TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 2 của 12 Đầu tiênĐầu tiên 1234 ... CuốiCuối
Kết quả 6 đến 10 của 59

Chủ đề: Nghiệp

  1. #6
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người


    ‘Trong mọi cuộc chiến tranh đều luôn có thương vong, ít hoặc nhiều, và điều này chỉ được các chiến lược gia chấp nhận trong một phạm vi định trước nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trước cuộc chiến. Lợi ích có thể chia đều hoặc không đều giữa quý tộc và thường dân, nhưng thiệt hại thì thường dân là đối tượng phải hứng chịu nhiều nhất....

    ...Thiệt hại nhân mạng để lại hậu quả rất lớn trong nền kinh tế của các vương quốc. Có thể tính bắt đầu từ sự kiện Mỏ Sa Mạc, sau đó là chiến tranh Bảy Vương Quốc, cho tới đỉnh điểm là trận Cổng Vàng. Tỉ lệ nam giới trong cơ cấu dân số giảm sút tụt dốc, trong khi đó tỉ lệ trẻ mồ côi nạn nhân chiến tranh gia tăng, điều này tạo gánh nặng cho bất kỳ vương quốc nào. Nhân giới què quặt do mải đánh lẫn nhau, chưa kịp đi tới một hiệp ước đình chiến tạm thời, chứ đừng mơ đến hiệp ước hòa giải, thì đã phải chống đỡ tiếp quân đoàn quỷ xâm lăng từ Quỷ Môn Quan.

    Lúc đó Ramses, ngôi sao chính trị đang lên xuất thân từ giới quân phiệt, xuất hiện với ý tưởng thu nạp toàn bộ trẻ mồ côi vào biên chế quân đội, để quân đội nuôi dưỡng, đào tạo, huấn luyện để trở thành lực lượng chính quy của nhà vua. Một chiến binh được đào tạo từ lúc còn bé hiển nhiên sẽ dũng mãnh và thiện chiến hơn một anh nông dân bị lệnh cưỡng bức tòng quân. Những đứa trẻ với cái đầu non nớt, trong sáng như một tờ giấy trắng sẽ dễ dàng tiếp nhận những tư tưởng thù hận và tư tưởng phe phái mà quân đội tiêm nhiễm cho chúng, mà họ gọi những cái đó bằng cách gọi mỹ miều là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Để rồi sau đó họ, tướng lĩnh, sẽ có được sự trung thành không nghi ngờ của thế hệ quân sĩ tương lai.

    Không thể không nhắc tới chương trình “cưỡng bức lao động” để bù đắp khoản trống nguồn lực lao động, điều hay ho hơn nữa là bọn trẻ chưa nắm được khái niệm “lương bổng”.

    Ý tưởng này giúp Ramses giải quyết hai vấn đề kinh tế và quân sự nan giải, bất chấp sự chỉ trích về mặt đạo đức của một phần nhỏ là dư luận, phần lớn là từ các đại thần trung thành với Leonin. Họ nghi ngờ lòng trung thành của thế hệ quân sĩ mới, là dành cho nhà vua hay cho giới quân phiệt.

    -Heh’ran ký trình-’

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    Chương 2: Bước chập chững của những kẻ kế thừa: chạy nhanh, ...


    Tarbas, Năm Leonin thứ XXX

    Đoạn 1: Sử Địa Chí Đại Lục


    Denfort sau hai mươi năm thất thủ, giờ trở thành một thành trì bị bỏ hoang và đã rậm cỏ dại. Lúc đêm tối nơi đó nom như là một cõi hoang vu im lặng của người chết. Người ta lo sợ rằng lịch sử sẽ lặp lại nên tuyệt nhiên không một ai dám có ý nghĩ sẽ tiếp tục dung thân ở đó.

    Cái tin Denfort thất thủ cứ như lan truyền ra khắp nơi theo con gió lơ đãng. Thời điểm đó, người ta chứng kiến làn sóng Đông Tiến lần thứ hai, lượng người di cư phải đến mười vạn dân. Người ta lũ lượt rời bỏ các thôn làng, thị trấn, dám bỏ lại sau lưng tài sản, đất đai, ruộng đồng và cả hoa màu sắp tới ngày đơm bông trổ lúa. Tất cả là vì nỗi lo sợ biết đâu đêm nay lũ quỷ sẽ mò đen. Họ ùn ùn kéo đi bất chấp sự ngăn cấm của quân đội. Họ chỉ trích quân đội đã ở đâu khi dân chúng đang gặp hiểm nguy. Họ chất vấn quân đội liệu có thể làm gì để ngăn chặn lũ quỷ.

    “Hổ còn thua thì mèo sẽ đỡ sao cho được?” – Một người dân tay xách nách mang, đùm đề lỉnh kỉnh linh tinh các thứ cho hay.

    Các vị vua thần Tarbas lo sợ rằng đất đai ở miền Đông Đại Lục sẽ phải quá tải. Nếu như có xảy ra làn sóng di cư lần thứ ba thì sợ rằng chính các vương quốc sẽ lại lục đục với nhau về vấn đề lãnh thổ.

