối, Markuro đang ở đâu?”

    “Ta thực sự không biết Markuro là ai!”

    Những kẻ mắt sáng đồng loạt thúc ngựa xấn tới, tuốt kiếm phát sáng cũng sắc xanh dương nhẹ.

    “Hắn đang ở đâu đó phía Đông!” tên chỉ huy liền nói.

    Kẻ chỉ huy mắt sáng liền xuống ngựa, đi bộ tiến tới gần tên chỉ huy Chủ Thị, thân hình hiện ra cao lớn. “Bọn ta vừa trở về từ Kulm. Ở đó có kẻ đã khôn ngoan và thành thực, nói rằng Markuro đã rời đi, xuôi ngược lại vào Nam,” nói đoạn hắn ta đưa bàn tay to lớn nắm lấy cổ họng tên Chủ Thị, nhấc bổng cả người lên. “Ngươi nói dối ta ba lần.”

    Đám lính Chủ Thị liền lao lên vây lấy kẻ mắt sáng ngông cuồng, la to, vung vũ khí đe dọa. Tuy nhiên, cái phớt lờ uy quyền của kẻ chỉ huy mắt sáng và sự điềm tĩnh đến ghê rợn của đám thuộc hạ khiến cho đám lính Chủ Thị phải rùng mình, chùn bước.

    “Markuro đang ở đâu?” kẻ mắt sáng lại hỏi.

    “Ta… ta… không…”

    Kẻ mắt sáng giận dữ, quật mạnh gã Chủ Thị xuống đất, mạnh đến nỗi khiến cây cỏ bị nghiền nát, gió thổi bụi đất bay xa ra các phía. “Này là kẻ hiếp dâm, kia là ả đĩ điếm, tội lỗi cứ tái phạm, tội lỗi cứ chất chồng. Những kẻ này phụ lòng thương của Người, khiến Người giận dữ trút cơn thịnh nộ, bắt bao nhiêu con dân lương thiện phải hứng chịu. Vì đạo trời, vì tình yêu của Người, ta phải diệt trừ cái mầm mống tội lỗi,” nói đoạn kẻ mắt sáng chĩa kiếm vào cổ tên chỉ huy Chủ Thị.

    “Ta thực sự không—” gã Chủ Thị cố giải thích, nhưng chưa hết lời đã bị lưỡi kiếm phát sáng xiên vào vai trái, làm hắn rú lên đau đớn, cảm thấy như da thịt đang bị thiêu đốt hơn là cắt xé.

    “Là đứa con ngoan nguyện phụng mệnh Người hết lòng, ta đang ban phát tình yêu của Người.” Kẻ mắt sáng đâm mũi kiếm vào vai phải tên Chủ Thị. “Ta đang giải thoát cho ngươi khỏi tội lỗi tà ma đang ám chướng, hãy chịu đựng,” mũi kiếm tiếp tục đâm vào đùi trái, “cơn đau thể xác chỉ là ảo giác, chỉ nỗ lực cứu vớt linh hồn ngươi là thực, chỉ tình yêu vô hạn của Người là thực.” Mũi kiếm đâm sang đùi phải. “Đừng buông xuôi đầu hàng, sớm thì ta sẽ khuất phục tà ác đang ẩn nấp sâu.” Rồi cuối cùng, kẻ mắt sáng hai tay cầm lấy cán kiếm, vẻ như chuẩn bị đâm vào bụng. “Và linh hồn của ngươi sẽ được cứu rỗi và được chào đón trở về với vương quốc của Người. Var Skalavie!”

    “Khoan!” tên Chủ Thị liền la lên. “Hắn đang ở phía Nam! Kẻ Markuro đó, hắn đang ở phía Nam!”

    “Ở đâu?”

    “Tôi không biết rõ, hắn chỉ nói là hắn đi tìm kiếm sự thật. Không rõ, nhưng có thể là vùng Sa Mạc.”

    “Vậy là ngươi có gặp anh ấy. Anh ấy trông như thế nào?”

    “Tóc đen dài, xoăn. Mặt lầm lì, mắt lạnh lùng. Mang trường kiếm. Người dính đầy máu, không phải máu của hắn.”

    “Đúng rồi, kẻ khôn ngoan ở Kulm cũng đã nói điều y hệt. Ngươi cũng đã trở nên khôn ngoan. Các ngươi hãy tự thanh tẩy bản thân khỏi tà ác trước khi ta đích thân đến thanh tẩy các ngươi một lần nữa,” nói đoạn kẻ mắt sáng tra kiếm vào bao, quay trở lại với thuộc hạ.

    “Xin hãy cứu tôi với!” Reena chợt cất tiếng.

    Kẻ mắt sáng không thèm ngoái đầu lại. “Lũ đàn bà buông thả là nguồn gốc của tội lỗi. Hãy để cho quỷ dữ chiếm hữu các ngươi.”

    “Tôi không phải gái điếm. Tôi là Reena Salta, Salta Trưởng của bang hội Salta. Đó là sự thật—”

    Reena chưa kịp dứt lời thì bị tên Chủ Thị tán cho một bạt tai. “Ngậm mồm lại con đĩ!”

    Lúc đó, kẻ mắt sáng chợt dừng bước, lẩm bẩm, “Phải, sự thật, là sự thật,” rồi đột ngột xấn tới nắm áo kẻ chỉ huy Chủ Thị với một áp lực nặng nè, đôi mắt sáng rực. “Sự thật mà anh ấy muốn ám chỉ là gì? Sự thật đó là gì?”

    “Tôi không biết!” kẻ Chủ Thị liền đáp.

    “Làm sao mà ngươi có thể không biết?” Kẻ mắt sáng nghiến răng giận dữ.

    “Tôi thực sự không biết. Markuro là kẻ gàn dở, chẳng ai quan tâm tới hắn, chứ đừng nói gì tới để tâm những gì hắn nói.”

    “Cái gì?”

    “Đúng là như vậy. Hắn là kẻ điên, chém người không chớp mắt. Tôi không muốn nhúng mũi vào chuyện của hắn.”

    Kẻ mắt sáng liền vung tay, đấm túi bụi vào mặt kẻ Chủ Thị, cho tới khi hắn gục xuống. “Sao ngươi dám nói về anh ấy như vậy?” kẻ mắt sáng rít lên. Những tên lính Chủ Thị còn lại thấy không thể nhẫn nhịn hơn được nữa, liền đồng loạt lao tới, vung kiếm đòi chém. Kẻ mắt sáng liền hóa phép, từ bàn tay tỏa ra ánh sáng chói lóa, làm kẻ địch lóa mắt, trong giây chốc không định được phương hướng. Lúc đó, kẻ mắt sáng liền múa kiếm, chém gục hết cả bốn chỉ trong chớp mắt. Những kẻ mắt sáng kia từ đầu đến cuối vẫn tỏ ra bình chân như vại, chẳng thèm đả động gì đến cán kiếm.

    Kẻ mắt sáng dừng lại nơi kẻ chỉ huy Chủ Thị đương bất tỉnh, tra kiếm lại vào vỏ, thở kiềm chế. “Các ngươi hãy tự thanh tẩy bản thân khỏi tà ác, trước khi ta đích thân đến thanh tẩy các ngươi một lần nữa.” Rồi hắn đưa đôi mắt sáng liếc nhìn Reena, như hàm ý lời hắn nói cũng là dành cho ả. Hắn trở lại nơi lưng ngựa, đôi mắt tối đi, và đám người mắt sáng lại biến mất vào trong bóng tối đen ngòm. Nếu chẳng phải vì tiếng vó ngựa thì Reena chẳng thể nào biết được họ đang hướng xuống phía Nam.

    Về phần mình, Reena đâm hoảng sợ, bị bỏ lại một mình trong không gian tối đen và im lặng đến rợn người. Nhưng chí ít, ả biết những con ngựa vẫn còn đang ở gần đó.

    ~~~Frenen~~~

    Frenen choàng tỉnh khỏi cơn mê man khi bị tạt một xô nước lạnh vào người. Đau đớn và còn đôi chút mộng mị, cậu thấy bản thân đang bị trói vào một gốc cây, lờ mờ xung quanh là ánh đuốc lập lòe, và bóng đen của người đang đứng nói chuyện. Chút trí nhớ mơ hồ tàn dư mách bảo rằng, cậu bị chúng đánh cho bất tỉnh, khi cậu cố la lên giải thích thân phận của mình.

    Một người tiến tới tát vào mặt cậu. “Tỉnh đi, tới lượt mày!”

    Từ phía xa một bóng người đang tiến lại gần chỗ Frenen, ăn vận rộng thùng thình, vẻ như là người có quyền uy. Và khi đến đủ gần, cả hai người dường như đều nhận ra nhau.

    “Yjhori,” Frenen thều thào.

    “Là cậu!” người đó, Yjhori, la lên sửng sốt. “Frenen! Khốn kiếp thật, mau thả cậu ấy ra!”

    Đám người Lanterbreiner chợt nhìn nhau, nhún vai, chẳng hiểu đang có chuyện gì. Rồi một kẻ vẻ miễn cưỡng tới cởi trói cho Frenen, rồi đỡ cậu ta nằm xuống.

    “Thầy thuốc! Gọi thầy thuốc!” Yjhori ra lệnh, vẻ lo lắng. “Tại sao các ngươi lại đánh cậu ta ra nông nỗi này? Biết cậu ta là ai không?”

    “Hắn ta ăn mặc như một tên Chủ Thị,” một Lanterbreiner thanh minh.

    “Nhưng chúng truy đuổi cậu ấy!” Yjhori thốt lên.

    “Thì xem như nội bộ bọn chúng xử nhau,” gã lại nhún vai phân bua. “Ai có thể đoán được điều gì hơn?”

    “Khốn kiếp.” Yjhori nom bất lực với gã đánh thuê, quay trở lại với Frenen. “Cậu ổn chứ? Salta Trưởng đang ở đâu? Cô ấy vẫn ổn chứ?”

    “Lúc đó, chúng đang truy đuổi bọn tôi. Tôi và Reena trên cùng một ngựa,” Frenen thều thào đáp. “Tôi nhảy khỏi ngựa và trốn vào rừng. Còn nàng thì tiếp tục về hướng Bắc. Hãy nhanh chân lên.”

    “Cần người cùng với thầy thuốc ở lại đây chăm sóc cậu ta. Bjormann, gọi người ngựa, cùng đi với ta,” Yjhori ra lệnh.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Sửa đoạn 14: là kịch bản của Flink chứ không phải Vigor.
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 18-07-2018 lúc 18:08.
    ---QC---


  2. #52
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người


    Đoạn 16: Vigor

    ~~~Rừng Nall, phía Tây Mearodon, ngày hai mươi bảy tháng Mười~~~

    Rừng Nall cách Mearodon tám cây đá, là nơi Vigor và mười ba sĩ quan cấm quân tập trung cho chiến dịch mật. Mười bốn người chia làm năm nhóm, bốn nhóm ba người và một nhóm hai người, đi mỗi hướng độc lập và tìm tới điểm hẹn ở những mốc thời gian khác nhau trong ngày. Hai đồng đội sĩ quan của Vigor là những kẻ kín tiếng, mặt mũi cứ lầm lì trên suốt chuyến đi, cho tới tận khi tới điểm hẹn và gặp ba nhóm khác thì bọn họ cũng chẳng nói gì nhiều. Bọn họ trông trạc tuổi Vigor, mang giáp phục nặng nề nhưng lại che giấu một cách thầm lặng dưới lớp áo choàng quấn quanh, ngồi chờ dưới chân một khối đá khổng lồ, giữ khoảng cách với nhau ít nhất một sải, trao nhau cái nhìn thăm dò dè chừng. Khói trắng xuất hiện rồi tan biến đều đặn nơi sống mũi, trời đã lạnh nhưng lòng người còn lạnh giá hơn. Vigor chợt nghĩ, những người này không hề quen biết trước!

    Quá trưa, hai người cuối cùng tới, một trẻ, một trung niên, đều cao lớn và đạo mạo. Những người tới trước chẳng ai bảo ai, tất thảy đồng loạt đứng dậy cúi chào. Vigor thấy thế bất giác làm theo, tuy có chút chậm trễ. Người trung niên cau mày liếc nhìn Vigor, vẻ không hài lòng. Biểu hiện của đám cấm quân cho thấy rõ ràng người này quyền cao chức trọng, không ai không biết.

    “Ngươi là Vigor?” người trung niên hỏi.

    “Sĩ quan phó đội Vigor.”

    “Thừa truyền?”

    “Không có. Mạn phép xin được biết danh tính của ngài.”

    “Vệ úy Naioben,” người sĩ quan trẻ tuổi đáp thay. “Sĩ quan ngũ phẩm Vigor, anh cần cẩn trọng lời nói hơn.”

    “Tôi vẫn sẽ là người chỉ huy chiến dịch chứ?” Vigor hỏi.

    Cả đám lính trố mắt nhìn Vigor. Người sĩ quan trẻ tuổi định cất tiếng khuyên bảo, thì bị Naioben chặn lại. Ông ta hỏi, “Ngươi hỏi vậy là có ý gì?”

    “Chẳng có ý gì.” Vigor đáp. “Trước đó tiểu nhân đã tấu với ngài tể tướng, xin được dẫn quân chiến dịch này.”

    “Và bề trên đã chấp thuận?”

    “Đúng vậy.”

    “Theo như ta nhớ thì bề trên chưa có một lời sắc phong chức vụ chỉ huy chính thức nào dành cho ngươi. Nghi ngờ ta? Vậy hãy nhớ lại từng lời của bề trên dành cho ngươi mà xem. Thắc mắc duy nhất nên có lúc này của ngươi là vai trò của mình. Hãy mau xếp vào hàng ngũ đi và ta sẽ phân nhiệm vụ.”

    Ngẫm lại thì lời của Naioben không hề sai chút nào, Vigor chợt nhận ra tể tướng Ramses lúc đó chẳng có một lời phong quyền chính thức nào cả. Nghĩ tới nghĩ lui thì cậu vẫn không phục. “Nhưng ở đây tiểu nhân là kẻ hiểu rõ kẻ địch nhất.”

    “Vậy thì tốt, ta sẽ có những lời cố vấn đáng cân nhắc,” Naioben đáp thản nhiên. “Ngươi không có bất cứ ý định bất tuân nào, phải chứ?” Ông ta hỏi và nhìn xoáy vào ánh mắt bất mãn của Vigor.

    “Bất tuân? Tiểu nhân không hề,” Vigor gượng đáp.

    “Vậy thì tốt. Hãy chờ lệnh của ta.” Naioben nói đoạn, đi tới ngồi xuống nơi một tảng đá nhỏ. Mấy cấm quân liền vây lấy ông ta với tác phong cung kính.

    “Tôi là Satchel,” người sĩ quan trẻ tuổi chợt tiến tới gần Vigor, thân thiện xưng. “Do thám, và cũng là giao tiếp viên.”

    “Giao tiếp viên?” Vigor nhíu mày.

    “Quân số cho chiến dịch lần này ít ỏi, một cá nhân sẽ phải kiêm nhiệm nhiều vai trò,” Satchel đáp. “Hơn nữa, là một do thám thì việc giao tiếp cũng là hiển nhiên. Do thám đâu chỉ đọc đường đi nước bước phía trước bằng con mắt không thôi, mà còn phải nhờ vào cái miệng và cái tai. Phải biết ăn nói sao cho kẻ xa lạ phải khai ra thông tin giá trị mà không cần tốn sức tra khảo, đó là cả một nghệ thuật.”

    “Vậy sao?”

    “Vigor, anh là một tay cừ khôi. Tôi rất muốn học hỏi nhiều điều từ anh. Nhưng hãy để sau, giờ ta cần phải diện kiến vệ úy. Ngài ấy đang chờ chúng ta.”

    “Lão ta ư?” Vigor nhếch mép.

    “Xin anh hãy cẩn trọng hành vi. Ngài ấy có toàn quyền hành quyết chúng ta. Ngài ấy là một Ramses!”

    “Một Ramses?” Vigor liền trố mắt.

    “Ngài ấy đã được phong thừa truyền, là Naioben Ramses. Giờ anh đã biết thân phận cao quý của ngài ấy rồi, xin hãy nghe lời tôi mà cúi người cung kính,” Satchel nói đoạn khều tay Vigor, vẻ khẩn khoản.

    ~~~~~~

    ‘Tên, biệt danh, họ, và thừa truyền.

    Cái tên đầu tiên là gì, đã xuất hiện như thế nào? Ai là kẻ phát minh? Không có cổ văn nào ghi tạc lại. Ý tưởng gì đã thôi thúc hắn cần phải có một cái tên? Phân định bản thân với đồng loại, ta võ đoán.

    Như thần linh tự tạo ra chính mình, rồi sau đó tạo ra chúng sinh, thế hệ những con người có tên đầu tiên tự chọn tên cho mình, rồi sau đó đặt tên cho con cái. Thế hệ kế cận chẳng ai còn quyền chọn tên cho mình nữa, nhưng vẫn còn đó quyền được đặt tên cho thế hệ tiếp sau. Rồi cứ thế truyền thống đặt tên tiếp diễn.

    Thật trớ trêu khi ta chẳng thể biết tên của người phát kiến ra tên. Thật báng bổ khi ta nghĩ con người từ đó bắt đầu đặt tên cho cả thế giới, từng quả núi, từng con suối, từng cánh đồng, nhân danh các vị thần! Thậm chí là đặt tên cho cả các vị thần!

    Nhưng, cái tên định danh để phân biệt kẻ này với kẻ khác là chưa đủ. Ở cái làng nọ thời xa xưa, ít người, tuổi thọ lại thấp, người này chết thì để trống tên cho kẻ khác thừa hưởng. Dần dà về sau, phụ nữ đẻ càng nhiều, cơm áo thuốc thang đầy đủ, con người lại sống lâu ra. Thế là tên không đủ để mà chia nhau dùng, ắt có kẻ trùng tên. Ấy là chưa kể có người từ làng khác dọn đến sinh sống.

    Một người hỏi, “Bạn hiền ơi, xin hãy vui lòng chỉ giúp tôi nơi Hermans đang làm!”

    Người bạn kia đáp, “Hermans nào? Hermans thợ rèn hay Hermans thợ làm bánh? Hermans con ông Lamden hay Hermans con ông Dakar? Hermans trẻ hay Hermans già? Hermans nhà gần cây sồi hay Hermans nhà gần ao nước? Hermans tóc đen hay Hermans đầu trọc? Hermans làng Dake hay Hermans làng Hild?”

    Đau đầu rồi đấy! Để biết chính xác người mình đang tìm, người nọ phải biết “biệt danh” của người tên Hermans kia, bằng không thì khó lòng tìm kiếm, hay đơn giản khi gợi nhắc tới. Thế là biệt danh ra đời. Thế là người nọ liền nhớ ra cái biệt danh đấy, “Tôi tìm Hermans Dakarson, tức là Hermans con của Dakar.”