    ~~~~~~

    ‘Hãy cùng có một cái nhìn mường tượng về thế giới Đại Lục. Đó là một vùng đất rộng lớn và bằng phẳng, có diện tích hơn một triệu hai mươi lăm vạn cây vuông, là khắp thế giới của mười một triệu con người. Cái thế giới của họ có dạng nom như một cái hình lục giác. Chỉ là nom nom thôi.

    Phương Đông của Đại Lục là thế giới của sỏi đá gập ghềnh và bạt ngàn đồng cỏ, trải dài mãi cho tới khi chạm phải Biển Đông (East Sea) rộng lớn. Là thế giới của mù sương và những trận mưa nặng hạt kéo dài suốt nửa năm.

    Phương Tây là thế giới của rừng rậm và đầm lầy, nơi con sông Bắc Sơn chảy qua và sau đó phân nhánh thành các con sông nhỏ, rồi thành các con suối nhỏ, tạo thành một mạng lưới sông ngòi dày đặc mang tới sắc màu tươi tốt trải trộng khắp. Sắc xanh tươi đó bị chặn lại bởi dãy nũi Cực Tây dựng đứng và trơ đá.

    Phương Bắc là thế giới của giá lạnh, bị chặn lại bởi dãy núi Bắc Liên Sơn (North Ridge) sừng sững trập trùng. Chưa từng có một ai dám liều lĩnh trèo qua dãy núi để thử sức một chuyến phiêu lưu trắc trở hòng khám phá ra một miền đất mới.

    Phương Nam là thế giới của nóng bức, khô hạn và đất đai cằn cỗi. Nơi tận cùng của vùng đất là biển Nam ấm áp, được các vị thần phú cho nguồn thủy sản dồi dào và sản vật biển quý giá hiếm có.

    Ở các nơi đó, tổ tiên xa xưa của con người đã dựng nên bảy vương quốc cùng tồn tại cho tới khi xảy ra chiến tranh Bảy Vương Quốc. Sáu ở các góc của cái đĩa lục giác khổng lồ và một ở trung tâm:

    - Phía Đông: xứ Aldanine của vua Mefatos.

    - Phía Đông-Bắc: xứ Gadolin của vua Astan.

    - Phía Tây-Bắc: xứ Telnum của vua Ranus.

    - Phía Tây: xứ Gardin của vua Lierthan.

    - Phía Tây-Nam: xứ Halatan của vua Din.

    - Phía Đông-Nam: xứ Eshulu của vua Malikeli.

    - Và ở trung tâm là xứ Tarbas của vua Constantan.

    Tarbas là vương quốc giàu có và hùng mạnh nhất, có hơn hai triệu hai mươi vạn dân và sáu vạn quân thường trực. Trong chiến tranh tổng lực, vua Constantan có thể huy động tới hơn mười một vạn lính.

    Các vương quốc còn lại có dân số đồng đều nhau, khoảng chừng hơn một triệu bốn mươi vạn dân. Lực lượng lính thường trực cũng đồng đều chừng hai vạn lính.

    ~~~~~~

    Làn sóng di cư lần thứ nhất (hay sự kiện Đông Tiến lần thứ nhất) diễn ra ngay sau khi hai vương quốc Halatan (phía Tây-Nam) và vương quốc Gardin (phía Tây) sụp đổ trước các đợt tiến công xâm lăng của quân đoàn quỷ. Khi đó lượng người di cư là lớn chưa từng có, sáu mươi vạn! Trên tổng số hai triệu chín mươi vạn dân của cả hai vương quốc! Nỗi kinh hoàng của từng người trong đoàn người di cư cũng như chính bản thân họ, giống như một thứ bệnh dịch, lây lan tới mọi nơi mà họ đi qua, khiến cho những cư dân địa phương cũng phải tìm cách hòa mình vào đoàn người, làm cho đoàn người càng đi càng trở nên đông hơn, tạo thành một trận lũ người chưa từng có. Họ đem theo những câu chuyện kể ghê rợn về lũ một giống loài hung ác, tàn bạo, xuất hiện từ trong bóng tối phía Tây mỗi khi trời vừa tắt nắng. Họ gọi chúng là quỷ dữ.

    “Chúng gieo rắc nỗi kinh hoàng và chết chóc. Chúng giết người chẳng ghê tay, mà lại còn xem đó như là một niềm vui thú bệnh hoạn. Chúng xé xác trẻ con, moi ruột phụ nữ, lóc thịt đàn ông. Chúng tận hưởng niềm vui khoái lạc khi được uống máu tanh, nuốt thịt sống như rằng trên đời không gì có thể thỏa mãn chúng hơn.”

    Khoảng hai vạn dân miền Tây và Tây Nam Tarbas di hành cùng với đoàn người, và con số sẽ không dừng lại tại đó.

    Trước sự việc kỳ lạ, vua Constantan đã gửi một lời đề nghị tới bốn vị vua còn lại về việc tạm gác qua một bên mâu thuẫn quốc gia, và hãy cùng ngồi lại xem xét vấn đề, tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với Gardin và Halatan. Nhưng trước hết, vua Constantan cấm đoàn người di tản không được định cư trên vương quốc của ông, nhưng cũng chẳng chặn đường họ. Thế là đoàn người tiếp tục tiến xa hơn về phía Đông, tiến về xứ Aldanine của vua Mefatos và Gadolin của vua Astan.

    Khi đó trong cuộc họp bàn tròn, vua Mefatos và Astan đã chỉ trích, đổ lỗi vua Constantan về việc không tiếp nhận đoàn người di cư, để họ gây náo loạn khắp nơi. Hiển nhiên là Constantan rất phẫn nộ, vì họ phần lớn không phải là dân Tarbas! Việc chấp nhận họ cũng chẳng dễ dàng gì, đó còn hơn cả một gánh nặng xã hội. Bởi phần đông trong số họ là người già, phụ nữ và trẻ con. Nếu có trai trẻ thì đa phần là bệnh tật, ốm yếu. Đám trai tráng sức vóc đều bị các vị vua bắt lính phục vụ cho chiến tranh hậu Sa Mạc hết rồi còn đâu!

    Bất cứ ai trong số các vị vua đều có cái cớ “chính đáng” của riêng mình. Riêng vua Mefatos của Aldanine và vua Astan của Gadolin là hai người cảm thấy phiền phức và bức xúc nhất trước làn sóng tị nạn. Đơn giản vì người tị nạn có xu hướng thích miền Đông hơn, dù gì khí hậu đất đai ở đó vẫn dễ chịu hơn các vùng còn lại.

    Ngoài ra, hai vị vua lo ngại những người tị nạn lang thang sẽ định cư bừa bãi ngay trên đường biên giới, về sau này sẽ gây nhập nhằng cho việc phân định lãnh thổ. Vì thế ngay từ ban đầu hai vị vua đều rất kiên quyết với Tarbas trong vấn đề chấp nhận nhập cư, một phần nữa là vì mâu thuẫn giữa bọn họ thời chiến tranh hậu Sa Mạc vẫn chưa được giải quyết ổn thỏa. Những người dân nhập cư muốn được chấp nhận ở Aldanine hoặc Gadolin thì buộc phải tuyên thệ trung thành với vị vua mới của họ.

    Vậy là sau làn sóng di cư thứ nhất, miền Đông Tarbas phải nói là chật ních người. Đó là sau khi năm vị vua cùng ngồi lại với nhau thỏa thuận và bàn bạc về việc cùng nhau tiếp nhận số người di cư.

    Cuộc họp bàn ngày hôm sau, bọn quỷ là chủ đề mà năm vị vua đem ra mổ xẻ.

    ~~~~~~

    Vùng biên phía Đông của Đại Lục là Đông Hải. Nước ở đây là nước ngọt, nhưng dân Aldanine phải đặt tên vùng nước đó như thế là vì nó mênh mông như là đại dương phía Nam. Bờ Biển Đông kéo dài lên phía Bắc thì giao nhau với dãy núi Bắc Sơn, còn kéo dài xuống phương Nam thì bị chặn ngang lại bởi dãy núi Philins sừng sững, rồi sau đó từ phía sau của dãy núi là nhiều con sông nhỏ đổ ra biển Nam. Còn xét bề rộng của nó thì tưởng chừng như mênh mông vô cùng tận, đến nỗi họ nghĩ chỉ có biển mới rộng được như thế. Vùng nước này quanh năm luôn có sương, càng xa bờ thì sương càng dày đặc, khiến cho người tinh mắt nhất cũng chẳng thế thấy được gì cách xa bờ quá năm trăm bước.

    Nhiều lần vua Mefatos đã cử các đoàn thuyền thám hiểm để làm cho rõ liệu Biển Đông rộng chừng nào và phía bên kia của vùng nước này có gì. Tuy nhiên chưa từng có một chiếc thuyền nào trở về. Nỗi sợ lẫn thói tò mò đã khiến cho người ta thêu dệt nên những truyền thuyết về lũ thủy quái khổng lồ hung bạo ở vùng nước xa Đông Hải luôn chờ chực để nuốt chửng cả một chiến thuyền lớn cùng hàng trăm món ăn tươi sống (mặc dù Aldanine rất ít hải quân, mối quan hệ giữa Aldanine và Gadolin không xấu tới mức phải dùng hải chiến).

    Nếu thuyền có men theo bờ lên phương Bắc thì cũng chỉ phải dừng lại tại chân núi Bắc Liên Sơn. Nhiều con thuyền liều lĩnh tiến xa hơn thì kết cục là bị những con sóng hiểm ác bí ẩn đánh tấp đâm sầm vào ghềnh đá lởm chởm ven bờ rồi vỡ tan tành thành từng mảnh. Nếu thuyền có men theo dãy Philins thì cũng chỉ có kết cục tương tự, nhưng thay vì bị sóng đánh thì thuyền sẽ những con nước có dòng chảy siết thất thường cuốn đâm vào đá ngầm.