    Đấy là ta chỉ nói tới một cái làng bé tí, một thành thị đông đúc, nơi có đủ hạng người thì lại càng rắc rối hơn biết bao nhiêu. Và biệt danh thì cũng chẳng dài lâu, nó thay đổi khi cuộc đời của chủ nhân nó thay đổi. Người ta lại phải nghĩ tới một cách khác để gắn kết với tên tuổi hơn – “họ”.

    Huyền Vương thứ I sắc phong tướng Bogoris làm lãnh chúa toàn quyền của Godun, thủ phủ của vùng Borunhil, Đông Bắc Aldanine. Ở đó Bogoris đặt ra luật lệ hà khắc nhưng lại đặt bản thân trên thứ luật lệ đó. Thường dân vì thế kinh sợ, thấy lãnh chúa là né tránh. Như người ta nói, một người làm quan thì cả họ được nhờ. Đám con cháu họ hàng của lãnh chúa hễ ra đường là tự xưng là một “Bogoris”, lấy đó làm chỗ ỷ y mà quát nạt cả thiên hạ. Quyền lực của Bogoris cha truyền lại cho các Bogoris con cháu, cứ thế cho tới tận khi dòng dõi Huyền Vương sụp đổ.

    Thường dân chẳng quan tâm gì tới việc giữ cho mình một gốc gác họ tộc. Bọn họ chỉ cần tên là đủ, bọn họ chẳng có gì để tự hào ở gốc gác của mình cả. Họ là một thứ gì đó xa xỉ, mà chỉ có giới thượng tộc cao quý, dòng dõi danh giá, quan tướng quyền lực mới dùng đến. Bằng việc thừa kế lại họ, đám con cháu cũng sẽ được danh chính ngôn thuận thừa kế lại quyền lực và tài sản từ cha ông. Kể cả khi thế hệ sau bị sa cơ thất thế, con cháu vẫn giữ lấy họ như là giữ lấy lòng tự tôn của một dòng dõi cao quý. Cho đến tận năm của Constantan, Bogoris vẫn còn là một dòng họ lớn của vùng Borunhil, dẫu cho quyền lực không còn tối thượng như trước.

    Tới đây vẫn chưa hết vấn đề. Vấn đề cứ nảy sinh như chuột đẻ con vậy. Chẳng thể nào giải quyết hết được. Giả như có một dòng dõi cao quý, nhưng con cháu thì quá yếu hèn chẳng đủ tư cách để kế tục cơ nghiệp, thế là dòng dõi đó buộc phải chọn một kẻ ngoại tộc–không cùng huyết thống, nhưng lại đủ tư chất–và ban cho kẻ đó họ, họ ở đây chính là “thừa truyền”. Sau đó thì kẻ được chọn mới có đủ tư cách tiếp nhận cơ đồ.

    Thừa truyền còn có thể được dùng trong nhiều hoàn cảnh khác. Một bang chủ khi cần thiết thì có thể ban thừa truyền cho tất cả thành viên trong bang hội để khuếch trương thanh thế. Một chúa tể có thể ban thừa truyền cho thuộc hạ thân tín như một cách để trao quyền lực, để kẻ đó có thể thay chủ nhân thực hiện quyền hành nhân danh người. Một tướng quân có thể ban thừa truyền cho cả gia đình nhà vợ, để cảnh báo bất kỳ ai nếu có ý muốn sinh sự.

    Tóm gọn lại thì họ gắn kết với huyết thống, còn thừa truyền gắn kết với quyền lực. Quyền lực còn thì thừa truyền còn, quyền lực mất thì thừa truyền mất.

    —Heh’ran ký trình’


    ~~~~~~

    “Nghe đây lính!” Naioben nói, khi mười ba người lính đang vây quanh với sự chú tâm tuyệt đối. “Đây sẽ là một chiến dịch do thám. Ta biết các ngươi đều rất giỏi chiến đấu, nhưng đừng vì thế mà tự cho phép mình hành động lỗ mãng. Chúng ta sẽ đi vào lòng địch, nơi chúng ta dễ sẽ có lúc bị vây quanh bởi hàng ngàn quân thù. Bất kỳ lúc nào. Thậm chí là đối mặt với quỷ! Chúng ta chỉ là do thám, chúng ta sẽ phải tránh gây hấn. Các đơn vị do thám tiền nhiệm đã lấy được cho chúng ta một số thông tin, trước khi bị mất liên lạc.”

    “Cái gì?” Vigor thốt lên. “Các vị tướng đã biết sự tồn tại của chúng ư?”

    “Im lặng.” Satchel đưa ngón tay che miệng. “Đừng ngắt lời chỉ huy.”

    Naioben liếc nhìn Vigor, cau mày. Sau một chốc thì ông ta trở lại với việc giải thích, lấy ra một miếng da lớn gấp làm tư, trải dài trên nền đất. Miếng da hiện ra là một tấm bản đồ lớn, trải rộng từ Tarbas đến dãy núi Cực Tây. “Đây là những gì mà ta có được,” ông ta vừa nói vừa chỉ vào những ký hiệu đánh dấu trên bản đồ. “Đây là nơi địch đồn trú. Đây là số dân, đây là số lính. Đây là nơi quỷ hiện diện. Đây là đường mòn di chuyển. Đây là lối băng rừng. Còn những chỗ này, tất cả những chỗ trống không này, chà, nhiệm vụ của chúng ta là phải lấp đầy chỗ trống đó. Đây sẽ là trò chơi ghép hình lớn.”

    “Chuyện gì đã xảy ra với các đơn vị do thám tiền nhiệm?” Vigor hỏi.

    “Đừng bao giờ hỏi khi ta chưa cho phép,” Naioben cau mày nói. “Ta bỏ qua cho lần này. Tất cả các do thám tiền nhiệm đã bị mất liên lạc, ít nhất trong một tháng qua. Các do thám phải luôn cập nhật tình hình hễ khi có biến động, hoặc ít nhất mỗi tuần một lần để quân các biết họ còn hoạt động. Khả năng lớn là họ đã bị địch phát hiện, sống chết chưa rõ. Địch đã có bước đề phòng, chúng ta cũng phải thận trọng.

    “Tin tình báo quan trọng gần đây nhất, đó là đang có chiến tranh ngầm ở đây, Kulm. Một pháo đài cũ giữa biên giới Halatan và Gardine. Giờ thì nó đang bị địch chiếm đóng, tập trung quân số rất lớn, ít nhất là ba ngàn. Bên chiếm hữu là Chủ Thị và quỷ, quỷ này gọi là Kwi. Bên tấn công cũng là quỷ, nhưng gọi là quỷ Stieng. Giao tranh thường xuyên xảy ra vào ban đêm, nếu các ngươi đủ gan dạ để mà chứng kiến. Quỷ Kwi là loài quỷ đen thường thấy. Quỷ Stieng là loài quỷ đã tấn công Đồn V. Ta tin là Vigor biết rõ cả hai loài, đúng không?”

    “Bẩm ngài, đúng là như vậy,” Vigor đáp.

    “Thế thì tốt. Kẻ địch cả quỷ lẫn người, nên dù đi ban ngày hay đi ban đêm cũng đều nguy hiểm như nhau,” Naioben nói tiếp. “Tuy nhiên ta sẽ ưu tiên di chuyển ban đêm, có như thế ta mới quan sát được những hoạt động dị thường của địch. Trường hợp chạm trán với quỷ, các ngươi đã được phổ biến về những đặc tính của quỷ, mới nhất là theo tin tình báo, và kết hợp với kinh nghiệm thực chiến của Vigor, chúng ta sẽ có cách đối phó. Ở đây ai là pháo binh?”

    “Là tiểu binh,” một người nói và bước lên trước, “Kazmaier!”

    “Kazmaier, ngươi có biết dùng loại pháo mới chưa?”

    “Bẩm ngài, tiểu binh đã nắm rất kĩ, nóng lòng chờ dịp phô diễn sức mạnh của nó.”

    “Tốt,” Naioben gật đầu đáp, ra hiệu cho Kazmaier lui. “Vậy là ta sẽ có hai chuyện cần kể. Vigor kể lại câu chuyện của Stieng và Kazmaier kể về loại pháo mới. Nhưng đó là lát nữa. Giờ thì có ai có câu hỏi gì thì hãy lên tiếng.”

    Vigor liền hỏi, “Vẫn là câu hỏi lúc nãy của tiểu binh. Các vị tướng đã biết rõ về sự tồn tại của đám quân Chủ Thị này từ trước rồi sao?”

    “Đừng tự cao, Vigor,” Naioben đáp. “Đám Chủ Thị này tồn tại trước cả khi ngươi ra đời. Có điều trước đó bề trên chỉ biết đến chúng như là một đám thổ phỉ buôn lậu mà thôi, chẳng phải là mối nguy gì to tát. Tuy nhiên, gần đây nguồn thu thuế bị sụt giảm cùng với giá đồng sắt đắt đỏ, bề trên mới quyết dẹp bỏ đám Chủ Thị này. Do thám được tung ra để điều tra, hòng tóm gọn hang ổ cầm đầu, nhưng chục năm qua đều thất bại, chưa kể do thám không sớm muộn thì lần lượt đều mất tích.

    “Ta không rõ là Hội Đồng Năm (The Council Five) có hay biết gì về đám Chủ Thị, nhưng chí ít là họ tỏ ra không hề hay biết. Bề trên cũng không buồn gặng hỏi. Cá nhân ta tin rằng, phải có sự bao che của thống chế thì đám Chủ Thị mới ngang nhiên như vậy. Bề trên không muốn rút dây động rừng, muốn âm thầm điều tra cho ra nhẽ. Và bề trên trông cậy hết ở các ngươi. Vigor, người không có nói với bất kỳ ai khác về phát hiện của mình chứ?”

    “Tiểu binh nhận thức rõ về việc kẻ địch đã cài gián điệp vào quân ta từ sớm. Ngoài các đồng đội đã tử nạn ra, tiểu binh không hề hé lời với ai khác. À khoan, còn một người nữa, đó là thái y Khranes, cầu cho ông ta tin tưởng được.”

    Naioben phẩy tay. “Đừng bận tâm về lão, nếu không còn ai khác biết thì tốt rồi.”

    “Nếu như không ai biết về mật dịch của các do thám, tại sao họ lại bị địch phát hiện?”

    “Ngươi đánh đố ta phải không?” Naioben cau mày.

    “Tiểu binh hỏi vậy là vì ta phải biết nguyên nhân các do thám tiền nhiệm thất bại. Có như thế ta mới không dẫm lên vết xe đổ của họ.”

    “Ý định ban đầu là phái đi Maril. Ngươi trông không có vẻ ngạc nhiên?”

    “Maril vốn dĩ chẳng phải lời đồn đại. Lúc còn ở kinh thành, tiểu binh đã nghe kể nhiều về chúng. Tại sao bề trên lại đổi ý?”

    “Maril là bóng ma trong thế giới của con người. Nhưng trong lãnh thổ của quỷ, chúng chẳng là gì hơn mồi ngon cả. Một do thám quân sự sẽ biết cách tồn tại với quỷ, nhưng lại thiếu thốn kĩ năng đối phó với kẻ địch là người. Đến hiện tại, ta vẫn chưa tìm ra được lực lượng nào cân bằng giữa hai nhóm đơn vị này. Tuy nhiên, lựa chọn do thám quân sự của cấm quân được cân nhắc hơn cả. Đơn giản là, lũ Maril, bản chất của chúng là không thể tin tưởng được. Chúng là một lũ xảo quyệt, không hề có lòng tận trung, sẵn sàng theo bất kỳ ai trả cho chúng nhiều hơn.”

    “Ngài là một cấm quân tận trung.”

    “Đừng phát ngôn sáo rỗng. Các đơn vị do thám quân sự tiền nhiệm đã sống sót tốt, được cho tới khi địch cảnh giác cao độ. Ngặt nỗi, thông tin khai thác họ khai thác được quá ít ỏi.”

    “Từ một tháng trở lại đây, đã có sự kiện gì xảy ra trong lòng địch? Phải có một tác động gì đó mà địch mới biết được có người của phe ta.”

    “Ta không rõ hết. Rình rang nhất là chuyện bang hội Salta chính thức tuyên chiến của Chủ Thị, về vũ lực lẫn thương mại. Được biết, trật tự quân (constable) được điều phái đi cùng với Salta. Vẻ như bề trên đang chống lưng cho Salta.”

    Vigor nghe tới Salta, chợt nhớ tới Frenen, lòng thấy chột dạ. “Việc điều tra vụ Salta và đám thương hội đã tiến hành rồi chăng? Tiến triển đã tới đâu rồi?”

    “Đó không phải việc của ta. Càng không phải việc của ngươi,” Naioben nói đoạn chợt liếc mắt sang trái, trong khi tay ra dấu hiệu thủ ngữ. Tức thì cả nhóm quân cùng đánh con ngươi sang hướng đó.

    “Ta đã giải thích hết những gì ta biết. Đã đến lúc, tất cả lên đường,” Naioben nói.

    Vigor chợt nói khẽ, “Khoan đã, thưa ngài! Hình như phía kia có động.”

    “Cứ im lặng và đi theo!” Naioben đưa ngón tay lên miệng.

    ~~~~~~


    Mẹ ban thân xác, cha ban danh dự. Anarmur, hãy gọi ta là Anarmur, con trai của Anar và Mur, những người con hiền lương xứ Einur khắc khổ. Sống nhờ cánh đồng, lớn lên nhờ cánh đồng, rồi chứng kiến cái chết dị lạ của cánh đồng. Đất rụng rời thành cát bụi, lá úa tàn gãy giòn răng rắc. Hai mùa lá rụng là đủ để thế giới trở nên điêu tàn. Cơn bĩ cực sa hóa nhân tính ngàn năm trở về thời hoang dại.

    Cha mẹ tế sát đứa con yếu nhất để đổi lấy sự sống cầm chừng cho những đứa con còn lại. Cho đến khi người chồng tế sát người vợ để đổi lấy mạng sống cho đứa con cuối cùng. Người cha bị sát hại và bị ăn thịt bởi đồng loại, đứa trẻ bắt nhốt để trở thành bữa ăn dự trữ như gia súc. Khí đó, đứa trẻ oán hận, “Thượng Đế đang ở nơi nào? Người có thực sự là tồn tại trên cõi đời này không?”

    Một hình bóng vĩ đại hiện ra trước đôi mắt lờ mờ đói mệt của đứa trẻ nhốt trong cũi, thì thầm vào tai nó, “Hãy kiên định niền tin, nhưng chớ có tin ai toàn phần. Ta ban cho mi cơ hội sống.”



    Hai mươi năm đi theo hình bóng vĩ đại với tư cách là môn đồ độc nhất, đứa trẻ lớn lên và hấp thụ sự vĩ đại toát ra vô tận. Nó chẳng nhớ rõ về quá khứ, nhưng nó tin hình bóng vĩ đại đã dùng sự vĩ đại của ngài để đánh thức nhân tính đang yếu thế trong con người những kẻ man rợ tuyệt vọng kia. Ngài đã cứu nó, nhận nó làm đồ đệ, và ban cho nó tinh túy vĩ đại nhất–tri thức!



    Môn đồ kia đi theo sư thầy đủ lâu để chứng kiến thân phận phàm nhân của thầy cũng đến hồi kết. Sự siêu phàm của thầy không khiến thầy thoát khỏi vòng tròn sinh tử. Đương lúc hấp hối, người thầy căn dặn, “Ta đã ban cho con cơ hội sống. Ta đã ban cho con tri thức kết tinh ngàn đời. Nay ta ban cho con món quà cuối cùng, ta ban cho con thừa truyền, Heh’ran. Hãy làm rạng danh chúng ta.”

    Ta là Anarmur, con trai của Anar và Mur, con của xứ Einur, môn đồ duy nhất của Heh’ran vĩ đại, là kẻ thừa kế độc tôn danh dự của dòng thừa truyền Heh’ran. Ta là Heh’ran.

    —Heh’ran ký trình’


    ~~~~~~

    “Hắn vẫn đang theo đuôi chúng ta,” Vigor nói với Satchel với vẻ cộc cằn, khó chịu, khi cả nhóm đang đi bộ băng rừng tiến về hướng Tây theo sau Naioben.

    “Không cần anh nói thì chúng tôi cũng biết,” Satchel nói.

    “Cái gì?” Vigor nom ngạc nhiên ra mặt.

    “Hắn ẩn thân quá kém, chẳng bằng phần mười Maril. Đã là cấm quân thì phải có năng lực phát giác ra Maril. Kẻ này quá lộ liễu.”

    “Nhưng sao ta lại phớt lờ hắn? Rõ ràng hắn đang dò la chúng ta.”

    “Vệ úy ắt có mưu kế. Hãy cứ tuân lệnh. Anh đừng nóng vội mà làm hỏng đại sự.”

    Vigor vẻ mặt hầm hầm, không nói gì nữa.

    “Vigor, anh đến từ Đồn V, vậy hẳn anh biết người tên Somel chứ?” Satchet hỏi.

    “Ở Đồn V có vài người tên Somel,” Vigor lạnh lùng đáp.

    “Somel Aderin.”

    “Con nhà dòng dõi à? Người đó là gì của cậu?”

    “Một người anh em họ hàng. Tên đầy đủ của tôi là Satchel Aderin.”

    “Những đứa trẻ nhà dòng dõi sao lại ra nơi biên cương?” Vigor hỏi giọng mỉa mai.

    “Dòng họ Aderin của bọn tôi là dòng họ lớn ở Aldanine. Tuy nhiên cụ tổ của bọn tôi lại quyết định dấn thân lập nghiệp tận Gardin. Sự nghiệp của cụ hưng thịnh cho tới khi gặp bọn quỷ thì mất hết. Đám con cháu tới đời bọn tôi phải đi lính hết cả. Somel thi cử không tốt nên mới bị đưa ra Đồn V.”

    “Cuộc đời lên voi xuống chó.”

    “Thì là vậy,” Satchet đáp rầu rĩ. “Vậy anh có biết tin gì của Somel Aderin chăng?”

    “Người Somel đó trong bộ binh, tôi không biết gì nhiều hơn. Nếu có ngày trở về Đồn V, tôi sẽ chuyển lời hỏi thăm.”

    “Vậy thì tốt quá,” Satchel hồ hởi ra mặt.

    “Là con nhà dòng dõi tiện quá nhỉ. Ra đường xưng tên là biết người nhà của nhau, tiện giúp đỡ nhau trong cơn hoạn nạn.”

    “Anh không có dòng dõi nào sao?”

    “Con nông dân thì cần gì dòng dõi.”

    “Nhưng anh không giống con nông dân chút nào. Anh có khí chất của một thủ lĩnh. Điều đó khiến tôi tự hỏi anh đang có giấu tên tuổi lừng lẫy của tổ phụ.”