    Biên phía Nam của Đại Lục là biển Nam Hải. Cũng như Đông Hải, bờ biển Nam Hải bị chặn lại bởi dãy Cực Tây và dãy Philins. Và ở những nơi giao nhau đó cũng luôn có những con sóng bí hiểm và con nước siết dị thường luôn tìm cách đánh chìm những con tàu khám phá miền đất mới lớn nhất và dìm chết những thủy thủ phiêu lưu gan dạ nhất.

    Còn nếu ra xa hơn về vùng biển sâu phía Nam, người ta đồn đại rằng lũ rồng biển Nam Hải còn ghê sợ hơn lũ thủy quái Đông Hải. Mỗi khi nó xuất hiện là mỗi lần giông tố u ám nổi lên, sóng biển cuồn cuộn trồi cao hơn cả một quả núi rồi chợt đổ ầm xuống nhấn chìm chiến thuyền nhỏ bé. Nó cũng chẳng thèm thịt người làm gì, chỉ là họ xui xẻo mới đi vô tình bị gió cuốn sóng đẩy vào đường đi của nó mà thôi. Nhìn vậy, vùng biển nông Nam Hải vẫn giàu tài nguyên sức sống, nhưng người ta không thể sống ổn nếu chỉ có cá với muối.

    Biên phía Bắc của Đại Lục là dãy Bắc Liên Sơn quanh năm phủ tuyết trắng. Dốc núi dựng đứng như muốn đâm thẳng lên trời và thế núi cheo leo hiểm trở, trập trùng núi sau nối tiếp núi trước. Dãy núi chạy dài từ bờ biển Đông cho tới tận dãy cực Tây, tựa như một bức Vạn Lý Trường Thành khổng lồ phân cách hai thế giới, như lưỡi dao cắt đôi bầu trời. Người ta đồn đại rằng sống ngay trên kia sống núi là tộc người tuyết khổng lồ, người rậm lông trắng muốt như lũ trâu tuyết, thân cao lớn hơn cả một căn nhà, hét to như núi lở và hung ác thèm thuồng thịt người chẳng kém gì lũ quỷ đen cả.

    Nói cách khác, Đại Lục là một thế giới rộng lớn tù túng. Cuộc sống sẽ còn thoải mái khi đất còn rộng và người còn thưa. Nhưng đất thì chẳng thể rộng mãi và người sẽ còn sinh sôi nảy nở, con đàn cháu đống. Đây là cái cớ “chính đáng” của các vị vua.

    ~~~~~~

    Khi đoàn người vẫn ùn ùn kéo đi như đàn hươu sa mạc di cư tìm cỏ xanh nước mát, Constantan đã phái lính đi về hướng Tây để điều tra thực hư về lũ quỷ đen hung ác từ phương Tây. Những người lính phi ngựa về hướng Tây, vượt qua biên giới và tiến vào trong lãnh thổ Gardin. Họ chẳng tìm thấy một dấu hiệu gì về sự tồn tại của quỷ cả, ngoài sự đổ nát và hoang tàn. Những nơi trước kia từng là làng trấn nhộn nhịp đông người qua lại giờ đã trở thành một cõi hoang vu u ám. Nhà cửa bị thiêu rụi. Vách tường, nền đường vẫn còn bám vết máu khô. Của quý châu báu thì bị cướp sạch, kể cả cái chảo đồng nồi sắt cũng biến mất. Khắp nơi nặng mùi chết chóc, xương xám chất cao thành đống, của người lẫn cả thú vật, nhưng chẳng thấy một thi thể nào. Lúc họ trở về thì trời vẫn còn nắng.

    Có toán lính quyết định dựng trại lại qua đêm, định sáng mai sẽ tiến sâu hơn về hướng Tây. Sau đêm đót thì chẳng hề thấy lại bóng dáng họ nữa.

    Constantan bèn phái cả một quân đoàn năm ngàn lính, định bụng muốn làm rõ thực hư gốc gác của lũ quỷ. Nhà vua tin rằng câu trả lời phải nằm ở đâu đó sâu trong nơi rừng thiêng nước độc Tây Gardin. Đêm đó đoàn quân của ông ta dựng trại gần kinh thành Gardin. Sáng hôm cả quân đoàn biến mất như chưa hề có chuyện họ đến đây. Cả người lẫn ngựa! Tin đến tai vua Constantan như là tin sét đánh. Hằng đêm ông ta cứ mơ thấy ác mộng, ông mơ thấy một làn khói đen hắc ám sặc mùi tử khí từ sâu trong những cánh rừng âm u ma ám phương Tây bay tới phủ trùm lấy cả vương quốc Tarbas. Và khi làn khói quỷ ám tan biến lúc nắng lên, cả vương quốc biến mất ngay trước mắt nhà vua.

    Một tháng sau đó, cơn ác mộng của vua Constantan dần trở thành sự thật. Từ phương xa nơi biên thùy, nhiều quân đồn biên phòng chợt nhiên mất liên lạc với sở chỉ huy. Hàng ngàn lính biến mất. Dân làng trấn gần đó sợ hãi mà bỏ nhà bỏ ruộng chạy hết. Có người đi thật xa tìm đến họ hàng ở phía Đông, có người thì đến xin được trú thân ở các thành trì gần đó.

    Một tuần sau, thành trì lớn nhất ở miền Tây Tarbas là Mearodon bị quỷ tấn công. Nội thành Mearodon có hơn mười hai ngàn dân và tổng quân lực ba ngàn hai trăm lính. Lũ quỷ kéo tới vây kín thành ngay cái lúc người dân đang ngồi quây quần bên bữa ăn tối. Những người lính dũng cảm của Mearodon đã không thể cầm cự được cho tới lúc bình minh.

    Cái tin Mearodon thất thủ lan truyền nhanh như con gió. Nhiều thành trì, quân đồn liên tục thất thủ sau đó, kể cả khi đã được nhà vua cho gửi quân chi viện. Lũ quỷ hành quân như cơn lũ tức nước tràn đê, xuất hiện và biến mất nhanh như cơn giông tố âm u và tàn phá như một trận bão lốc cuồng nộ. Chẳng bao lâu thì chúng đã xuất hiện dưới chân thành Tarbas.

    Lúc đó trong thành chỉ còn hai vạn quân, vua Constantan liền gửi thư cầu cứu tới các vị vua kia. Nhưng ông e rằng kinh thành sẽ chẳng trụ được lâu trước sức mạnh vũ bão của quỷ. Thế nhưng kinh thành vẫn trụ vững được nhiều đêm như một phép màu thần kỳ. Đó không phải là phép màu. Đó là bởi vì kinh thành Tarbas là một thành trì kiên cố, bảo vệ bởi tới hai lớp tường dày. Và bởi Ramses, một vị tướng trẻ kiệt xuất đã đứng ra chỉ huy quân sĩ, điều binh khiển tướng. Bất chấp những lời dị nghị về tuổi tác, Ramses đã thể hiện tài năng như mà một thiên tài quân sự. Quân sĩ dưới trướng ông đã đẩy lùi được nhiều đợt tiến công của quỷ trong nhiều đêm.

    Ramses là phó tướng dưới trướng của Thống Chế Bình Tây, tướng Dwusniw. Tướng Dwusniw đã tử trận ngay trong đêm đầu tiên Tarbas giao chiến với quỷ. Ramses liền thay ông ta điều lệnh quân sĩ và đã đẩy lùi được bọn quỷ. Vua Constantan hết mực tín nhiệm Ramses, liền phong Ramses làm Thống Chế Tối Cao, đứng đầu ba quân.

    Trong cái đêm quyết định, lũ quỷ đã tập trung một lực lượng đông nhất, đến nỗi mặt đất như rung lên theo mỗi nhịp bước hành quân của chúng. Ramses tin rằng, như vậy thì chẳng dưới hai mươi vạn! Vua Constantan lúc này xuất hiện với bộ giáp vàng sáng bóng, nhưng sự xuất hiện của nhà vua thực ra chỉ mang ý nghĩa tinh thần mà thôi.

    Bốn vị vua dẫn đoàn viện quân tổng hơn mười vạn quân cũng đã tới kịp lúc tham chiến. Dường như các vị vua đã huy động lực lượng hùng mạnh nhất của mỗi vương quốc. Họ ý thức được rằng, nếu Tarbas thất thủ thì chẳng còn gì trên đời có thể chặn được bước tiến của đoàn quân quỷ cả, Đại Lục sẽ bị diệt vong.

    Từ những nôi xa xôi từ miền Đông, Nam, Bắc Tarbas, một lực lượng hơn sáu vạn lính được huy động từ thường dân cũng đã kịp tham gia vào đoàn quân của nhà vua Constantan.

    Trận đánh đó chính là trận quyết định sự tồn tại của con người ở trên cõi Đại Lục, ngày nay họ gọi đó là Trận Cổng Vàng. Trong năm cổng lớn ở bờ Tây thành Tarbas, có một cổng lớn nhất ở giữa. Trên vòm cổng được dát những lá vàng mỏng, ý nghĩa rằng sự giàu có thịnh vượng của Tarbas là tới từ hướng Tây. Cánh cổng đó có tên là Cổng Vàng.

    Hai bên dàn quân đối đầu nhau dưới chân thành, hừng hực và khí thế. Lũ quỷ ồ ạt xông lên tấn công trước. Liên quân các vua tuy đông và dũng mãnh, nhưng họ chiến đấu rời rạc, không theo ý lệnh thống nhất. Tệ nhất là chẳng vị vua nào lại muốn nghe lệnh từ người đồng cấp cả. Đó là cả một thảm họa đoàn kết. Liên quân chẳng mấy chốc thì bị đánh cho tan tác, đến nỗi các vị vua phải mạnh ai nấy chạy.