    Vigor nghe thế liền thấy nở mày nở mặt, nhưng chỉ giấu trong bụng, ra vẻ không màng. “Do thám, cậu nói cậu là do thám. Tôi không hiểu tại sao cấm quân lại có đơn vị do thám.”

    “Cấm quân không chỉ ru rú trong thành như người ta hay tưởng. Hộ tống yếu nhân ra ngoài thành, giải cứu yếu nhân bị gian tặc bắt giữ, truy lùng tàn dư Maril, tất cả các nhiệm vụ đó đều cần do thám đi trước vẽ đường. Một đội quân dù hùng mạnh tới đâu mà không có do thám thì chẳng khác gì một kẻ to xác nhưng mù điếc.”

    Vigor nhướng mày kinh ngạc. “Vậy kẻ kia có phải một do thám chăng?”

    “Đích thị là do thám, nhưng ẩn thân quá tệ.”

    “Có bao giờ cậu đang làm nhiệm vụ do thám mà đụng phải do thám địch chưa?”

    “Từng có một lần. Khi đó cả tôi và hắn đều giả làm người đi đường. Nói chuyện một lúc thì hắn bại lộ chân tướng, nhưng tôi không vội động thủ ngay, cứ giả vờ không biết. Phải đợi tới lúc hắn quay mặt đi thì tôi mới ra tay.”

    “Còn với kẻ này, cậu sẽ làm gì?”

    “Nếu là hành động một mình thì tôi sẽ tùy trường hợp để đưa ra hành động thích hợp. Nhưng lần này, mọi sự là do vệ úy quyết định.”

    “Hắn ta đang chậm lại.”

    “Phải. Hắn đang định rút lui.”

    “Rồi thì sao? Ta cứ thế mà để hắn thoát sao?”

    “Ta đợi lệnh của vệ úy.”

    “Liệu ông ta có biết rõ mình đang làm gì không?” Vigor bực dọc ra mặt.

    “Tôi tin là chỉ có chúng ta mới không biết ý đồ của ngài ấy. Nhưng anh hãy kiên nhẫn. Ta chỉ cần đợi hiệu lệnh của vệ úy.”

    “Tôi không đợi nữa.” Vigor dứt lời liền chạy ngược trở lại, giương cung tên, hét to, “Đứng im!”

    Cả nhóm quân bị bất ngờ bởi tiếng hét.

    Vigor thả dây cung, bắn mũi tên bay vút, cắm vào một thân cây. “Đó không phải là bắn hụt. Đó là bắn cảnh cáo. Đứng lên, quay lưng lại.”

    Gần nơi gốc cây, từ dưới bụi cây con nhô lên một bóng người, ăn vận trông như thợ săn. Kẻ đó tỏ ra run sợ, nói, “Đại nhân đừng bắn! Tiểu nhân chỉ là thợ săn mà thôi!”

    “Tại sao lại theo dõi bọn ta?” Vigor vừa giương cung vừa tiến lại gần hắn. “Có ý đồ gì?”

    “Xin thứ lỗi! Tiểu nhân chỉ nghĩ bừa là các ngài đương đi săn theo nhóm, hẳn biết chỗ thú rừng tụ tập thành đàn, nên lén đi theo sau hòng kiếm chác,” hắn thanh minh.

    “Bọn ta không đi săn, bọn ta chỉ tập luyện chiến đấu trong rừng thôi. Ngươi hãy mau đi đi, trời sắp tối rồi,” Naioben lên tiếng.

    “Khoan!” Vigor tóm lấy người tay thợ săn, lục soát khắp. “Thợ săn kiểu gì mà dùng mũi tên không ngạnh?” Vigor đưa mũi tên của hắn lên cho cả nhóm quân thấy. “Ngươi sẽ phải trả lời bọn ta.”

    Naioben lúc đó liền đỏ mặt tía tai, rủa giận dữ, “Mẹ kiếp! Quân khốn kiếp! Mau trói hắn lại!”

    “Phải, mau trói hắn lên.” Vigor ra vẻ đắc thắng, nhưng rồi sau đó lại tỏ ra kinh ngạc khi thấy đám lính không những tóm kẻ thợ săn mà còn tóm lấy cậu, khống chế quỳ xuống. “Cái gì? Chuyện này là sao?”

    “Vì anh vừa phá hỏng mưa kế của vệ úy,” Satchel nói, vẻ chán nản, làm tiếc.

    “Khốn kiếp! Ngươi nghĩ ngươi là ai? Chỉ mới được bề trên tin tưởng một chút mà đã tỏ ra ỷ y, dám to gan lớn lối, xem thường quân lệnh, phá hỏng đại sự. Phải giết làm gương!”

    Một cấm quân nắm tóc, giật ngược đầu Vigor ra sau, để lộ cổ họng ra. Naioben rút kiếm, chuẩn bị vung một đường chém thì Satchel chen vào giữa can ngăn. “Đại nhân! Xin ngài hãy hạ hỏa!”

    “Tránh ra!” Naioben quát.

    “Đại nhân! Xin ngài hãy hạ hỏa, rồi suy nghĩ cho thấu đáo. Tội của hắn không đáng chết. Kẻ này vốn chẳng am tường chiến thuật của cấm quân, nên không nắm bắt được ý đồ của đại nhiên là chuyện chẳng tránh khỏi. Nhiệm vụ của tiểu nhân lý ra là phải chỉ dẫn tường tận cho hắn sớm, nhưng chưa kịp hoàn thành thì ngài đã ban hiệu lệnh. Xin đại nhân xem xét thỉnh cầu tha mạng cho hắn của tiểu nhân!”

    “Ngươi lấy điều gì cam kết hắn sẽ không phá ta một lần nữa? Kẻ này ở Đồn V nổi tiếng bất trị, nhiều lần ngông cuồng đẩy đồng đội vào chỗ nguy hiểm. Ta phải trừ khử mối nguy trước mắt này!” Naioben nghiến răng hung tợn.

    “Xin đại nhân hãy cân nhắc con đường phía trước sẽ gian nan thế nào nếu không có hắn. Chưa kể, tiểu nhân cũng có tội một phần khi chưa chỉ dẫn tường tận cho hắn.”

    “Không phải ở phía trước (ahead), mà là ở phía trên (above)!” Vigor chợt lên tiếng. “Các người mải nhìn phía trước để trông chừng quân Chủ Thị, nhưng chẳng chịu nhìn lên trên để trông chừng lũ quỷ thân dài Stieng. Cứ trách ta đã đẩy đồng đội lâm cảnh hiểm nguy đi. Nếu không phải ta thì sẽ là ai biết cách đối phó với quỷ? Giới tướng lĩnh chỉ biết đứng sau chỉ tay năm ngón, đẩy quân sĩ ra chiến trường, như thế có đáng được xem là hèn nhát, chỉ biết đẩy quân mình vào chỗ chết? Có chức tước thì nói gì cũng đúng. Cứ trách ta làm hại đồng đội đi, nhưng hãy đừng quên rằng ta luôn lao lên trước! Hãy để ta sống, Naioben! Bởi sẽ có lúc ông nấp sau lưng ta khi lũ quỷ ập tới!”

    Satchel liền quay lại đấm một cú thật mạnh vào cằm Vigor, làm cậu ta bất tỉnh, rồi quay lại bẩm với Naioben, “Vì đại sự, xin vệ úy đại nhân hãy tha cho kẻ ngông cuồng này! Tiểu binh xin hứa sẽ chỉ dạy cho hắn phép lễ độ và sự tuân lệnh!”

    Naioben giận đỏ mặt, chĩa kiếm về phía Satchel. “Lần sau ngươi sẽ chết cùng với hắn!”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 14-02-2021 lúc 19:14.

  3. #53
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 17: Vigor

    Vigor chợt tỉnh khỏi cơn mê và nhận thấy cả thế giới đang bị lộn ngược. Thực ra chẳng phải thế giới bị lộn ngược, mà là cậu bị trói treo lên cây, miệng bị nhét vải, tay bị trói ngược ra sau. Cằm cậu vẫn còn đau, còn đầu thì nặng nề như muốn nổ tung. Điều duy nhất cậu có thể làm lúc này là đưa đôi mắt lờ mờ ngứa rát nhìn ra thế giới xung quanh. Khu rừng xám xịt và tĩnh lặng như thể cõi chết. Khi trở người qua phải, cậu giật mình khi nhìn thấy Satchel đang ngồi tựa lưng gốc cây và nhìn lại cậu.

    “Cuối cùng thì anh đã tỉnh lại,” Satchel nói, vẻ chán chường, mệt mỏi. “Xin lỗi vì đã mạnh tay với anh. Bây giờ thì, vệ úy, ông ta không cho phép ai động vào anh, nghĩa là không được thả, thậm chí là không được bỏ bịt miệng. Tôi muốn biết anh đang có ổn hay không, hãy lắc hoặc gật đầu.”

    Vigor không lắc cũng không gật, chỉ nhìn chằm chằm nơi Satchel.

    “Anh cứ tỏ ra bất cần như vậy thì tôi chẳng thể giúp gì được,” Satchel nói. “Vệ úy có toàn quyền hành quyết anh tại chỗ, nhưng tôi đã nài xin tha cho anh. Ông ta tha chết, nhưng vì lòng tự trọng mà chẳng thể nào để anh sổng. Xin lỗi, tôi chẳng thể giúp được gì hơn. Ông ấy rất tức giận vì anh đã làm hỏng toan tính của ông ấy. Chắc giờ anh vẫn chưa hiểu chuyện gì, tôi sẽ giải thích.

    “Cấm quân có một phương thức giao tiếp mật, gọi là thủ ngữ. Bọn tôi sẽ truyền đạt ý nghĩ với nhau không qua miệng, mà qua cử chỉ kết hợp cánh tay, bàn tay, ngón tay. Người ngoài nhìn vào sẽ không hiểu. Nhưng nếu họ có thể đọc hiểu, thì chúng tôi sẽ chỉ còn dùng ngón tay, như là cấp độ tối mật nhất. Khi xưa, khi các tướng lĩnh họp kín, họ viết ý nghĩ của mình ra giấy, đưa cho đối phương đọc, rồi đốt ngay tức khắc.

    “Chiến lược của vệ úy, tôi thật chủ quan khi không giải thích cho anh sớm. Ban đầu ta sẽ phớt lờ hắn, đóng một màn kịch diễn tập quân sự. Rồi ta đợi cho tới khi hắn bỏ đi, khi đó, tôi sẽ bám theo hắn. Tôi là một do thám quân sự mà, với trình độ của tôi thì hắn sẽ chẳng biết được. Bằng cách đó hắn sẽ dẫn ta về hang ổ của hắn, mà chẳng cần phải nhọc công tra khảo hắn hay phải lần mò ngẫu nhiên trong rừng. Tôi không có ý nói là cách của anh là kém khôn ngoan.

    “Nhắc tới tra khảo hắn, thì việc đó vừa mới xong cách đây độ nửa giờ. Giờ thì họ đang chôn hắn. Hắn rất gan lì, cả bọn đã phải tản ra đi kiếm nước. Chúng ta đã có manh mối—không, phải là chúng tôi, không còn anh nữa. Chúng tôi phải để anh lại.”

    Vigor không nói gì được, chỉ có thể nhắm mắt lắc đầu vẻ thất vọng lắm. Satchel cũng tò mò muốn biết ý của Vigor, bèn thận trọng nhìn xung quanh, rồi tiến tới tháo khăn bịt miệng xuống.

    “Muốn sống thì thả ta xuống,” Vigor nói.

    Satchel chợt nheo mắt, vẻ như không tin vào tai mình nữa.

    “Cái cây chỗ cậu ngồi, nó có vết cào của gấu, là dấu lãnh thổ của chúng,” Vigor nói thêm.

    “Tôi nhận ra điều đó. Đương là mùa đông, chẳng có gì để phải lo sợ.”

    “Rừng Nall có nhiều sói, nhưng chưa bao giờ có gấu.”

    “Tôi hiểu điều đó.” Satchel gãi cằm, vẻ đắn đo trong giây lát, rồi hỏi, “Điều đó thì chứng tỏ được gì?”

    “Lũ quỷ đang ở đây.”

    ~~~~~~

    Rừng Nall không hề có gấu, và cũng đương là mùa đông, nên sự hiện diện của gấu ở đây là điều sai trái với quy luật tự nhiên. Còn vết cào, nó lại rất mới. Thế thì có nghĩa là, quỷ Stieng, chúng đã thúc ép lũ gấu ở lại. Nhưng để làm gì? Dự trù cho một nước cờ lớn? Nước cờ đó là gì? Khi nào nó sẽ được phát động? Ta là do thám, và cũng là cảm tử quân. Nhiệm vụ của ta là liều mạng dấn thân vào lòng địch để lấy được tin tức tình báo. Nhưng ta cũng phải giữ được mạng sống để mà mang tin tức trở về. Nếu một nhóm do thám ra đi thì phải có ít nhất một người trở về. Satchel nghĩ mà thấy rùng mình. Người cậu mồ hôi ướt đẫm, nửa phần là do sợ, nửa phần là do vận động.

    “Tôi sẽ tìm cách vuốt giận cho vệ úy,” Satchel nói với Vigor, khi cả hai đang chạy tức tốc tìm về vị trí của đội. “Mong anh đừng phụ lòng tin của tôi.”

    “Nói gọn,” Vigor đáp cụt lủn. “Giữ hơi.”

    Chiến tranh ở Kulm, về mặt tin tức, vẫn chưa ngã ngũ. Nếu Stieng thắng, đồng nghĩa mối lo đám giặc Chủ Thị và Kwi không còn hiện hữu. Nếu Chủ Thị thắng, nhiệm vụ sẽ vẫn còn đó để thi hành. Tuy nhiên, ta vẫn mong Chủ Thị sẽ thắng, dù gì đối phó với con người vẫn dễ hơn cả. Nếu có gặp Kwi thì sao? Cũng chẳng sao, vì chúng sợ ánh sáng. Kwi chỉ đáng sợ khi ta không nhìn thấy chúng. Xua tan bóng tối là ta sẽ nắm chắc phần thắng, thậm chí là khi giao tranh một chọi ba.

    Stieng, tiềm lực chúng vẫn còn là một bí ẩn. Vì là bí ẩn, nên đó là điều ta phải lo sợ, như chính ta lo sợ trong bóng tối bí ẩn có thể chứa đựng con quái thú ẩn nấp. Stieng, có sức chống chịu ánh sáng, sức chiến đấu vượt trội Kwi, nhanh như sói, mạnh như gấu, nhẹ như sóc, điều khiển được muông thú, kiểm soát trên cành cao. Liệu còn sức mạnh nào của chúng mà ta chưa chứng kiến? Đó chính là bí ẩn đáng sợ.

    Chủ Thị liệu có cơ may thắng không? Hãy cứ cầu mong cho chúng thắng. Nhưng làm sao ta biết được phe chiến thắng là ai nếu ta không đến tận nơi để chứng kiến? Nhỡ Stieng thắng, khi đó chúng có ập tới thì ta sẽ chẳng trở tay kịp. Chúng sẽ chẳng cần biết giữa loài người cũng có phe phái, hễ thấy người là cứ giết thôi. Do đó, ta sẽ cần có kẻ sống sót. Chỉ cần một là quá đủ.
    Satchel thầm nghĩ, rồi chợt nói, “Tôi vẫn không thể tin điều đó!”

    Vigor liếc mắt nhìn Satchel vẻ khinh thường. “Cũng giống như cấm quân các người tự tin vào năng lực phát giác ra Maril thôi,” cậu nói.

    “Từ khi nào anh biết mình là một sát quỷ?” (Slayer)

    “Khi mà tôi biết được mũi tên sẽ từ đâu trong bóng tối bay tới,” Vigor đáp. “Chiến đấu trong bóng tối đủ lâu thì anh cũng sẽ trở thành một sát quỷ.”

    “Những sát quỷ khác đâu? Các tướng lĩnh, liệu họ có là sát quỷ?”

    “Chết hết cả.”

    “Tại sao lại có thể như thế?”

    “Sát quỷ không bao giờ sợ chết dưới tay quỷ. Nếu họ có chết, nhiều con quỷ sẽ chết trước.” Vigor nói dối và Satchel không biết điều đó. Tuy nhiên, có một điều mà Vigor nói thật, “Sát quỷ vĩ đại nhất mà tôi biết là lãnh binh Denfort, Maxim.”

    “Denfort?”

    “Lãnh binh Maxim, ngài ấy có thể ngửi thấy mùi của quỷ từ xa trăm sải, có thể hất mũi tên của quỷ bằng kiếm. Một lão già kì quặc từng kể với tôi rằng, hễ kẻ nào sống sót trở về từ Quỷ Môn Quan, thế giới bóng tối, kẻ đó trở thành sát quỷ, có sức mạnh phát giác ra yêu khí, chiến đấu được với quỷ trong bóng tối. Cấm quân có năng lực phát giác ra Maril thật siêu phàm, nhưng nếu không phát giác ra chỗ ẩn nấp của quỷ, các người cũng chỉ là bữa ăn tối của chúng mà thôi.”

    “Làm sao để bọn họ có thể tin được lời anh nói?”

    “Chỉ có thực nghiệm,” Vigor lại nói dối để mua thời gian. Cậu tin chắc một điều, không một ai trong đám cấm quân tinh tường về lũ quỷ hơn cậu.

    “Không thể chờ tới lúc thực nghiệm được. Naioben sẽ giết anh ngay khi thấy mặt. Kể cả khi ông ta đổi ý tha chết, chẳng dễ gì ông ta cho phép anh chứng minh bằng thực chiến. Đó sẽ như là một canh bạc sống còn.”

    “Lo bằng thừa. Tất cả chúng ta đều là con cờ thí để thực nghiệm, bọc cái lốt quân tiên phong cao cả,” Vigor nói vẻ mỉa mai, thương hại. “Như chính lão già kì quặc đó đã cảnh báo từ rất lâu, tất cả chúng ta từ khi sinh ra đã là quân cờ trong ván cờ lớn của những gã khổng lồ. Sẽ chẳng thiếu những nước cờ thăm dò, thậm chí là nhử mồi bằng quân cờ thí. Chúng ta là những quân cờ đó, những quân cờ định hình nền móng cục diện cho mưa đồ riêng của tướng lĩnh, nhưng được gọi một cách mỹ miều là hy sinh vì đại cục, vì bách tính. Mọi thứ hệ như Denfort hai mươi năm trước.”

    “Tôi cũng định hỏi chuyện gì đã xảy ra ở đó.”

    “Đó là lần đầu tiên pháo sáng được sử dụng. Phải chi họ đã thử nghiệm sớm hơn, thì lúc đấy Denfort đã có sẵn pháo, lúc đấy thành sẽ không bị thất thủ, lúc đấy cha mẹ tôi đã không chết.” Vigor gương mặt trông đầy oán hận. “Vì là thử nghiệm, quân Tarbas phải đợi cho lũ quỷ tràn hết vào thành thì mới ra tay.”