    Còn sáu vạn lính dân quân Tarbas chẳng khá gì hơn. Thường ngày họ chỉ là một đám nông dân chân lấm tay bùn, thợ thuyền tay búa tay dùi, thế nên ra trận thì tay chân lóng ngóng vụng về, thần kinh yếu kém, sĩ khí bốc hơi, vỡ trận bỏ chạy như chạy lũ.

    Liên quân phải chạy ngược trở lại vào trong thành. Bọn quỷ thừa thắng xông lên. Với số đông áp đảo, chúng phá sập Cổng Vàng mà chẳng mấy khó khăn rồi liền ồ ạt tràn vào trong thành. Ramses tài phép tới mấy cũng chẳng thể cầm chân được chúng. Trong lúc giao tranh hỗn loạn, vua Constantan bị chúng giết chết, biểu tượng (embodiment) quyền năng của Tarbas đã gục đổ và ý chí quân sĩ như tan biến thành khói bụi.

    Ngay lúc đó, từ trên trời cao các vị thánh có cánh lao xuống và đánh bay lũ quỷ, giải cứu liên quân khỏi thảm họa diệt vong. Sau đó, liên quân người cùng đi theo các vị thánh truy đuổi bọn quỷ tới tận nơi xa xăm nhất của phía Tây Đại Lục, dãy núi Cực Tây. Họ phát hiện dưới chân dãy núi có một hang động lớn, đó là nơi bọn quỷ chui ra. Họ gọi đó là Quỷ Môn Quan. Liên quan người và thần tiến vào hang để quyết tận diệt giống loài quỷ dữ. Trận giao tranh xảy ra sau đó được gọi là Trận Quỷ Môn Quan.

    ~~~~~~

    Đó là cả một trận thảm bại.

    -Musache ký trình-’

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Thật ra cái ý tưởng tị nạn này xuất hiện trước cả nội chiến Syria (khoảng 2009-2010)

    Truyện dài (đã hơn 130.000 chữ) nhưng chia chương thì ít (7 chương 250 trang). Thời gian tới tôi sẽ đăng một đoạn (5 trang) mỗi ngày. Để dành thời gian ném nhân vật vào biển lửa rồi nghĩ cách cứu hắn ra logic nhất có thể.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 26-10-2016 lúc 22:11.
    ---QC---


  2. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,kira,samki1998,
  3. #7
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 2: Bước chập chững của những kẻ kế thừa: chạy nhanh, ...

    Đoạn 2

    Sau Trận Quỷ Môn Quan, Ramses lên nắm triều chính ở cương vị tể tướng tối cao với sự ủng hộ tuyệt đối của giới tướng lĩnh. Khi đất nước vẫn còn đặt trong tình trạng chiến tranh thì giới tướng lĩnh hẳn có quyền lực hơn đám quan lại triều thần. Ramses đã rất khó khăn mới thuyết phục, kèm với cưỡng ép, đưa người dân trở lại miền Tây. Để cho người dân thêm phần an tâm, Ramses đã điều động sang hết miền Tây hầu hết các lực lượng biên phòng ở các phía Đông Nam Bắc giáp ranh với các nước khác. Đồng thời ông còn phái quân đi tái chiếm lại các thành trì quan trọng đã mất. Để cơ động hóa quân đội, Ramses cho lập nhiều quân đồn, tiểu đồn, với lực lượng thường trực lên tới một ngàn lính ở mỗi đồn, lân cận các thành trấn rải rác khắp cả vùng.

    Ramses gửi thư tới các vị vua, nói rằng:

    “...Giữa chúng ta chẳng có đường biên giới chung nào cả, nhưng lại có chung duy nhất một biên giới với giặc quỷ. Chúng ta phải cùng nhau bảo vệ đường biên giới đó như rằng các vị chẳng còn nơi nào để mà đi...”

    Đáp lại, các vị vua chẳng gửi tới một lính, bù lại thì họ tỏ ra chẳng màng gì đến một tất đất của Tarbas. Thay vào đó họ ráo riết cho phái lính đi thám hiểm tìm kiếm những vùng đất lạ, mở mang thế giới, tìm đường thoát khỏi cái nhà ngục khổng lồ Đại Lục.

    Tarbas như thế đã bị bỏ rơi. Nhưng đối với người có ý chí tự lực như Ramses thì chuyện này chẳng phải vấn đề. Ông vẫn theo đuổi mục tiêu quân phiệt hóa toàn bộ hệ thống triều chính, đưa các tướng lĩnh thân tín lên nắm các chức vụ trọng trách, cốt cán.

    Ở miền Tây Tarbas lúc bấy giờ, chỉ có nơi nào gần kinh thành Tarbas thì mới dám mọc lên làng mạc. Chứ xa hơn về phía Tây thì tuyệt nhiên chẳng một ai dám sống ở làng, họ chỉ dám sống tập trung ở các thị trấn lớn hoặc thành trì. Các thành trấn lớn nhỏ đều lính chính quy lẫn lính dự bị thường trực canh phòng, có tường thành dựng lên bảo vệ, không phải tường đá thì cũng được rào cọc gỗ.

    Khoảng cách giữa các địa phương và quân đồn không được quá mười lăm cây đá. Nếu xa hơn thì càng tốn thời gian để viện quân từ các đồn phi ngựa tới ứng cứu.

    Cũng từ trận chiến Quỷ Môn Quan trở về sau, phải nói là suốt ba thập kỉ sau đó, người ta không còn thấy quỷ đen ở quy mô cấp quân đoàn xuất hiện nữa. Họ nói quân đoàn chúng đi tới đâu thì cỏ nát tới đó, cây rừng cũng bị chúng đốn hạ, đồi gò cũng bị chúng san bằng để mà dọn đường trải bước. Mà như tuần binh hoặc du thám nhận thấy rõ ràng là cỏ đã mọc xanh mượt và cây rừng thì đâm chồi nảy lộc tươi tốt, mọc kín phủ luôn cả những phần đất đai canh tác màu mỡ mà xưa kia mà người nông dân đã phải từ bỏ để chạy giặc quỷ. Cũng phải một vùng rộng lớn màu mỡ mà Tarbas đã từ bỏ.

    Các địa phương dân sinh được tái lập dưới sự bảo an của quân đội. Phần lớn dân cư là người tị nạn gốc Halatan và Gardin. Hẳn là vậy rồi, Ramses chẳng có lý gì lại đẩy đồng bào mình ra nơi đầu sóng ngọn gió chịu nạn thay cho đám dân ăn hại, ăn nhờ ở đậu cả. Dẫu biết là có quân lính thường trực bảo vệ, đám dân ấy cứ về đêm là ngủ trong nơm nớp lo sợ, trời nóng nực mà vẫn phủ chăn kín đầu. Tuy chẳng còn ở mức độ quân đoàn, nhiều đêm bọn quỷ vẫn thường lao mình trong đêm tối vượt mặt các tuần binh, đồn canh, để đánh phá cướp bóc các làng trấn theo từng nhóm hàng chục tên, có khi lên đến hàng trăm tên. Khi có lính cứu viện tới thì chúng liền lẻn vào trong bóng tối biến mất.

    Đó là như thế, trừ Denfort.

    ~~~~~~

    Ngay sau trận Denfort là làn sóng di dân lần thứ hai. Lần này thì toàn là dân Tarbas nên Ramses chẳng thể đòi hỏi gì được ở các vị vua kia. Nimbus phải rỉ tai, nài nỉ hết lời thì Ramses mới chịu bỏ (abandon) thành Denfort, cũng như chấp nhận mất thêm một phần ba lãnh thổ miền Tây còn lại. Mearodon là cái giới hạn cuối cùng mà Ramses chấp nhận, biến thành Mearodon trở thành nơi đầu sóng ngọn gió của cả vương quốc.

    Ramses phải cho lính đi gia cố lại hệ thống phòng thủ của Mearodon và các thành trì, đồn trại lân cận. Đồng thời ông cũng cho dựng lên các tiểu trấn có tường rào chắc chắn làm nơi trú thân tạm thời cho đám dân tị nạn. Ông nhất quyết không thể để cho đám dân này tiến tới các vùng dân cư gần kinh thành, nếu không thì đám dân này sẽ châm ngòi cho một làn sóng hỗn loạn hoang mang khác mất.

    Nếu chừng ấy quân đồn chẳng thấm thía gì thì Ramses cho lập thêm nhiều đồn hơn. Ông ta áp lệnh cưỡng bách quân dịch, bắt bớ hết đám trai tráng mới lớn đi lính nghĩa vụ, nhét hết tất cả vào các quân đồn mới lập.

    Đám tù nhân từ giờ trở đi chẳng còn phải ăn rỗi nằm dài một chỗ nữa. Họ bị bắt lôi đi tới miền Tây, đưa tới các quân đồn hoặc thành trì. Tại đó họ bị bắt phải phục dịch cho đám lính lác, hoặc làm các công việc khổ sai, khuân đá vác gỗ, xây dựng, gia cố thành quách. Còn không nữa thì bị tống ra những cánh đồng bỏ hoang ở vùng biên hoang vu để cày cấy như là nông dân. Cứ thế cho tới khi mãn hạn tù rồi họ mới được thả về.

    Quân đồn cũng là trại huấn luyện thiếu sinh quân. Thiếu sinh quân là theo cách gọi của họ, nhưng nôm na có thể hiểu không khác gì lính trẻ con. Ban đầu kế hoạch là như thế, nhưng về sau Ramses lại đổi ý dồn hết đám trẻ về tổng doanh gần Tarbas. Bởi rằng chẳng may quỷ có mò tới thì đám lính trẻ con này là thứ vô dụng, có khi lại còn phí phạm con người, là mồi ngon cho quỷ. Chi bằng đem hết về nơi an toàn rồi nuôi dưỡng cho chúng cứng cáp hẳn lên rồi mới thả ra trận.