    “Tôi xin lỗi.”

    “Đã tới đây thì đầu tiên các cậu phải chấp nhận cái chết mọi lúc. Việc tôi chứng minh năng lực của minh không hề có ý nghĩa gì to lớn cả. Thêm người thì bớt việc.”

    “Đó là chỉ khi anh thôi chọc tức Naioben.”

    Vigor chợt thấy chột dạ. “Tôi sẽ để đám Chủ Thị cho ông ta xử trí.”

    “Tôi đánh giá cao điều đó. Vậy lũ quỷ, chúng có đang hiện diện ở đây chăng?”

    “Tôi có thể nói mùi hôi của chúng thoang thoảng trong không khí,” Vigor nói dối.

    “Làm sao để chúng ta an toàn đêm nay?”

    “Tìm khoảng đất trống cây.”

    “Điều đó thật an ủi. Anh nói quá nhiều cho một cuộc chạy.”

    “Tôi muốn kiểm tra lại thể lực. Cậu mệt sao?”

    “Tất nhiên là không.” Satchel cười trừ.

    ~~~Pháo đài Kulm, trưa ngày năm tháng Mười Một~~~

    Pháo đài Kulm trước kia là căn cứ quân sự của Halatan, ở đỉnh cực Bắc của Halatan, gần giáp biên giới với Gardin. Bởi ý nghĩa của một pháo đài (fortress), Kulm là tổ hợp kiến trúc của những tòa tháp canh và một lớp tường thành xoắn ốc cao, dày, đặt nền móng trên một quả đồi cao. Xung quanh bên ngoài tường là đất trống. Bên trong lớp tường là lán trại của binh lính, kho bãi, và phủ tướng quân. Khi có chiến tranh xảy ra, pháo đài là nơi đám dân thường kéo đến xin trú thân và là nơi đám binh tướng cầm cự cho tới khi viện quân tới.

    “Nếu Flink có ở đây thì đã hay, Natulnaju,” Ansel nói với thân tín, khi cả hai đang đứng trên tường cao và đưa mắt nhìn ra khắp thế giới. “Cứ như cả thế giới đang chống lại chúng ta.”

    “Chỉ huy, bữa sáng của ngài.” Natulnaju chìa ra cái bát gỗ đựng một củ khoai luộc và một quả trứng luộc.

    “Ngay cả bữa sáng cũng chống lại ta,” Ansel mỉa mai. Hắn vừa ăn vừa nhìn lên hướng Bắc, chìa mặt ra hứng chịu luồng gió lạnh thổi không ngừng. Từ vị trí của hắn, hắn có thể nhìn thấy đường chân trời, nơi tiếp giáp màu trắng ngả xám của bầu trời và màu xanh âm u của cánh rừng. “Không có ánh dương, chúng sẽ càng manh động. Nhưng tạ ơn thánh thần là chúng không chịu được cái lạnh. Hãy tranh thủ dưỡng sức lúc này.”

    “Chúng ta cũng đói nhanh hơn.”

    “Lương thực còn đủ trong bao lâu?”

    “Nhiều lắm một tuần. Chủ nhân, liệu ngài có biết về tình hình chúng ta lúc này?” Natulnaju hỏi.

    “Có lẽ là không. Lũ đại bàng núi đang chiếm hữu bầu trời. Nhanh như diều hâu cũng khó thoát.” Ansel ngước mắt nhìn lên trời. “Đưa thư bằng ngựa càng khó khăn, bởi kẻ địch đang rà soát gắt gao lắm.”

    “Hai tháng liền giao tranh đóng cửa thành, hẳn chủ nhân cũng đoán được rằng chúng ta đang cạn lương thực. Chủ nhân có biết cái chết của đội trưởng Flink?”

    “Có thể ngài biết, nhưng kể cả khi vậy, ngài cũng chẳng để tâm. Ngài đang lo cho đại sự,” Ansel nói, nhìn sang hướng Đông. “Chúng ta phải tự quyết định. Chúng ta phải tự tìm viện trợ.”

    “Vậy làm sao viện trợ của chúng ta có thể tới được đây trong vòng một tuần? Ban ngày kẻ địch đóng cửa biên giới, ban đêm mây trời che lấp ánh sao.”

    “Viện trợ của chúng ta không đến từ hướng đó, mà đến từ phía này.” Ansel nhìn sang phía Tây.

    Natulnaju nhíu mày vẻ khó hiểu. “Chúng ta có thể trông đợi được gì từ phía đó?”

    “Lương thực của quỷ.”

    Natulnaju liền nhăn mặt vẻ ghê tởm. “Tiểu nhân tin rằng cái đói sẽ khiến ta điên loạn. Nhưng lạy thánh thần, điều này quả thực là…”

    “Khó chấp nhận, ta biết. Nhưng Natul, ai cũng cần ăn để mà sống, kể cả quỷ. Nếu chúng ăn được thì ta cũng ăn được.”

    “Nhưng chẳng phải chúng chỉ biết ăn thịt uống máu hay sao?”

    “Đó chỉ là đồn thổi. Ngươi theo ta bao nhiêu năm rồi vẫn còn có thể ngờ nghệch vậy sao? Sẽ là khó ăn một chút. Nhưng tin ta đi, chúng ta sẽ sống. Các đội trưởng khác đều đã đồng ý.”

    “Thứ cho tiểu nhân lại ngu xuẩn, tiểu nhân thắc mắc một điều, nếu như cả quỷ Kwi lẫn Stieng đều chui ra từ Quỷ Môn Quan, thì kẻ nào chiếm cứ được hang thì chiếm cứ luôn con đường duy nhất. Khi đó thì chỉ cần lũ Stieng giữ được hang, thì làm cách nào mà lũ Kwi có thể đến với chúng ta được?”

    “Ta thứ cho sự ngu xuẩn của ngươi, bởi vì ta cũng chẳng mơ hồ điều đó. Đời ta chưa bao giờ đến đó lần nào, nhưng đã gặp những kẻ tự nhận đã đến đó. Chúng kể rằng, Quỷ Môn Quan không phải là một thông đạo duy nhất. Nó có thể là cái hang lớn nhất, rộng nhất, nhưng không phải là duy nhất. Hãy cứ hiểm nôm na rằng có rất nhiều cái hang, thông nối thế giới của ta với thế giới của quỷ. Thậm chí chúng còn tin rằng vẫn còn nhiều cái hang khác chưa được biết tới, từ đó, có thể dùng làm lối đi bí mật.”

    “Tạ đại nhân đã khai sáng! Tiểu nhân cũng chẳng thể hiểu nổi thế giới của lũ quỷ cũng thật phức tạp.”

    “Đó là người vẫn chưa biết hết. Thế giới của quỷ cũng có nhiều phe phái. Kwi, Stieng Rừng, Stieng Vũ Trang, chúng chỉ là một trong số đó. Theo lời kể, thì còn ít nhất hai phe khác nữa. Một là lũ quỷ bay…”

    “Tiểu nhân biết lũ quỷ bay.”

    “Phe còn lại, được gọi là Cái Chết.”

    “Cái Chết?” Natulnaju nhăn mặt.

    “Ta cũng không biết diễn giải sao cho đủ ý. Đối với Cái Chết, hừm, ngươi không thể giết chúng theo cách thông thường.”

    “Thông thường?”

    “Là thế này, Stieng hay Kwi cũng là quỷ sống. Nghĩa là cắt cổ chúng thì chúng chết. Dùng dao kiếm đâm chém Cái Chết là vô nghĩa.”

    “Thế chúng có thể đâm chém ta không?”

    “Có.”

    “Ôi mẹ kiếp!” Natulnaju thốt lên.

    “Đúng vậy.”

    “Thế chẳng phải không gì có thể ngăn cản chúng tàn sát tất cả sao?”

    “Ta không biết. Không một ai biết. Ta cũng muốn biết. Cứ sống càng lâu thì có ngày sẽ biết. Có khi, kẻ nào biết bí mật của chúng thì đều đã chết sạch.”

    “Thế thì ta lại chẳng thể nào biết.”

    “Tò mò thì có ngày đi đò hoàng tuyền, Natul. Chúng cũng là phần nào lí do mà lũ người trời phải tháo chạy. Chúng không có điểm yếu. Chúng hiển nhiên là không hề sợ ánh sáng. Chúng chẳng sợ ai. Chúng như những bóng ma. Nhân tiện nhắc tới bóng ma, đôi mắt của chúng có thể nhìn thấy linh hồn, cả linh hồn lang thang lẫn linh hồn trú trong cơ thể sống.”

    “Có lý nào chúng là thủ hạ của Vudai?”

    “Hãy cứ nghĩ đó là lời nhăng cuội của đám lang thang. Ta lại lan man quá rồi. Đồn thổi thì là lời đồn thổi, hãy trở lại với thực tại của ta. Ta chẳng biết rõ giữa lũ quỷ có xích mích như thế nào. Nhưng trước mắt, Kwi là đồng minh duy nhất của ta.”

    “Cũng tiện nhắc ngài về kẻ thù, gần đây có nhiều do thám bờ Đông mất tích, từ rừng Nall tới rừng Karlovad. Ngài có thể nghĩ thử xem ai là kẻ ra tay?”

    “Stieng, chúng hiện diện ở bất cứ đâu, miễn ở đó có cây cối. Trước kia, chúng ta trốn trong rừng là để tránh tai mắt lũ Tarbas. Tới bây giờ thì có vẻ như ta tự hại mình rồi. Cũng chẳng thể loại trừ do thám Tarbas. Chỉ có thể là do thám mà thôi, chúng chưa dám manh động xua quân vào bóng tối lúc này. Lệnh cho quân lính đi thành nhóm nhiều người, kể cả là do thám.”

    “Chúng ta liệu sẽ phải cầm chừng trong bao lâu nữa, thưa ngài?”

    “Không lâu nữa đâu. Kẻ địch đã rục rịch. Ngày khải hoàng sẽ đến sớm hơn dự kiến. Mười ngàn quân đang háo hức chờ đợi. Dân tộc sẽ lại trỗi dậy. Vương quốc sẽ được phục sinh. Và…”

    ~~~Phía Đông của Kulm, ngày mười tháng Mười Một~~~

    … đức vua sẽ đăng quang?” Vigor nói, còn đám đông cấm quân thì nhao nhao lên vây quanh Satchel. “Cậu dám chắc tin tình báo là đáng tin cậy chứ?”

    Satchel phải ra hiệu cho tất cả trật tự và im lặng. Cả đám đang trốn dưới một bụi cây to trong khu rừng già phía Đông Kulm, và chỉ còn cách Kulm ba ngày đường nữa. “Gián điệp cuối cùng của ta. Tôi e là ta không có nguồn tin nào khác hơn,” Satchel nói.

    “Tôi tin là đức vua ở đây là ám chỉ thủ lĩnh của chúng,” Vigor nói. “Mọi thứ sẽ dễ dàng hơn nếu ta tóm được hắn. Ta sẽ theo sau hắn chứ?”

    “Vigor, đừng có nhiễu sự, đừng để ta phải nhắc lại lần nữa,” Naioben đe dọa. “Lũ quỷ là lý do ngươi còn được ở đây.”

    “Tiểu nhân biết rõ bổn phận của mình,” Vigor đáp. “Nhưng xin ngài hãy cân nhắc đề nghị của tiểu nhân.”

    “Cân nhắc? Đây ta sẽ dạy cho ngươi một bài học.” Naioben dứt lời thì liền nhanh như chớp tuốt gươm, bổ dọc nhằm vào đầu Vigor.

    Vây quanh Vigor lúc này đám cấm quân, nhất thời không có đường tránh né, chỉ còn cách đưa hai cánh tay lên che đầu theo bản năng, thầm nghĩ phen này đứt lìa một cẳng tay. Nhưng may sao, đường kiếm dừng lại cách bao cổ tay của Vigor một phân, một cách có chủ đích.

    “Sẵn sàng hi sinh cẳng tay để đổi lấy cái đầu? Ngươi cũng chỉ tầm thường như vậy sao?” Naioben mỉa mai, tra gươm vào bao. “Tướng là đầu, lính là tay chân, ngươi nghĩ tay chân lẽ nào dễ để yên cho ngươi tóm lấy tướng? Ngươi nghĩ chúng sẽ chỉ cho ngươi tướng của chúng đang ở đâu?”

    “Tất nhiên là không, thưa ngài!” Vigor đáp, vẻ bẽ mặt.

    “Nhưng trước đó, ngươi lớn tiếng nói rằng chỉ huy của mình là hèn nhát, chỉ biết nấp sau lưng quân lính. Như vậy, cao kế của ngươi có phải là muốn dâng chỉ huy của mình cho địch?”

    “Không, tiểu nhân hoàn toàn không có—”

    “Hãy bỏ những ý nghĩ thiển cận đó đi! Giết rắn phải đập nát đầu, lẽ thường đấy đến lũ trẻ con cũng biết. Thậm chí là có chặt cổ thì đầu rắn vẫn có thể cắn. Nói cho ngươi biết, tướng lĩnh bọn ta để có được ngày hôm nay đều từng phải đổ máu để giành lấy. Quyền lực này, vinh quang này, nó không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà ban cho, là do tranh đấu.” Naioben nghiến răng trợn mắt, giương nắm đấm siết chặt. “Đừng thử thách sự kiên nhẫn của ta, Vigor!” Dứt lời ông ta tung một đạp mạnh hết lực, làm Vigor ngã ngửa.

    Vigor liền lồm cồm bò dậy, quỳ xuống, cúi gằm đáp, “Tạ đại nhân chỉ bảo.”

    “Thưa chỉ huy,” Satchel cất tiếng xen vào, “chúng ta sẽ phải làm gì tiếp đây?”

    “Tiếp cận Kulm, nhưng trước hết phải xuống hướng Nam trước,” Naioben nói và nhìn theo.

    “Tiểu nhân không hiểu tại sao lại là phía Nam?”

    “Nhìn đây!” Naioben quỳ một gối, đưa ngón tay vẽ lên nền đất một lược đồ. “Đây là Kulm,” ông ta vẽ một hình tam giác. “Đây là chúng ta,” rồi ông ta vẽ một hình vuông. “Đây là bức tường tiệm cận,” ông vẽ tiếp một đường thẳng nằm cách giữa hình tam giác và hình vuông. “Đây là các nhóm quân phòng vệ của chúng,” cuối cùng ông ta vẽ nhiều hình tròn nhỏ dọc theo đường thẳng. “Chúng hẳn đã biết người của chúng bị mất tích, nên đã cho bố trí quân phòng vệ dày hơn. Nếu ta cứ tiến thẳng về hướng Tây và đụng độ một nhóm lính, cứ cho là ta thắng, rồi thẳng tiến,” ông ta xóa một hình tròn và thay vào đó là một hình vuông. “Lúc này, địch đã biết bức tường của chúng bị thủng, ngay lập tức các nhóm lính từ phía Bắc và Nam sẽ ập tới vá lỗ thủng. Kết quả là ta bị kẹp từ hai phía. Tệ hơn, chúng sẽ dụ ta đi vào phòng sâu hơn, rồi quân từ Kulm ùa ra nghênh đón và quân từ hai cánh Bắc, Nam cũng vừa đổ về, lúc này ta hoàn toàn bị bao vây,” hình vuông vượt qua đường thẳng và tới gần hình tam giác, các hình tròn dọc theo đường thẳng giờ đã vây quanh hình vuông.

    “Đại nhân cao minh,” Satchel nói. “Vậy ngài chọn hướng Nam hẳn cũng có lý do.”

    “Hướng Nam sẽ giảm thiểu rủi ro đụng độ quỷ,” Naioben nói và liếc nhìn Vigor.

    ~~~Phía Nam của Kulm, ngày mười ba tháng Mười Một~~~

    Bầu trời sập tối đã lâu, không gian lặng gió những vẫn còn lạnh quá chừng. Đã thế, trời còn thả xuống những giọt mưa lâm râm, làm cho bầu không khí càng thêm ẩm ướt một cách âm ỉ, dai dẳng. Giọt mưa cứ rơi lộp độp trên phiến lá, luồn lách khôn khéo qua từng tầng lá để tìm về với mặt đất mềm nhão, số thì rơi tí tách trên vũng nước. Và số thì đáp lên vai những người lính cấm quân. Họ tụm lại gần sát và trốn mưa dưới những tán lá to.

    Đêm nay là đêm đầu tiên họ chịu trận mưa và là đêm thứ mười tám họ không đụng phải quỷ. Đám dân Tarbas ai cũng biết là hễ cơn gió lạnh phương Bắc còn thổi, thì lũ quỷ đen chẳng dám mò tới. Mùa Đông trở thành những tháng ngày bình an nhất. Trận mưa đêm nay đem tới cái lạnh dai dẳng khó chịu, nhưng cũng phần nào đó lại ban ơn cho Naioben và đám lính của ngài.

    Tối nay Eron lo bữa tối. Cậu ta cũng là do thám, như Satchel, tuổi cũng trạc Satchel. Vì Naioben đã giao Satchel làm mở đường, nên Eron, cùng với Schmidt–cũng là một do thám–phải luôn phiên làm bếp. Mà quả thực, việc săn, lột da và nhóm lửa quay một con thỏ thì tên nào làm cũng được. Nhưng tính tới việc ăn gì khi mà chẳng thể nhóm lửa bởi mưa thì cả đám phải nhờ cậy tới các do thám, những kẻ có thể sinh tồn nơi rừng thiêng nước độc. “Đây, những thứ này ăn sống được. Cây nấm này. Trái này. Củ này. Lá này,” một do thám có thể nói lên như vậy.

    Do thám còn là những kẻ biết cách ăn nói lường gạt, nếu chúng nó ác tâm gạt rằng cây nấm này ăn được thì cả bọn cũng đành nhắm mắt mà nuốt. Thế nên việc kéo nhiều do thám vào đội hình là điều đáng cân nhắc. Mà do thám cũng có khả năng chiến đấu một mình rất tốt, khi mà chúng nó thất bại khi dối trá, và khả năng bỏ chạy khi kẻ địch quá đông. Có thể nói, trong đám lính, do thám gần như là toàn năng. Nhưng cũng vì toàn năng nên lại khó đào tạo, khó như đào tạo một cung thủ xuất sắc, thành ra trong một đội quân thì không có mấy người đủ tư chất làm do thám.

    Nhóm quân của Naioben tới lúc này đã có bốn lần đụng độ do thám Chủ Thị, và ông không mất một ai, vẫn còn đó một cố vấn phòng quỷ, một pháo binh, ba do thám, mười đấu sĩ và năm cung thủ. Nếu đếm tổng số thì có vẻ kỳ quặc thật, nhưng sự thật là một người lính có thể kiêm nhiệm nhiều vai trò. Naioben là đấu sĩ, và ông ta có vũ trang đầy đủ. Satchel, Eron, Schmidt và Swazenger đều là cung thủ. Vigor hiển nhiên là đấu sĩ, và là cố vấn quỷ. Tám người còn lại đều là đấu sĩ với khiên tròn và kiếm ngắn. Trong số đấu sĩ đó có một cặp sinh đôi kỳ dị là Warler và Zoller. Cả hai đều to lớn khác người, cao hơn hẳn Vigor một cái đầu, và khiến cho cậu phải lắc đầu ngán ngẩm khi nghĩ tới việc phải đánh nhau với một trong hai bọn họ. Bọn họ đều ít nói, mặt mũi lầm lì, nhưng rất biết kỉ luật, và đặc biệt là tuổi đời trẻ nhất. Gọi là sinh đôi nhưng người ta dễ dàng phân biệt được bọn họ với nét đặc trưng riêng. Warler hiện ra đúng như những gì người khác có thể kì vọng về một chiến binh dũng mãnh, khi mang thêm bên mình một thanh chùy lớn. Còn Zoller thì ngược lại, bên cạnh gươm và khiên, cậu ta mang theo mình một cây trường cung, và bịt một mắt phải. Vigor có tò mò hỏi thì Satchel đáp rằng, “Là Warler đã đâm mù mắt trong lần cuối cùng hai anh em đánh nhau.”

    Zoller là người duy nhất trong nhóm có thể vừa biết múa gươm, vừa biết bắn trường cung.

    Nửa đêm, mưa đột nhiên trở nên nặng hạt và đánh thức Beckert, một đấu sĩ. Cậu ta cảm thấy buồn tiểu, liền đứng dậy đi kiếm nơi trút gánh nặng. “Tôi đi tiểu,” cậu ta vừa mò mẫm trong bóng tối vừa thì thào chẳng nhắm tới một ai. Đó là tín hiệu để cho người khác dù thức hay ngủ biết rằng cậu ta không có ý định gì mờ ám cả. Beckert không biết rõ phương hướng, cậu ta chỉ dùng tay để xác định gốc cây và dùng chân để xác định đất mềm. Chọn được vị trí thích hợp, cậu liền lấy gươm đào một lỗ nhỏ trên đất, rồi sau đó sẽ tè vào đó, xong thì lấp đất lại như mèo giấu cứt. Bởi lũ quỷ cũng nhạy mùi như lũ sói.

    Đương lúc đang tè, một giọng nói khàn vang lên “Thịt, đi một mình?” làm cho Beckert phải giật mình nín tiểu.

    [To be continued ]

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 14-02-2021 lúc 19:33.

  4. #54
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 18: Vigor

    *Sửa tên pháo binh Swazenger thành Kazmaier*

    Satchel ngả lưng bên cạnh Vigor. Cậu im lặng mãi một hồi lâu nhưng không thấy Vigor phản ứng gì, liền chủ động đánh tiếng gợi chuyện, “Trước kia họ thường phải làm gì, hả Vigor?”

    “Họ là ai? Làm gì là làm gì?”

    “Các cựu binh, đánh nhau với quỷ.”

    “Trước đây là khi nào?”

    “Ừm… trước khi có pháo sáng.”

    “Họ chết sạch, Satchel, họ chết sạch.”

    Thấy Vigor đáp một cách chán chường, Satchel liền nhận thấy sự bất mãn phần nào còn đó. “Không phải ai cũng chết, Vigor. Vệ úy, ông ta đã ở đó, trận Cổng Vàng, ở đó và bên cạnh tể tướng của chúng ta. Họ đã từng bị dồn vào đường cùng và chiến đấu dũng cảm với bóng tối—”

    “Họ chết chắc,” Vigor ngắt lời, “nếu không có người trời.”

    “Không thể bàn cãi,” Satchel đành nhún vai. “Vậy còn chúng ta, cũng sẽ là chết chắc chứ?”

    “Không, không phải chúng ta. Chí ít là một trong cả đám sẽ phải sống, tinh thần nhiệm vụ là như vây. Cầu cho Naioben biết lão sẽ phải làm gì.”

    “Nếu đây là một chiến dịch bố ráp Maril, anh sẽ học được nhiều điều từ vệ úy. Maril cũng như quỷ, ta không thể dùng mắt để bắt. Nghề của chúng là cải trang và ẩn nấp vào trong tối. Mắt không xài được thì ta phải xài tới thứ khác, ta đánh hơi.”

    “Mũi?” Vigor nhíu mày.

    “Đó không phải là hơi mùi, đó thứ là kiểu hơi (aura) mà ta phải cảm nhận bằng trực giác. Lũ Maril luôn tỏa ra thứ hơi này, thật kì lạ nhưng tôi không biết tại sao.”

    “Thế thì tôi hiểu. Nó giống như khái niệm yêu khí (demonic presence), thứ khí tỏa ra một cách vô hình từ lũ quỷ.”

    “Đây là lần đầu tiên tôi nghe nói lũ quỷ cũng có tỏa hơi.” Satchel nhướng mày. “Vẻ chừng thì cả hai khái niệm giống nhau. Quay lại chuyện cấm quân, mỗi cấm quân phải có năng lực cảm nhận được thứ hơi này. Năng lực đó, nó giống như một phạm vi xung quanh cơ thể, nếu Maril đi vào phạm vi đó thì hắn sẽ bị phát hiện. Một lính mới có phạm vi phát giác hai sải. Phạm vi này sẽ tăng dần theo năm từng trải của người lính đó. Như tôi tự tin phạm vi của mình là ba sải. Còn như vệ úy, của ông ấy là năm sải. Còn với thống tướng Danik, người xuất thân từ cấm quân, phạm vi đó là mười sải!”

    “Vậy ư?” Vigor phản hồi chiếu lệ. Satchel đương hồ hởi chia sẻ, nghe vậy liền đâm cụt hứng.

    “Tôi đi tiểu,” Beckert thì thào nói và bước ngang qua chỗ hai người bọn họ.

    “Đó là gã mang pháo?” Vigor hỏi.

    “Không, đó là Beckert. Người mang pháo là Kazmaier,” Satchel đáp.

    “Kazmaier…”

    “Có chuyện gì với cậu ta sao?”

    “Hắn chẳng tiết lộ nửa lời và cứ giữ khư khư lấy mấy món đồ chơi của hắn. Cậu có biết điều gì về mấy món pháo mới đấy chăng?”

    “Không,” Satchel lắc đầu.

    “Không biết hay là không thể tiết lộ?”

    “Tôi hề không biết. Tôi cũng tò mò không thua gì anh.”

    “Vậy thì nếu gã lúc nãy là Kazmaier thì ta phải đi theo gã. Gã mà chết và ôm thì cái bí mật ti tiện của gã thì chúng ta cũng sẽ chẳng dễ chịu gì.”

    “Cậu ta có lý do của riêng mình. Tôi cầu mong chúng ta sẽ không bao giờ phải dùng tới chúng.”

    “Tôi cũng…” Vigor bỗng chợt nín thở trong vô thức, mắt cậu mở căng, khắp người nổi da gà, tay siết chặt lấy cán kiếm, cơ thịt gồng căng cứng, đầu óc trống rỗng khỏi những suy nghĩ. Cậu không hiểu cơ thể của mình nữa, nó hoàn toàn mất kiểm soát, nó gần như là do bản năng điều khiển. Cậu tin rằng cậu đã cảm nhận được một thứ gì đó kì lạ, kì lạ theo ý nghĩa đáng sợ. Rồi cậu tự vật lộn với bản năng để dành quyền kiểm soát cơ thể, khi đó hơi thở cậu run run, cố gắng thốt ra một ý nghĩ duy nhất trong đầu cậu có lúc này, “Chúng… đang… ở đây!”

    “Chúng à?” Satchel vẫn bình thản, sau đó ít giây thì liền hoảng hốt, “Chúng!”

    “Là chúng!” Giọng Vigor vẫn còn thì thào, nom căng thẳng, run sợ. “Chúng đang tới gần.” Thấy Satchel định nhổm dậy, cậu liền tóm lấy tay Satchel giữ lại, như thể cậu vẫn chưa chắc chắn ở bản năng của mình. “Khoan đánh động bọn họ. Beckert.”

    Cả hai trườn qua gốc cây, theo cái hướng mà Beckert đã đi qua. Rồi họ bắt đầu nghe được cái gì đó.

    “Thịt, đi một mình?” Một giọng quỷ khè khè vang lên trong đêm mưa.

    Beckert giật mình thụt lùi, tuốt kiếm huơ ra khắp hướng.

    “Hành xử gì vậy?” Con quỷ thốt lên. “Đón tiếp kiểu gì vậy?”

    “K’nad oks nejic, Am?” (Đang có chuyện gì vậy hả Am?) Một con quỷ khác lên tiếng.

    “Tijit p’setei c’ta wyhn fuhka!” (Đám thịt chào đón chúng ta như là kẻ thù!) Am rít lên, dư dứ nắm đấm. “Maseth c’ta jial ma’de tijit syned segkun! Kuhr, niwa shawn?” (Thế mà ta lại nhọc công đem thịt đến cho chúng! Kuhr, chúng ta ăn hắn nhé?)

    “Mi socog mah niwa!” (Im đi đồ ngốc chỉ biết ăn uống!) Kuhr quát, vung tay dọa đánh Am, rồi quay sang nói với Beckert. “Xyh jig segkun siwot, c’ta k’nad siwac, gin rehte jiladi.” (Hãy mau gọi chúng tới, bọn ta đang mắc lầy, không thể di chuyển được.)

    “Fig riung fika, tijit gin rujei Kwi,” (Ngài thấy kìa, thịt không hiểu tiếng người.) Am nói, giọng khè khè.

    “Mau gọi, các con đực, tới,” Kuhr nói từng tiếng, và làm điệu chỉ trỏ. “Mưa, bánh xe, thức ăn, bùn, cần giúp.”

    Beckert lúc này vẫn đứng đực ra. Cậu không phải tên ngốc, cậu ta đã hình dung ra một câu chuyện đơn giản đằng sau, chỉ là, cậu vẫn không thể đưa một quyết định khôn ngoan nào lúc này. Cậu ước là các chiến hữu đang chứng kiến chuyện này và sớm hành động giải cứu. Vẫn chỉ có tiếng mưa rơi tí tách mà thôi, Beckert phải tự cứu lấy mình. “Họ… không có ở đây. Họ… đang ở rất xa,” cậu lúng túng chỉ tay về phía Bắc.

    Hai tên Kwi nhìn Beckert vẻ ngờ vực. Rồi Kuhr xấn tới gần vẻ thận trọng, mũi đánh hơi khìn khịt, tay lăm lăm rìu lớn, nom như hắn muốn tự mình xóa tan nỗi nghi ngờ bằng cảm quan. Ngay lúc đó, bỗng nhiên có tia sáng nhè nhẹ xuất hiện từ sau những thân cây đen tối, ẩm ướt như ánh ma trơi lập lòe và chiếu vào mắt hắn. Đó là ánh đuốc của một tên lính Chủ Thị hiện ra trên dốc cao . Khi thấy Kuhr, gã lính la lớn ra sau lưng, “Chúng tới rồi, Barn! Mau báo cho đội trưởng đi Barn!”

    Rồi gã lính trượt xuống con dốc và tiếng lại gần, la lối, “Chúng bây đi kiểu mẹ gì mà giờ mới tới? Bọn ta đã dầm mưa ở đây cả buổi rồi.” Rồi hắn quay sang Beckert, “Còn gã này là…”

    Hắn chưa hỏi hết câu thì Kuhr đã bất ngờ lao tới vung rìu đòi chém Beckert. Lời nói của tên lính Chủ Thị đã biến ý nghĩ hoài nghi mơ hồ của Kuhr thành sự quy kết sáng tỏ. Nãy thì là “đang ở rất xa”, và giờ thì là “dầm mưa ở đây cả buổi”. Kuhr không phải là một con quỷ đần, như con người vẫn hay kể về điều đó trong truyện cổ tích.

    Nhờ ánh đuốc dẫn lối mà Beckert né kịp, rồi vụt chạy vào trong bụi rậm nơi có các chiến hữu, la to, “Quỷ!”

    Và cũng nhờ ánh đuốc dẫn lối mà Vigor có thể bắn ra mũi tên bay sượt qua vai Beckert, găm vào ngực của tên quỷ Kuhr đang lao theo hung hãn. Satchel bắn tiếp một mũi tên khác nhằm vào Am, nhưng hắn may mắn đỡ được. Kuhr trúng tên đau đớn, giận điên rống to ghê rợn, đến nỗi đồng loại đứng tít xa cũng có thể nghe thấu được nỗi đau của hắn, tức tốc ùa tới cứu viện. Quân Chủ Thị mấy chục tên lính cũng hoảng hốt kéo tới, giáp mặt với đám quỷ giận dữ và một nhóm người lạ hơn chục tên đương đằng đằng sát khí, thủ thế giương khiên.

    Trong một thoáng, quân Kwi và quân Chủ Thị trao nhau cái nhìn thăm dò, chẳng mấy chốc thì cả hai bên nhận ra sự việc, bèn ùa tới vây lấy nhóm quân Naioben. Những người lính cấm quân đứng chụm lại dựa lưng vào nhau, khum người, khụy gối, giương cao khiên, tin tưởng không gì khác ngoài tấm lưng của đồng đội. Mưa đêm tí tách làm lạnh cóng đôi bàn tay họ, và tiếng la hú kì dị ghê rợn làm lạnh run sống lưng họ. Đôi mắt họ không thấy gì nhưng đôi tai họ thì nghe thấy hết, họ biết là họ đã bị lũ quỷ bao vây. Con tim họ đập mạnh như muốn nổ tung, thần trí thì hoảng loạn run sợ.

    “Lính! Đứng vững!” Naioben la to. Ngài thừa biết binh sĩ của mình đang nghĩ gì và đang cần gì: một mệnh lệnh làm kim chỉ nam.

    Thường thì, đối với con mồi tháo chạy, lũ quỷ sẽ đuổi theo và tóm lấy những con chạy chậm, tóm càng nhiều càng tốt. Nếu con mồi đứng lại chiến đấu, chúng sẽ bao vây và ùa vào một lượt, rồi ra sức hạ gục từng con một.

    “Cung thủ sẵn sàng,” Naioben chỉ thị. “Tất cả hãy nhớ rõ mục đích của chúng ta. Nếu chúng ta sống, đồng bào ta sẽ sống. Nếu chúng ta chết, thì hãy chết bởi một cú đòn chí mạng, còn hơn là để chúng ăn tươi nuốt sống.”

    Tới một lúc nào đó, khi lũ quỷ đã chắc chắn là bao vây và quan sát được con mồi từ mọi phía, đếm được bao nhiêu con mồi, chúng vũ trang thế nào, tình trạng như thế nào… sau cùng là chờ một thời điểm thích hợp là chúng đồng thanh la to ùa lên. Khi ấy, cung thủ cấm quân phát ra loạt tên đầu tiên, dựa trên linh tính và âm thanh thay vì con mắt và phán đoán. Hay nói theo cách khác thì gọi là cầu ăn may. Thế mà sau đó họ nghe thấy tiếng quỷ rú lên đau đớn thật, nhưng cũng chẳng thấm vào đâu khi mà lũ quỷ vẫn ùa lên hung hãn, nhảy bổ vào cấm quân, rồi vung đòn đánh tới tấp.

    “Đẩy!” Naioben ra lệnh, khi mà các đấu sĩ dùng khiên chắn và sức lực để đẩy, hất tung kẻ thù giật lùi, rồi vung vũ khí đánh loạn xạ vào trong bóng đêm phía trước. Cung thủ cũng được đà này mà bắn thêm mấy loạt tên.

    Ấy vậy mà, dù có cố hất ngã hay bắn trúng nhiều tên thì các cấm quân vẫn không thể làm cho lũ quỷ chùn bước. Chúng vẫn điên cuồng lao tới, áp sát chặt vào tấm khiên, tìm cách luồn tay qua phía trên tấm khiên rồi cố sức mà vung đòn đánh hiểm ác nhằm vào đầu. Miệng chúng không ngừng rủa lời độc địa ghê tởm. Các đấu sĩ mang khiên phải gồng sức để đẩy kẻ thù ra, nhưng sức lực của họ không tài nào chống cự nổi, khi mà kẻ địch vây quanh như kiến vây mồi và ép chặt như ép ván thùng.

    “Lính hãy giữ vứng!” Naioben nghiến răng, gằn giọng. “Mất một viên gạch là bức tường sẽ đổ.” Nói đoạn ngài luồn kiếm qua tấm khiên và đâm hết lực. “Cách duy nhất để ta sống sót là kẻ thù phải chết hết. Kẻ thù phải chết hết!”

    Tới lúc này ý chí chiến đấu của vị chỉ huy vẫn hiện ra kiên cường và dũng mãnh. Tinh thần của các binh sĩ như được tiếp thêm sức mạnh, nhưng thân xác họ thì không hề, hoàn toàn không. Thân thể họ cường tráng, nhưng cũng không thể nào mà một địch mười. Sức lực họ dẻo dai, nhưng cũng không thể mãi giữ chân kẻ thù cứ áp sát và liên tục gây sức ép mỗi lúc mỗi nặng. Dẫu cho không bị thương tích thì thể lực của họ cũng sẽ dần hao mòn, rồi kiệt sức, rồi tới một lúc nào đó sẽ khuất phục Thần Báo Tử.

    Vigor không đích thân cầm khiên, nhưng cậu hiểu vấn đề thực sự lúc này là gì. Thực ra thì ai cũng hiểu cả, nhưng là họ không dám lên tiếng, hay chính xác hơn là không dám nghi ngờ toan tính của Naioben. Thế là Vigor mới cất tiếng theo bản năng của mình, “Vệ úy! Nếu ngài đang ủ mưu gì thì hãy mau làm đi! Chúng ta không thể cầm cự được lâu hơn nữa!”

    “Cứ chờ!” Naioben đáp.

    “Chờ cái gì chứ?” Vigor hỏi.

    “Chờ tới lúc!”

    “Mẹ kiếp!” Vigor thốt lên giận dữ khi mà bản thân cậu bị dồn ép tới mức không còn đủ không gian để mà tuốt kiếm, chứ đừng nói gì tới giương cung. Thế là cậu bèn rút pháo sáng và mồi lửa đỏ lòm ra, toan châm ngòi, nhưng chưa kịp thì bị Kazmaier tóm lấy tay chặn lại.

    “Đừng!” Kazmaier nói. “Không phải nó.”

    “Thả ra!” Vigor quát to hung tợn, dùng dằng một lúc thì toan dùng vũ lực với Kazmaier.

    Thấy thế, Satchel cũng phải lao vào can, nhưng là khống chế Vigor thay vì Kazmaier. “Vig! Hãy nghe lời đi! Đừng lại mắc sai lầm!”

    “Mẹ kiếp mày cũng thả ra!” Vigor vùng vẫy, hét vào mặt Satchel.

    Sự rối ren nội bộ khiến chỉ huy Naioben vô cùng bực tức, nhưng đây không phải là lúc ông thể hiện cảm xúc của mình. “Kaz, giữ lấy mồi lửa,” ông nói to ra lệnh, nhưng điềm tĩnh không ngoảnh mặt. “Warler?”

    “Tiểu binh thua, hãy hỏi Zoller,” Warler lúc này vác khiên đứng chắn bên phải Naioben, đáp.

    “Zoller?” Naioben hỏi.

    “Tiểu binh cũng sắp,” Zoller đáp, vác khiên đứng chắn bên trái Naioben.

    Thực nghiệm thứ nhất. “Kaz, hạ dương!” (sun down) Naioben chợt la to.

    “Hạ dương!” Kazmaier liền la to, tay lấy pháo từ trong túi rồi dí ngòi vào mồi lửa trên tay Vigor. Ngòi vừa bắt lửa là cậu ta liền ném thẳng lên không trung, đồng thời la to, “Nhắm mắt lại!”

    Quả pháo dường như phát nổ khi nó lên cao tới đỉnh điểm, và hiện ra không giống bất kì loại pháo nào mà Vigor từng biết.

    ‘Đầu tiên, đó là một tiếng nổ to như sấm rền. Sau đó là một áp lực đè nặng như gió quật. Kế tiếp là một sức nóng như cái nắng giữa trưa hè. Và cuối cùng, ánh sáng chói lóa ở mọi ngóc ngách như thần tiên giáng thế.

    —Nimbus ký trình’


    Trong giây thoáng, Vigor sững sờ sau một trải nghiệm kì lạ. Ánh sáng dường như len lỏi ở khắp mọi nơi, rực rỡ và kì diệu, bóng đen như không có chỗ để mà tồn tại. Rồi ánh sáng yếu đi, vạn vật xung quanh dần hiện rõ. Từng nhánh cây cho đến từng giọt mưa rơi qua kẽ lá, một thứ đều hiện ra rõ mòn một dưới con mắt trần thịt. Và rồi còn lũ quỷ nữa, chúng dường như đang múa một điệu múa của sự thống khổ cùng cực, của nỗi điên loạn man rợ và của cái chết khô cứng trong một vũ khúc câm lặng.

    Khi ánh sáng yếu đi thì cũng là lúc âm thanh nổi lên. Lúc đó Vigor mới nhận ra là tai của cậu bị ù bởi tiếng nổ lớn. Tiếng gào rú man rợ của lũ quỷ vang lên ở khắp các hướng. Rồi sau đó thế giới lại im lặng dần, im lặng dần cho tới khi chỉ còn lại âm thanh của hơi thở dồn dập và tiếng mưa rơi tí tách. Xác quỷ nằm la liệt trên mặt đất, da thịt thì sưng tấy, tứ chi thì co giật, còn tư thế thì như giẫm đạp lên nhau mà trốn chạy. Vẻ như lũ quỷ đã phải hứng chịu một cái chết đau đớn tuyệt vọng như một con người bị thiêu sống có thể.

    Nhìn ra xa hơn vạt rừng bên trái, đằng sau những gốc cây cũng là xác quỷ nằm co giật. Xa hơn nữa thì thấy thấp thoáng bóng quỷ bỏ chạy vào trong bóng tối. Khi nhìn qua cánh rừng bên phải thì hiện ra bóng dáng của người sống, là quân lính Chủ Thị. Chúng hiện ra bình yên vô sự, hiển nhiên rồi. Vẻ như ngay từ đầu chúng chỉ đứng ngoài quan sát, cậy hết việc đâm chém vào lũ quỷ. Giờ thì chúng trông cũng sững sốt không kém gì Vigor khi đó.

    “Chúng biết phép thuật của người trời!” một tên lính Chủ Thị há hốc thốt lên. “Chúng biết phép thuật của người trời!”

    “Đồ ngu,” một tên khác quát nạt, nom như là kẻ có cấp bậc. “Đó là pháo sáng của đám Trung Lộ (Midway). Mà mặc kệ có là pháo hay người trời, hay cái gì sáng đi chăng nữa, mặc kệ hết, vì đã có con quỷ xám khổng lồ. Ta nghe nói đêm nay hắn cũng đến và sẽ sớm xuất hiện thôi.”

    “Nhưng hắn thì làm được gì?”

    “Hắn không sợ ánh sáng, hắn to lớn dũng mãnh. Mạnh hơn gấu và nhanh hơn sói, đáng sợ gấp trăm lần những con quỷ biến thân. Hãy tạm thời rút—à khoan, có phải là hắn kia không, cái dáng dấp đó? Đích thị là hắn, vừa nhắc đã xuất hiện, ta biết chắc mà! Chúng ta sẽ không rút nữa! Chúng ta sẽ chiến đấu bên cạnh hắn!”

    Đôi mắt của các cấm quân không lâu sau đó cũng bắt được hình bóng của con quỷ đó. To lớn, điềm tĩnh, và hiên ngang dưới ánh sáng tàn dư, đôi chút lờ mờ. Tới gần hơn nữa thì hắn hiện ra với đôi mắt đỏ lòm, nước da thì màu xám tàn tro qua khe hở giáp trụ đen xì, mà nếu so với lũ quỷ đen thì là hắn trắng hơn hẳn. Râu và tóc hắn dài, trắng bạc. Tay phải hắn mang khiên lớn đóng từ ván gỗ ép và bọc viền sắt, tay trái vác hắn rìu sắt lớn cũng đen xì. Miệng đọc lời tế: “Gin jos stihek, gin udda aitawul, sginon fabgun sichys craus kra.” (Cái chết không làm con sợ, ánh sáng không làm con đau, hãy để lý tưởng của cha dẫn lối.)

    Tai ù, đầu choáng, còn mắt thì như nảy đom đóm, nhưng khi thấy kẻ thù đang tiến lại gần thì Naioben liền phải tựa tay lên kiếm mà vùng người dậy, rồi ra lệnh thúc giục binh lính của mình, “Mau đứng dậy! Vác khiên lên!” khi mà bọn họ còn đang gục ngã bởi áp lực của vụ nổ.

    Đã có bốn người không thể đứng dậy được nữa như Vigor quan sát thấy. Người này là Qsev, người kia hình như là Becker, hai người còn lại thì Vigor chịu không nhớ nổi tên, đơn giản là vì cậu không nói chuyện với họ lần nào. Nhóm quân vừa mất bốn đấu sĩ, Vigor đành phải vứt bỏ cung tên và vác khiên lên, tuốt kiếm ra.

    “Vig, hãy nói với tôi rằng là anh biết cách đối phó với hắn,” Satchel nom lo lắng.

    “Không, tôi chịu. Tôi thậm chí còn chưa từng đụng độ với cái giống này bao giờ.”

    “Nhưng anh là kẻ từng trải.”

    “Đúng là tôi từng đụng độ con quỷ to như hắn. Nhưng đó là Stieng, và nó không trắng—không, là xám? Không, là trắng?” Vigor nom bối rối. “Mẹ kiếp là gì cũng được, nhưng nó không phải là Stieng!”

    “Vigor,” Naioben nói, “đây là lúc để ngươi chuộc lại những lời xấc xược.”

    Vigor chợt thấy chột dạ, bối rối liếc nhìn Naioben, rồi lại cắn môi nhìn tên quỷ trắng. Thấy cậu chần chừ, Naioben liền xô vào vai cậu, khích, “Làm gì đi chứ!”

    Bị bẽ mặt, lại được đà cú đẩy, thế là Vigor làm liều xông tới chặn trước con quỷ. Con quỷ liền vung rìu phủ đầu. Vigor liền né, chứ không dám dùng khiên đỡ cú đánh uy lực. Cú vung rìu chết chóc đáp lên một thân cây, làm tróc ra cả một mảng vỏ lớn và để lại một vết sẹo hằn sâu. Nghe âm thanh phát ra lúc va chạm thôi cũng đủ làm cho Vigor ớn lạnh, đoạn nghĩ, Nếu đỡ phải cú đấy thì không những khiên mà cả cánh tay cũng phải gãy nát. Thế là cậu liền vứt khiên đi và rút ra một thanh kiếm ngắn khác.

    Con quỷ lại vung đòn, cứ thế vung đòn liên tiếp. Vigor thì lại né tránh, thi thoảng vung chém trả đũa ngay khi có cơ hội, nhưng chỉ là những cú chém càn, chẳng khác gì gãi ngứa. Mà con quỷ đâu chỉ có to xác bị thịt như Vigor tưởng. Hắn-tay biết tạt khiên, lưng biết xoay trở, đầu gối biết linh hoạt, chân biết tung cước-hiện ra là kẻ biết võ nghệ. Việc né đòn đánh của hắn còn nhọc nhằn chứ đừng nói tới việc soi thấy kẽ hở nơi giáp trụ của hắn.

    Ở phía sau, Naioben và binh sĩ vẫn đứng yên quan sát. Satchel tỏ ra lo sợ, nhưng không dám cất tiếng hỏi, sợ làm phân tâm ngài chỉ huy. Cậu đoán chừng Naioben đang ủ mưu, nhìn cách ngài chăm chú và điềm tĩnh quan sát thì biết. Nhưng cậu cũng lo sợ rằng Naioben sẽ để cảm xúc chi phối, cái cảm xúc rõ là thù ghét Vigor. Mà nếu để cảm xúc cá nhân chi phối thì mọi sự sẽ hỏng cả. Nghĩ là thế, nhưng cậu không dám cất tiếng.

    Thực nghiệm thứ hai. “Kaz, pháo sáng,” bỗng chợt Naioben ra lệnh.

    “Tuân lệnh,” Kazmaier bắn ra pháo sáng, là loại pháo cũ. “Nhưng thuộc hạ không nghĩ là nó sẽ làm hắn sợ.”

    “Chúng ta cần ánh sáng để nhìn thấy hắn,” Naioben đáp, “và những kẻ đằng sau nữa.” Ngài ám chỉ bước tiến của quân Chủ Thị hiện ra dưới ánh sáng. “Tất cả giương cung! Trường cung, Zoller! Gaetan, Warler, Marko, dựng khiên!”

    Khi các cung thủ khác giương cung ngắn, thì Zoller gồng mình kéo dây giương cung dài. Âm thanh phát ra to rõ từ cán cung của Zoller đủ cho thấy sức nặng chết chóc của lực kéo.

    “Đoản cung nhắm quân người, bắn tự do. Zoller nhắm con quỷ, hãy giữ,” Naioben chỉ thị.

    Khi mà kẻ địch Chủ Thị đã vào trong tầm ngắm và tên đã được trút ra, khi mà quả pháo sáng thứ hai đã lụi tàn và chuẩn bị bắn ra quả pháo sáng thứ hai, Zoller vẫn phải giữ cung như chính Naioben đang chờ đợi.

    Đương vất vả né tránh, một mũi tên găm vào lưng Vigor, làm cậu gục ngã. “Khốn kiếp!” cậu la lên giận dữ, nghiến răng oán giận, cảm giác như là bị đồng bọn phản bội chứ không thể xem là bỏ thí nữa. Và khi con quỷ tiến tới chỗ Vigor, chuẩn bị ra đòn kết liễu thì cũng là lúc Naioben la lên, “Bắn!”

    Zoller thả dây cung ngay như thả rơi gánh nặng âm ỉ. Mũi tên sắt được bắn ra với uy lực như xé toạc không gian, đâm thẳng vào tấm lưng của con quỷ, khiến nó phải rống lên đau đớn. Naioben chỉ chờ có thế, ngài chờ cho Vigor dẫn dụ con quỷ quay lưng lại, lúc đó tấm khiên khổng lồ của con quỷ chẳng thể che chắn được gì.

    Thế nhưng, toan tính của ngài đổ vỡ cả. Con quỷ chỉ đau đớn chứ không hề bị đánh gục. Nó bình tĩnh thả rìu xuống, đưa tay mò mẫm nơi vết thương trên lưng, rồi nắm chặc mũi tên rút ra dứt khoát. Mũi tên rõ ràng là đã đâm xuyên tấm giáp lưng, máu vẫn còn nhỏ giọt nơi đầu mũi, nhưng chẳng đủ sâu để hạ gục kẻ khổng lồ. Con quỷ sau đó phớt lờ Vigor, tức giận lao thẳng tới chỗ nhóm quân.

    Thực nghiệm thứ ba. “Warler, xông lên. Còn lại đối phó với quân người,” Naioben chỉ thị. “Zoller, bắn những kẻ khác.”

    Warler liền giương khiên vác chùy, dũng mãnh lao ra chặn trước con quỷ. Con quỷ sức vóc nhỉnh hơn Warler một chút, nhưng điều đó không làm cậu ngại đánh giáp lá cà. Đòn đánh của con quỷ, sức cậu đỡ được, cậu ra đòn, con quỷ không thèm né. Cứ thế hai bên đánh nhau cân sức cân tài. Vigor thì nhân lúc đấy gắng gượng bò xa khỏi vòng đấu.

    Đám quân Chủ Thị trên đường tiến tới thì bị cung thủ của Naioben kiềm chân. Nhờ sẵn pháo sáng tỏa chiếu, cung thủ cấm quân trút tên liên tục, nhắm vào bất cứ kẻ nào hiện ra trong tầm mắt. Lính Chủ Thị đành phải cậy tới đấu sĩ vác khiên ra làm tiên phong. Tuy nhiên khiên gỗ vừa được giương lên thì liền lĩnh ngay một mũi tên xuyên phá của Zoller. Mũi tên xuyên thủng tấm khiên và găm vào tay của đấu sĩ, khiến hắn đau đớn giãy lên, rồi để lộ thân thể ra trước con mắt thiện xạ của cung thủ cấm quân.

    Cái chết của một số lúc ban đầu chưa thể làm đám đông chùn bước, nhiều kẻ mang khiên hơn xuất hiện và liều lĩnh xồng xộc xông pha, khiến Zoller chẳng thể trở tay kịp. Chúng thậm chí còn giương tên bắn trả. Naioben cùng với Gaetan và Marko phải cảnh giác giương khiên chắn tên. Một số lính Chủ Thị tiến được tới chỗ Warler, hòng ra tay đánh lén thì liền bị trúng cú bổ rìu chí mạng của con quỷ trắng. Tán chết tên này đến tên khác, con quỷ hiện ra hành động có chủ đích cả. Cả đám quân Chủ Thị lẫn cấm quân đều trố mắt lên cả. Naioben định bung lao lên tương trợ cho Warler, nhưng nghĩ lại thì không cần thiết nữa. Dù là đồng minh với nhau, nhưng vì chẳng rõ lý do con quỷ hành động kỳ lạ, đám quân Chủ Thị liền tức giận ra mặt, nhưng chẳng dám hó hé gì, đành tránh xa con quỷ, chuyển hướng tấn công. “Giết lũ Trung Lộ!” chỉ huy quân Chủ Thị ra lệnh.

    Quân Chủ Thị bán mạng vượt qua trận tên, áp sát được lại gần các cấm quân.

    “Zoller, chuẩn bị giáp lá cà!” Naioben nói đoạn xông lên tiếp chiến. Ba người thủ hạ cũng lao lên ngay sau đó. Lúc này các cấm quân mới bộc lộ tài nghệ chiến đấu thượng thừa. Mỗi đòn đánh tung ra đều chuẩn xác và có chủ đích, không thừa, không hú họa mà cũng không hù dọa. Động tác chiến đấu thì uyển chuyển, linh hoạt như đang múa lượn. Đối với họ, toán quân Chủ Thị hiện ra chỉ là giặc cỏ, khách quan mà cho thì chúng có khi chỉ là quân thứ cấp. Mấy kẻ có chút bản lĩnh thì bị đánh cho ngã ngửa. Còn kẻ non kém võ nghệ thì lần lượt bị hạ gục bởi đòn chí tử, không thì cũng trúng đòn đau. Cứ thế, các cấm quân chặn đứng được bước tiến của quân Chủ Thị, dù bị áp đảo quân số.

    Thấy kẻ thù dễ dàng bị kết liễu dưới đường kiếm của mình, Naioben chắc mẩm mọi sự vẫn sẽ nằm trong tầm kiểm soát, cho tới khi ngài chợt nghe thấy tiếng Zoller hét lớn “Warler!” một cách đau xót..

    Warler đã bị đánh bại, lĩnh trọn một đòn chí mạng vào đầu. Còn con quỷ nom có vẻ xuống sức, nhưng không có mấy là thương tích. Nó đứng đó một chốc, chợt rùng mình như rũ bỏ, rồi gồng người, gân cổ rống to về phía nhóm cấm quân, vẻ mặt hung tợn, rồi tiến tới chỗ họ với sát khí ngùn ngụt.

    Thực nghiệm thứ tư. “Đừng, Zoller!” Naioben như đoán được ý nghĩ trong đầu Zoller. “Để hắn tới đây.”

    Dẫu giận điên, Zoller không dám kháng lệnh. Cậu đành trút cơn thịnh nộ lên đám quân Chủ Thị, gặp kẻ nào là đánh kẻ đó, ra đòn nào là vung tay cao đòn đó, bổ xuống hết sức lực, bất chấp việc để lộ ra sơ hở. Vẻ lầm lì thường ngày của cậu ta tan biến đâu hết. Cậu ta giờ như biến thành một con thú dữ điên cuồng, đôi mắt thì long sòng sọc, cổ gân cứng, miệng hét to dữ tợn mỗi lần ra đòn.

    Trong khi thuộc hạ đối phó với quân Chủ Thị, Naioben ra dáng thủ thế, đã sẵn sàng tiếp đón con quỷ trắng. Ngài trừng mắt nhìn con quỷ, la to, “Đến đây nào con lợn cau có! Judem fya!” Rồi ngày cứ lặp đi lặp lại ‘judem fya’ như là một dấu hiệu khiêu chiến. Vẻ như con quỷ đã nhận dấu hiệu, đã hiểu và đã thuận như cái cách nó trừng mắt nhìn Naioben. Nó phản hồi lại bằng động tác lắc vai như đang làm giãn gân cốt, rồi lao thẳng tới.

    Naioben vẫn điềm tĩnh đứng yên thủ thế, như một thợ săn đang khiêu khích ác thú lao vào bẫy. Con quỷ không mảy may nghi ngờ điều gì, nó cứ lao tới và giương cao rìu theo đà, định bổ xuống một cú hủy diệt. Đúng lúc đó, đôi mắt Naioben sáng lên, thời cơ mà ngài mong chờ đã đến. Tay trái ngài mang khiên, nhưng tay phải lại rút ra một món vũ khí kỳ lạ, hình dáng như một ống sắt dài độ một gang tay. Một đầu ống sắt chĩa về phía con quỷ, nhằm ngay vào tim. Đầu kia được gắn vào một thanh gỗ, nơi tay Naioben nắm. Và gần chỗ tay nắm là một đoạn dây mồi lửa đang cháy gần hết.

    Ngay khi đoạn dây cháy hết, một tiếng nổ lớn như sấm vang lên và có ánh lửa phụt ra từ nơi miệng ống sắt. Về phần Naioben và con quỷ, cả hai sau đó như bị một sức mạnh vô hình đẩy cho ngã người ra, phải bước giật lùi. Chỉ khác là, Naioben vẫn đứng vững sau đó, còn con quỷ thì ngã gục một cách nặng nề.

    “Nó có hiệu quả!” Kazmaier la lên hân hoan.

    Đám quân Chủ Thị thấy con quỷ khổng lồ bị hạ gục liền đâm sửng sốt, rồi chùn bước. Thêm vào đó lại không rõ căn nguyên, chúng lại đổ thêm hoang mang lo sợ, đoán quỷ đoán thần, “Tà thuật! Là tà thuật của lũ mắt sáng!” Chẳng kẻ nào muốn dính phải thứ tà thuật chết chóc ấy. Những kẻ đằng trước, chúng sợ hãi đưa con mắt ngơ ngác nhìn quanh tìm kiếm lẽ khai sáng, chỉ rồi để bắt gặp vẻ mặt lúng túng của nhau. Cứ như thế cái nhìn như lây nhiễm nỗi sợ hãi từ kẻ này sang kẻ khác, từ kẻ đằng trước sang kẻ đằng sau, từ kẻ tận mắt chứng kiến đến kẻ chẳng biết gì. Ngay đến kẻ chỉ huy cũng choáng váng trước biến sự dị thường, nhất thời không thể nghĩ ra một kế sách khôn ngoan nào, thậm chí chẳng trấn giữ đội hình, để mặc cho hàng ngũ trở nên rời rạc.

    Tay chỉ huy quân Chủ Thị cuối cùng cũng chịu thua, đành ra lệnh rút quân. “Rút! Rút hết!”

    Các cấm quân lúc này lòng rộn ràng hân hoan niềm vui chiến thắng, thở phào nhẹ nhõm như trút được gánh nặng, nhưng ngoài mặt thì vẫn hằm hằm cảnh giác, khiên giương cao, kiếm nắm chặt, cung tên sẵn sàng. Naioben tranh thủ một chốc nhìn lại chiến trường. Ngài mất sáu đấu sĩ: Warler, Qsev, Beckert, Otto, Gundirr, và Vigor. Vigor? Không, ngài không thấy xác Vigor đâu cả.

    “Vigor đâu?” Naioben hỏi. “Có ai thấy hắn ta không?”

    Những người lính đều lắc đầu, họ cũng thử đảo mắt nhìn quanh, tản ra tìm kiếm. Và lúc ấy, họ phát hiện ra có sự chuyển động ở nơi thân thể con quỷ, và trố mắt sửng sốt khi thấy con quỷ đang chống tay đứng dậy!

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    [To be continued ]
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 14-02-2021 lúc 19:40.

  5. #55
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 19: Vigor

    Con quỷ tựa lên chân phải mà đứng dậy một cách khổ sở, chốc chốc lại rền rĩ đau đớn, dáng dấp như của một kẻ đang ngắc ngoải. Nơi giáp ngực của hắn—chếch về phía bên trái—có một lỗ thủng rớm máu. Hẳn đó là dấu tích để lại của cú nổ vừa rồi, như thế thì món vũ khí dị thường của Naioben nhờ vào phép màu thần kì—không, là nhờ vào cơ năng bí ẩn nào đó, đã làm xuyên thủng tấm giáp dày và khiến con quỷ phải bị thương. Đáng tiếc cho họ, là đó không phải là vết thương chí mạng.

    Zoller liền lao tới vung kiếm, toan bổ xuống đầu con quỷ. Con quỷ liền giương khiên lên đỡ, áp lực từ cú va chạm khiến nó phải giật lùi mấy bước. Rồi nó vận sức, tạt khiên đánh liên tiếp mấy cái, rồi tông tới hất Zoller lùi lại. Ngay sau đó, con quỷ trở người quay lưng, rút khiên ra và ném thẳng về phía Gaetan, vốn đang lao tới từ đằng sau lưng con quỷ toan đánh lén. Đương trên đà chạy tới, Gaetan chẳng thể né kịp, đánh phải giương khiên lên theo phản xạ. Và thế là cậu lĩnh trọn cú ném khiên chớp nhoáng và uy lực, làm cậu ngã vật ra tại chỗ, gãy tay trái, nát luôn cả tấm khiên của mình.

    Con quỷ tiếp đó trở người lại, dùng tay phải nhấc rìu của nó lên, đỡ đòn đánh xấn tới của Zoller. Marko cũng lao tới từ phía bên mạn sườn trái của con quỷ, vung kiếm chém liên tiếp. Con quỷ buộc phải đưa cánh tay trái bọc giáp sắt lên đỡ, rền rĩ như đang đau nhói nơi vết thương chứ chẳng phải bởi những cú chém. Naioben lúc này quyết định tham chiến, tuốt kiếm xông lên liên thủ với thuộc hạ. Con quỷ tức mình vung rìu tạt ngang, khiến cho tất cả phải giật lùi lại giữ khoảng cách.

    Đứng giữa vòng vây thở hồng hộc, con quỷ tháo bỏ mũ giáp như không muốn cản trở tầm nhìn, để lộ ra con mắt đỏ lòm hung ác và điên dại như loài ác thú. Mặt nó cứ nhăn nhó vì đau đớn, miệng thì ho sặc ra máu, tay trái thì ôm lấy vết thương máu đã chảy thành dòng.

    Naioben không nói gì, đứng đó giơ tay lên, múa ngón trỏ ra dấu hiệu. Eron, Schmidt, Kazmaier ba cung thủ theo lệnh đó mà tản ra mỗi người mỗi góc cách xa, bao vây lấy con quỷ, giương tên nhằm vào đầu nó. Satchel thì vẫn giữ nguyên vị trí.

    Trên trời cao dường như đang mưa nặng hạt, vì thế mà có nhiều hơn những giọt mưa trong trẻo luồn lách qua hết mấy tầng lá để tìm lối thoát về với đất. Thế thì chẳng lạ gì khi có giọt mưa nào đó hồn nhiên rơi đáp trên quả pháo sáng đang bay là đà trên bầu không khí chết chóc, căng thẳng. Mỗi lần như thế, quả pháo đều phát ra ánh chớp sáng rực và vang lên tiếng xèo như của dầu sôi. Cứ như là rằng đang có sự kháng cự mãnh liệt, hình thành nên sức bùng cháy phi thường, nhưng cũng lấy đi sinh mệnh như là món quà thỏa hiệp—quả pháo lụi tàn nhanh hơn.

    Thế giới khi đó như là báu vật bị giằng xé giữa ánh sáng và bóng tối. Quả pháo bé nhỏ như đang dõng dạc tuyên bố rằng, “Chừng nào ta còn tỏa chiếu, bất kỳ nơi đâu mà ánh sáng của ta chạm tới thì đó là lãnh địa ta ngự trị.” Bóng tối thì như con quái khổng lồ tham lam, dù nó đang có cả thế giới thì vẫn không ngừng rình rập, chờ thời cơ ập tới nuốt chửng một góc rừng nhỏ bé. Và thần chết sẽ đồng hành nuốt chửng sinh mạng phàm trần. Hễ ánh sáng rút đi thì bóng tối liền ập tới, hễ ánh sáng dâng lên thì bóng tối liền ẩn náu phía sau sự vật. Tất thảy sự vật—từ mặt đất ẩm ướt, thân cây sần sùi, cành lá rung rinh, giọt mưa trong vắt,… cho đến ánh mắt hoang dã của người chiến binh—đều trở thành chốn tranh giành sự hiện diện. Chớp rồi tắt, tối rồi sáng, lập lòe trong tích tắc, hình dáng con quỷ hiện ra thoát ẩn thoát hiện.

    Kazmaier lại thắp tiếp một quả pháo sáng khác, để vị vua đương hấp hối sẽ có kẻ kế vị, để bóng hình hung tàn lại hiện rõ mồn một, để con quái bóng tối đành phải khép mình. Cũng lúc đó con quỷ quyết định hành động, khoảnh khắc mà quả pháo thứ hai chưa kịp bùng sáng và quả pháo thứ nhất vừa chớp tắt, nhanh như cắt nó nhặt lấy một viên đá to, trở người ném về phía Eron—vốn đang ở bên trái của nó. Eron bất ngờ nhả tên theo phản xạ, mũi tên vừa phát ra là trúng vào viên đá và bị đánh bật. Viên đá to vẫn bay tới và đáp thẳng lên cánh tay trái của Eron, khiến cậu phải quằn mình vì đau đớn. Khi ánh sáng lại xuất hiện thì con quỷ đã lao tới ngay sát Marko với ánh mắt hung ác hơn bao giờ hết, vung một cú rìu chớp nhoáng. Không kịp né tránh, Marko buộc đưa khiên lên đỡ, để rồi lĩnh trọn cú đánh uy lực, bị đánh bay người rồi ngã lăn ra đất, rạn xương bầm thịt. Sau đó thì con quỷ liền bỏ chạy về phía bóng tối.

    Hiển nhiên là ai nấy cũng đều bất ngờ. Ánh sáng vừa trở lại là các cung thủ thả tên bay ngay. Mà chẳng chờ tới khi biết tên trúng hay chăng, họ lập tức tra mũi tên khác và giương cung bắn liên tục. Con quỷ liền đưa tay có bọc giáp sắt lên che chắn cho đầu và gáy, mũi tên va vào giáp sắt cứ là kêu lộp cộp rồi gãy tanh tách, cho tới khi con quỷ biến mất dạng.

    Zoller liền chạy, nhưng chẳng phải để đuổi theo con quỷ mà là tới chỗ của Warler. Zoller miệng cứ gọi tên Warler thảm thiết, tay lay lay người. Warler tuy còn thở nhưng cơ thể không có phản hồi gì. Khi tháo mũ Warler ra thì họ thấy một bên sọ đã bị vỡ.

    “Chúng ta không được gì đâu, Zoller,” Naioben nói thẳng thừng. “Chúng ta mất cậu ấy rồi.”

    Zoller thì bỏ ngoài tai, cố gắng đánh thức Warler trong vô vọng.

    “Eron?” Naioben dò hỏi.

    “Tay trái của thuộc hạ bị liệt,” Eron nhăn nhó đáp khi cố gắng cử động những ngón tay. “Marko bị gãy xương sườn, không thể tự đứng dậy.”

    Từ phía sau, Satchel cũng đã tới và kiểm tra những người bị thương trước đó. “Cả bốn người còn thở, đều chấn thương đầu, thuộc hạ cần trợ giúp sơ cứu.”

    “Kazmaier, đi giúp Satchel. Gaetan, đỡ lấy Marko,” Naioben nói, đảo mắt nhìn quanh. “Vigor đâu?”

    “Thuộc hạ cũng không thấy hắn,” Schmidt nói. “Chúng ta xử lý lũ này sao đây?” Schmidt chỉ đám lính chủ thị bị đánh trọng thương.

    “Trói hết lại, tên nào phản kháng thì cắt gân. Ngươi tự xử lý được chứ?”

    “Thuộc hạ đi làm ngay. Ơn thần thánh là lũ Chủ Thị không quay lại lúc nà—” Schmidt đang nói thì bị cắm một mũi tên vào lưng, liền ngã khụy ra đất, la lên đau đớn.

    “Kẻ thù vẫn còn đang ở đây!” Naioben la lên. “Giương khiên lên Zoller!”

    Zoller liền lao tới che chắn cho Schmidt.

    “Schmidt?” Naioben dò hỏi khi thấy phần cán tên lòi ra chỉ có một đoạn ngắn.

    “Tên cắm không sâu,” Schmidt đáp, nghiến răng rền rĩ.

    “Là lũ Chủ Thị?” Marko hỏi, đương nấp sau một gốc cây cùng với Eron.

    “Không phải chúng,” Eron đáp. “Chỉ có một mũi tên duy nhất.”

    “Xác nhận thực tế,” Gaetan nói, đương giương khiên và thận trọng nhìn quanh. “Không thấy quân Chủ Thị.”

    “Là con quỷ!” Vigor bỗng chợt lên tiếng, và xuất hiện từ đằng sau một gốc cây.

    “Nãy giờ ngươi giả chết ở đâu vậy hả?” Naioben quát.

    “Đánh nhau với quỷ thì giả chết còn tệ hơn tự sát,” Vigor trả treo. “Tiểu binh đương học lóm tài nghệ điều quân của vệ úy.”

    “Khốn kiếp, Vigor!” Từ đằng sau Satchel hét lên, khi cậu đang nằm sấp, nấp sau khiên chắn của Beckert. “Đây không phải lúc phải nơi! Hãy nói là chúng ta cần phải làm gì!”

    “Rút lui,” Vigor đáp vẻ bỡn cợt. “Những ai lúc này không chạy được thì hãy tự sát.”

    “Khốn kiếp. Vậy thì hãy chạy ngay đi như ngươi vẫn hay làm,” Naioben đáp trả. “Rồi cứ thêu dệt những chuyện li kì như ngươi muốn.”

    “Coi chừng phía bên trái, vệ úy,” Vigor nói.

    Naioben bất giác quay khiên sang bên trái. Tuy nhiên chẳng có chuyện gì xảy ra cả, chờ một lúc thì cũng vậy. Cho rằng bị Vigor lôi ra bỡn cợt, vệ úy liền mặt đỏ phừng phừng. Cũng ngay lúc ấy tấm khiên của ngài đón ngay một mũi tên, đâm thủng cả khiên, khiến ai nấy cũng đều phải trố mắt.

    “Địch trong tối, ta ngoài sáng, đánh không lại được đâu,” Vigor nói. “Hắn sẽ vờn chúng ta, từng người từng người một. Hắn sẽ đánh ở những góc ta ít đề phòng nhất. Ai không chạy được thì hãy tự sát. Ai không tự sát được thì nhờ người khác. Bằng mọi giá đừng để chúng ăn sống.”

    “Khốn kiếp, kiểu gì cũng phải có cách giết được con quái vật này chứ?” Kazmaier la lên.

    “Tự mày đi mà nghĩ cách, Kaz. Mày cứ giữ lấy cái bí mật của mày,” Vigor đay nghiến.

    “Lính, chú ý!” Naioben hô to. “Tập trung lại và che chắn cho nhau. Không được sợ hãi. Phải tỉnh táo. Mở to mắt và trông chừng chuyển động của kẻ thù. Kiếm có thể gãy, khiên có thể thủng, nhưng cuối cùng ta sẽ tiêu diệt con quỷ.”

    “Vô ích thôi,” Vigor nói. “Nó không có ngu. Nó sẽ đánh lúc các người lơ đễnh. Thậm chí cả khi các người mở thật to mắt để nhìn thấy tất, ánh sáng của các người sẽ chẳng tồn tại được lâu. Liệu các người có đủ pháo để thắp tới sáng? Rồi nó sẽ mò tới, ngay khi tia sáng cuối cùng bị dập tắt.”

    “Không được hoảng,” Naioben liếm môi, đưa mắt nhìn quanh. “Cứ để nó đến… cứ để nó đến…”

    “Và đừng quên lũ Chủ Thị,” Vigor lại nói, nghiến răng rền rĩ đau đớn khi tay đang cố rút mũi tên ra. Nhờ có áo giáp nên mũi tên không cắm sâu và cậu có thể rút được đầu tên ra.

    Rồi chợt Naioben trợn trừng mắt, nuốt nước bọt, như thể một ý tưởng điên rồ liều lĩnh vừa ập tới. Ngài liền ra lệnh, “Lính! Thực thi lệnh 66!”

    Đám lính liền trố mắt nhìn ông ta. Vigor thì hiện ra lạ lẫm và tò mò, Lệnh 66 là cái gì?

    “Thực thi lệnh 66! Ngay lập tức!” Naioben gắt.

    Satchel liền cầm kiếm lao tới chỗ Vigor, chĩa vào mặt. “Anh có hai lựa chọn. Một là chạy theo bọn tôi. Hai là chết tại đây.”

    “Cậu đang nói cái—?”

    “Chọn!” Satchel vẻ mặt nghiêm trọng.

    “Tôi chạy. Hãy nói cho tôi biết là tôi cần phải làm gì.”

    “Chỉ cần chạy theo và thực hiện mệnh lệnh của vệ úy. Vết thương của anh ổn chứ?”

    “Tên cắm không sâu. Tôi đã rút mũi tên. Đang nhét thuốc cầm máu. Cơ bản là tôi chạy được.”

    Satchel tới đỡ Vigor lên, rồi cả hai trở lại với nhóm quân. Tại đó, Vigor liền hiểu ra phần nào đó lệnh 66 là cái gì. Những người lính đứng được bắt đầu hành quyết những những người lính không đứng được. Qsev, Beckert, Otto, Gundirr hiện ra bất tỉnh dù người khác có cố lay động thế nào. Sau đó thì Zoller đứng ngay đó kéo cung, nhắm thẳng vào trán bọn họ và bắn, thẳng tay hành quyết từng người một. Vigor chỉ biết đứng đó sững sờ, trố mắt nhìn, không dám cất nên lời can gián. Thầm nghĩ, lúc nãy nếu cậu lỡ thách thức thì Satchel cũng xuống tay thật.

    “Tiểu binh có thể chạy,” Marko nói.

    “Chân tiểu binh vẫn ổn,” Eron nói.

    “Còn cậu, Schmidt?” Naioben hỏi.

    “Tiểu binh đã rút mũi và cầm máu,” Schmidt đáp rền rĩ, mặt nhăn nhó, người co rúm. “Tiểu binh sẽ chạy được.”

    “Cậu ta sẽ có sao,” Vigor nói. “Đó là mũi nỏ đen của quỷ. Nó đã được tẩm độc, chưa có thuốc chữa, cái chết đến sau vài ngày. Tôi không sao, Satchel. Của tôi là mũi tên thường của quân Chủ Thị.”

    Naioben nhìn Vigor vẻ bán tín bán nghi. Schmidt thì liền bác, “Ngươi đừng có nói xằng nói gở!”

    “Cái chết cũng rất đau đớn,” Vigor nói thêm, vẻ bình thản. “Đau đớn đến mức không thể thốt nên lời hay cử động ngón tay. Cầu xin được chết ngay khi cậu còn có thể mở mồm.”

    “Im mẹ đi!” Schmidt trừng mắt quát.

    “Đứng thẳng lên, Schmidt,” Naioben ra lệnh.

    Schmidt nhăn mặt đau đớn, gắng gượng đứng thẳng lưng.

    “Vậy thì ráng mà chạy cho nhanh,” Naioben nói đoạn thì quay sang Vigor. “Con quỷ, nó vẫn còn ở đây chứ?”

    “Nó không đứng một chỗ, mà di chuyển liên tục quanh ta,” Vigor đáp.

    “Tất cả chạy,” Naioben nói to.

    Như thế tất cả tháo chạy theo sau Naioben, hướng về phía Đông, như rằng hướng về nơi họ từng xuất phát. Pháo sáng gắn trên đỉnh mũ giáp của Naioben, nhờ thế mà họ thấy rõ lối mà chạy, thấy gốc cây mà né, thấy thân cây đổ mà nhảy. Tuy nhiên chẳng ai thấy được vẻ trầm ngâm của ngài vệ úy.

    Warler không phải đối thủ của nó. Zoller càng không phải đối thủ của nó! Chẳng ai có thể là đối thủ của nó. Vigor thì chẳng biết gì về nó. Nó là cái giống gì?

    Nó vung rìu bằng tay trái, thì hẳn nó thuận tay trái. Đời hiếm kẻ thuận tay trái, nhưng không có nghĩa là không có chuyện có kẻ dùng tay trái để đánh.

    Nó giậm bằng chân phải, tung cước cũng bằng chân phải, thì hẳn nó thuận chân phải. Đời hiếm kẻ bất đồng thuận chân tay, nhưng không phải vì thế mà không có chuyện có kẻ như thế ra trận.

    Nó nãy vung rìu bằng tay trái, giờ nó lại múa rìu bằng tay phải. Đời hiếm kẻ múa rìu thành thạo bằng cả hai tay, nhưng không phải vì thế mà không có kẻ đó tồn tại.

    Quả thật, nếu có kẻ như thế trên đời thì hắn cực kỳ lợi hại.

    Đời hiếm kẻ—không, không có kẻ nào trên đời lại không có tim!

    Trừ phi… xác sống? Không thể, nó biết đau đớn, máu đỏ tươi còn chảy thành dòng. Xác sống chỉ là điềm kinh dị trong truyện cổ mà thôi.

    Vậy, nó là cái giống loài gì? Mỗi một câu đố cứ lẩn quẩn trong đầu Naioben lúc này. Con quỷ này là cái giống gì?

    Là cái giống gì?

    Là…!
    Đôi mắt của Naioben chợt sáng lên như rằng ngài để nghiệm ra đáp án, và như là chân lý để đời: Tim của nó quay về bên phải!

    Chỉ có quay về bên phải nên viên đạn không giết chết nó.

    Chỉ có quay về bên phải nó mới phải vác khiên bằng tay phải.

    Chỉ có như thế mới đúng lẽ ra nó thuận bên phải.


    “Vệ úy, xin ngài hãy bày tỏ mưu kế cho đám thuộc hạ,” Satchel chợt nói.

    “Chúng ta ai chạy được thứ cứ chạy,” Naioben nói. “Con quỷ đang bị thương và đang bị mất máu. Nó sẽ không đủ sức mà theo được ta. Vigor, cảm giác của ngươi nói gì?”

    “Nó vẫn đang ở phía sau,” Vigor đáp vẻ bình thản, “theo sát nhưng giữ khoảng cách.”

    “Hãy báo cho ta biết ngay khi ngươi mất cảm giác. Chạy tiếp!”

    Rồi tất cả lại trốn chạy cũng như con quỷ đang truy đuổi theo sát ở sau. Tình huống đã xoay chuyển từ một trận quyết đấu sinh tử sang một cuộc chạy đua theo kiểu mạnh ai nấy chạy, thân ai nấy lo. Mà đã là chạy đua thì sẽ có kẻ nhanh kẻ chậm, kẻ dai sức kẻ đuối sức. Mặc nhiên, sẽ có kẻ bị bỏ lại phía sau. Đó là lúc mà Schmidt không thể chịu được nữa. Máu nơi vết thương vẫn chảy khiến cậu thấy hoa mắt. Cơn đau hành hạ khiến cậu rền rĩ không thở ra hơi. Nước dãi cứ tuôn ra khi mà cậu hít lấy không khí lấp đầy khoang phổi, vừa cố thốt ra lời cầu cứu, “Dừng lại—dừng lại. Tôi—không thể…”

    Đuối sức, Schmidt ngã gục trong khi những người khác vẫn chạy tiếp. Cậu gắng hơi thốt ra lời cầu cứu, đến nỗi nước dãi chảy ra thấm ướt cả bộ râu. Cậu trân mắt nhìn trong vô vọng, chỉ để đón nhận ánh mắt thương hại của bọn Marko và Eron. Luồng sáng phía trước cứ thu hẹp nhỏ dần, nhỏ dần cho tới khi biến mất khỏi sau những bóng cây đen tối, để lại một con người bị bóng tối nuốt chửng. Tuyệt vọng, nhưng cũng lúc đó ý chí sinh tồn của Schmidt trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Cậu nắm chặt dao trong tay, dư dứ ra phía trước, chốc chốc hươ ra khắp phía. Ít giây sau đó, cậu nghe thấy tiếng bước chân dẫm mạnh và nhanh của con quỷ đang lao tới.

    Ở đằng trước, nhóm quân chợt nghe thấy tiếng la thất thanh bị cắt đột ngột của Schmidt vọng tới, thế là họ đoán ra được số phận của cậu ta, hay cũng như của bất kỳ ai bị bỏ lại phía sau. “Cứ chạy đi,” Naioben ra lệnh.

    Chạy được ít lâu thì tới lượt Marko đuối sức. Cậu chạy chậm dần, chậm dần, khoảng cách giữa cậu và nhóm cứ thế mỗi lúc một xa. Cậu vừa thở dốc, vừa rền rĩ đau đớn, tưởng như rằng xương sườn gãy đang cố nghiền nát lá phổi của cậu. Chỉ có duy nhất Eron là cố nắn lại kéo tay Marko, ra sức động viên, “Cố lên, không được bỏ cuộc.” Tuy nhiên Marko thì không thể ráng được nữa, cậu đứng lại, nghiến răng nhăn mặt, thở khó nhọc, miệng chợt ho ra máu. Cậu lắc đầu nhìn Eron, tay nắm chặt lấy tay Eron, miệng tuy không nói nhưng ánh mắt khổ sở rõ là đang nài nỉ lòng thương xót cứu vớt.

    “Ráng chạy đi Marko!” Eron lại động viên. Nhưng Marko lại mếu máo lắc đầu, tay cứ níu lấy tay Eron. Eron bèn gạt ra thì Marko lại dùng dằng. Cuối cùng Eron đành phải hất tay dứt khoát, rồi vùng bỏ chạy, đành lòng bỏ Marko lại phía sau. Thế nhưng chạy được vài bước thì chính Eron cũng bị trúng một nỏ ngay vào lưng, ngã sấp. Đau đớn quằn quại, Eron ráng quay người lại và lôi ra một quả pháo rồi châm ngòi. Mà chẳng cần đợi quả pháo phát sáng, ánh sáng yếu ớt từ đằng trước rọi lại cũng đủ sáng để Eron nhìn thấy ánh mắt vô vọng của Marko, và ngay sau lưng Marko là cặp mắt đỏ ngầu ghê rợn–hiện ra như sáng rực trong bóng tối.

    Nhóm quân tháo chạy lại nghe thấy hai tiếng la kinh hãi khác từ đằng sau. “Marko và Eron…” Gaetan nói.

    Satchel thì chợt quay sang nhìn Vigor một cách lo lắng, “Vig, anh ổn chứ?”

    “Khỏi lo, Satchel. Khỏi lo,” Vigor đáp, nhưng sắc mặt thì nom mệt mỏi. Satchel cũng đoán được là vết thương của Vigor đang chuyển biến xấu.

    “Vigor, nó vẫn còn ở phía sau đúng không?” Naioben hỏi nhưng không ngoái lại.

    “Nó vẫn còn.”

    Naioben chẳng nói chẳng rằng, chợt trở người ngáng chân Vigor, làm cậu ngã nhào. Những người khác liền nán lại, trố mắt nhìn Naioben.

    “Cứ tiếp tục chạy,” Naioben ra lệnh. Đám thuộc hạ ngoan ngoãn chạy tiếp mà không dám ý kiến. Đợi khi tất cả đi hết thì Naioben mới ném cho Vigor một quả pháo và một ống lửa. “Đừng để phí một quả pháo cầm tay tân tiến,” nói rồi ngài bỏ đi.

    Vigor lúc này vẫn còn đang lồm cồm, vẻ mặt thì tức giận, la lên, “Điều này chỉ là để trả đũa tôi thôi sao?”

    “Ta ước là ta đã có thể cắt họng ngươi từ lâu, quân xấc xược!” Naioben nán lại nói. “Giờ thì, được sức được gan thì người cứ chống cự con quỷ, câu giờ cho bọn ta. Còn không thì…” Naioben nói đoạn đưa tay làm điệu bộ cứa cổ. “Không cần phải khách sáo,” nói xong Naioben quay lưng bỏ đi.

    Nghe những lời khích bác Vigor tức điên, nghiến răng như muốn gãy cả hàm, điên như muốn lao vào sống mái với Naioben. Tuy nhiên sức nào cậu làm cho được, bởi vết thương lẫn cú ngã đau, đứng vững còn khó chứ đừng nói tới đánh đấm. Mà nhắc tới đánh đấm thì còn đó con quỷ, và nó đang tới rất gần cậu. Lúc này Vigor chợt nhớ lại con quỷ mà cậu đã bắt ở Lav’din, Từ cánh rừng, thủ lĩnh, sẽ đến, sẽ hiên ngang sải bước dưới ánh lửa, sẽ ăn thịt các ngươi, sẽ uống máu các ngươi… Nhớ lại từng lời nó nói mà cậu bật cười chua chát, ngẫm số phận như là vở hài nhạt nhẽo sắp tới hồi kết.

    Kết thúc như thế này thì dễ quá, Vigor nghĩ thế liền gượng đứng dậy, hai tay nắm hai dao, dốc hết chút sức lực tàn để treo lên một cái cây to và trơn ướt. Cậu cố trèo càng cao càng tốt, hy vọng sẽ kiếm được một cái hốc nào đấy mà tránh tên nỏ. Còn nếu con quỷ có tính trèo lên, thì ở vị trí cao hơn sẽ là lợi thế chiến đấu của cậu. Châm quả pháo bất ngờ, hù dọa con quỷ sợ, chỉ cần làm nó rơi ngã thì chính sức nặng của nó sẽ giết chết nó. Mưu chước của cậu ít nhất là như thế, có điều người tính thì chẳng bao giờ bằng trời tính.

    Bằng linh cảm Vigor cảm nhận được sự hiện diện của con quỷ đang lại gần. Rồi bằng đôi tai, cậu xác nhận sự thực đó. Tiếng bước chân nặng nề mỗi lúc một to, rồi tiếp đó là tiếng sột soạt như đang có một sự dò xét nơi gốc cây. Vigor ngồi đó lặng lẽ, tay sẵn sàng mồi lửa và pháo, tai thì dỏng lên nghe, ngóng xem con quỷ sẽ leo lên từ hướng nào. Một âm thanh đục vang lên, nom như tiếng mũi nỏ cắm vào thân cây, khiến cậu giật mình co rúm người lại. Cuối cùng tiếng bước chân mỗi lúc một xa, đuổi theo nhóm cấm quân. Vigor trong giây lát đâm ra ngỡ ngàng, há hốc trố mắt nhìn theo, rồi sau đó thở phào nhẹ nhõm, ngồi đó bần thần chưa biết phải làm gì tiếp.

    Ở phía trước, sau khi chạy được một đoạn thì Naioben liền ra lệnh cho thuộc hạ đứng lại và ngóng về phía Vigor. Satchel tò mò dò hỏi, “Vệ úy, ngài đang trông chờ điều gì vậy?”

    “Một tiếng nổ,” Naioben đáp.

    “Để tiểu binh nạp lại đạn cho pháo đạn,” Kazmaier đề nghị.

    “Làm đi,” Naioben chìa ống sắt ra. “Nhưng đừng trông đợi ở nó. Đưa ta pháo sấm.”

    “Chúng ta đều thấy con quỷ đổ gục bởi pháo đạn,” Kazmaier trao một quả pháo có vỏ bọc sắt cho Naioben.

    “Cung tên có thể làm một con gấu chảy máu đến chết, nhưng chúng ta cần nó chết ngay trước khi nó kịp tát gãy cổ một ai đó. Chúng ta cần thứ gì đó mạnh hơn. Đây là cơ may cuối cùng của chúng ta. Ta đã đưa cho Vigor một viên pháo sấm. Nó sẽ phải nổ.”

    “Nhưng nếu nó không nổ?” Kazmaier hỏi.

    “Vậy nên ta cần dự phòng một viên pháo sấm khác. Nạp đạn xong chưa?”

    “Xong rồi thưa ngài.”

    Naioben liền dập quả pháo sáng. “Ta quá sáng, sáng thì sẽ dụ lũ thiêu thân tới—lũ Chủ Thị. Còn con quỷ, cứ cho là nó nhìn được trong tối, vậy thì hãy tản ra nấp sau gốc cây. Hễ nghe tiếng bước chân của nó chạy vào tròng thì ùa ra vây lấy. Kaz lúc đó hãy thắp pháo lên rồi nhắm bắn pháo đạn. Ta sẽ liệu dùng pháo sấm.”

    “Dùng tới pháo sấm lúc này khác nào tự sát, thưa vệ úy?” Satchel can. Kazmaier nghe thế thì liền hiện ra vừa run sợ, vừa háo hức.

    “Chỉ cần tên Vigor cho nổ pháo sấm trước thì chúng ta không sao. Tuy nhiên, đừng quên nhiệm vụ chính của ngươi là gì, Satchel,” Naioben đáp.

    “Thật kì lạ, nãy giờ cũng lâu quá rồi,” Gaetan thốt lên.

    Naioben thầm cau mày trong bóng tối. “Đúng là kì lạ thật.” Vệ úy trầm ngâm đắn đo một lúc, thì liền rủa, “Mẹ kiếp thằng con hoang! Có chết cũng câm như hến. Satchel, chạy đi! Đừng có đần ra như thế. Chạy. Đây là lệnh!”

    Thế là Satchel cắm đầu cắm cổ chạy. Kĩ năng và trực giác của một do thám sẽ dẫn đường cho cậu tránh đâm sầm vào một cái cây, hay vấp một tảng đá, hay sa vào một cái hố. Chung quy thì cậu sẽ ổn thôi, nhưng bụng cứ phập phồng lo sợ cho đồng bọn.

    Về phần Naioben và ba thuộc hạ, mỗi người chia nấp mỗi góc. Gaetan với Zoller ở tiên phong phía trước, Naioben với Kazmaier thì nấp ở sau. Không gian lúc ấy yên ắng kèo dài đến lạ thường, thỉnh thoảng là âm thanh tí tách của giọt mưa rơi xuống vũng và tiếng rít của côn trùng kêu. Tò mò đến ngứa ngáy, Gaetan bèn rướn cổ, chường mặt ra ngóng xem. Thế giới hiện ra tối đen như mực, kể cả viên đá bay tới đáp thẳng vào mặt cậu khiến cậu ngã ngửa ra bất tỉnh!

    Nghe thấy tiếng bụp lạ thường và âm thanh cơ thể đổ gục, Naioben liền đoán ra sự, bèn ra lệnh, “Thắp sáng!”

    Ánh sáng vừa hiện lên thì bóng dáng con quỷ đã hiện ra sừng sững, rìu lăm lăm trong tay và đang đà lao tới chỗ Kazmaier. Hốt hoảng, cậu toan dúi mồi lửa châm nổ pháo đạn thì bị con quỷ vung rìu đánh gạt qua bên, vô tình chĩa thẳng ống pháo về phía Naioben. Cũng lúc đấy pháo đạn phát nổ, vệ úy lĩnh trọn một viên đạn vào bụng, thủng cả giáp và xoáy nát da thịt, khiến ngài đổ gục tức khắc. Con quỷ ngay lập tức trở tay, quật thêm một cú chí mạng đánh bay Kazmaier.

    Zoller vốn đã thấy con quỷ chạy vút qua trước mặt mình, nhưng không phản xạ kịp thời chặn đứng nó. Lúc cậu bắt kịp con quỷ thì Kazmaier đã ngã gục và con quỷ đã kịp trở mình đỡ đòn. Rồi sau đó cả hai lao vào quyết sống chết.

    Naioben nằm đó một chỗ, mắt vẫn mở và ngực vẫn thở, có điều thần sắc thì như hồn phi phách tán. Đau… Đau quá. Thế ra nó đau như vậy. Hỏi kẻ tử tù trong cơn đau quằn quại, nhưng chẳng thốt nổi nên lời rền rỉ. Đau quá. Đau như trăm mũi tên mới sánh bì. Da như cháy, thịt như nát. Máu tươm như suối nguồn, lúc đầu thì thật ấm áp, sau thì thật lạnh lẽo. Đôi chân như tê dại, ngón tay run run từng đốt. Ta sắp chết. Đôi tai nghe như Thần Báo Tử đang thì thầm. Ta sẽ chết một cái chết cao—

    Không! Naioben chợt mắt sáng bừng. Ta không thể chết một cái chết vô nghĩa. Kẻ thù kia vẫn còn sống và nó sẽ sát hại Zoller như nó đã tàn sát chúng ta. Ta có thể làm gì được đây? Thằng nhóc có thể thắng, và ta chấp nhận số mạng mình kết thúc tại đây. Nhưng nếu thằng nhóc không thể?

    Đây là ván cược mà số phận của ta vốn đã an bài và chẳng quyết định gì được tới kết quả khả dĩ—hoặc là Zoller sống, hoặc là con quỷ sống, kỳ vọng bình đẳng. Ấy mà ta lại chẳng thể cầm cự được lâu hơn tới khi chứng kiến kẻ chiến thắng. Con quỷ phải chết, phải là nó chết. Hỏi kẻ bạc bịp làm sao để lúc nào cũng rút được con át chủ, ‘Hãy hối lộ Tử Thần.’ Ta thì có gì để hối lộ Tử Thần? Tử Thần thì cần ta hối lộ thứ gì?

    Hiến tế!


    Naioben rút ống lửa và châm mồi quả pháo nổ. Mạng ta đã trong tay Tử Thần, nhưng của Zoller thì hắn đang chầu chực. Vậy thì, Naioben chợt ném quả pháo nổ tới chỗ con quỷ và Zoller, ngươi cứ lấy Zoller đi, rồi sau đó lấy luôn cả con quỷ.
    Thực nghiệm cuối cùng.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 02-03-2019 lúc 12:35.

    ---QC---


Trang 11 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 9101112 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status