    “Trẻ con” được quân đội định nghĩa là người dưới hăm ba tuổi. Bởi thanh niên hai mươi ba sẽ phải thực hiện đi lính nghĩa vụ cưỡng bách và sẽ phải phục vụ quân đội cho tới ba lăm tuổi. Đứa trẻ dưới mười lăm tuổi sẽ được đào tạo kiến thức, văn hóa, nôm na là dạy chữ, dạy số, tư tưởng dân tộc, lòng trung thành với nhà vua, và học về các nghiên cứu của Nimbus - những nghiên cứu về khoa học quân sự và lũ quỷ đen.

    Trên mười lăm, lính trẻ con sẽ được đào tạo quân sự. Chúng sẽ được huấn luyện các nghi thức đội hình, đội nhóm, chiến thuật, di chuyển, dàn quân dàn trận, hành động theo điều lệnh. Hết giờ huấn luyện, chúng sẽ phải làm các công việc tạp vụ để phục dịch đám binh sĩ cơ chính như phụ bếp, giặt giũ, dọn dẹp vệ sinh lều trại, chuồng ngựa...

    Đứa trẻ trên mười tám sẽ bắt đầu được rèn luyện sử dụng vũ khí và cưỡi ngựa. Bốn thứ vũ khí cơ bản mà chúng phải thi triển nhuần nhuyễn là kiếm, giáo, cung và thuốc pháo hoa. Sau giờ quân trường, chúng còn phải buộc lao động sản xuất như người nông dân hay người thợ kĩ nghệ, và sản phẩm tạo ra là để cung cấp, phục vụ cho quân đội.

    Và khi đã là thanh niên hai mươi ba tuổi, chúng sẽ trải qua một quy trình xét duyệt thành tích huấn luyện và kĩ năng chiến đấu, để tuyển lọc ra các cá nhân xuất sắc để đi lên chương trình huấn luyện sĩ quan chỉ huy. Binh sĩ không phải gốc Tarbas thì không được phép xét duyệt. Cá nhân nào kém cỏi sau đó sẽ được chuyển tới các quân đồn ở phía Tây để chiến đấu ở vị trí binh sĩ thường trực. Năng lực càng kém thì càng bị chuyển đi xa. Các sĩ quan dự bị sau khóa huấn luyện, thường là ở tuổi hai bảy, sẽ chính thức được phong hàm sĩ quan chỉ huy. Buổi lễ sắc phong được tổ chức ngay tại kinh thành Tarbas, đích thân tể tướng Ramses chủ trì buổi lễ, sắc ban phù hiệu sĩ quan. Các sĩ quan sau này hoặc được chuyển tới quân đồn miền Tây để bổ nhiệm chức vụ chỉ huy tối thiểu với quân hàm đội trưởng (hoặc trưởng binh), chỉ huy một tiểu đội khoảng vài chục lính. Hoặc là được gia nhập vào đội cấm vệ quân tinh nhuệ và thiện chiến nhất vương quốc Tarbas, trung thành với tể tướng Ramses và thái tử Johan.

    Dù là binh lính hay sĩ quan thì phải tiếp tục phục vụ trong quân ngũ cho tới hết tuổi ba lăm. Lúc này họ hoặc lựa chọn tiếp tục phục vụ, hoặc là giải ngũ về làm thường dân lao động.

    ~~~~~~

    Cũng như nhiều đứa trẻ khác, Hadim và đứa bạn thân Vigor bị ép nhập ngũ ngay sau sự kiện Denfort, vì cha mẹ chúng đều chết hết cả. Sau rồi chúng được đưa về tổng doanh Tarbas. Riêng Bronn, vì hết lòng tận tụy bảo vệ thường dân và dũng cảm cầm gươm chiến đấu tới hơi thở cuối cùng, ngài và vợ con được đưa về thành Doumar, phía Tây Bắc Tarbas để tiếp tục phục vụ. Chính sách “nạn nhân chiến tranh” của tể tướng Ramses bắt buộc Hadim phải nhập ngũ, mặc cho Bronn đã yêu cầu xin được bảo lãnh.

    Sau hai thập niên, hai đứa trẻ đã trưởng thành, trở thành những chiến binh dũng mãnh và cao lớn, như chính cha của Hadim vậy. Cả hai đều ước mơ được đứng trong hàng ngũ tinh tú quân cấm vệ Tarbas, dù chỉ là một tên lính gác cổng thôi thì cũng đủ oai như cóc. Cũng chẳng có ít tên có cái suy nghĩ là quân cấm vệ là vị trí an toàn nhất cái xứ này! Bởi nếu có chiến tranh to xảy ra, thì cấm vệ quân luôn là lực lượng xông trận sau cùng. Nhiệm vụ chính của cấm vệ quân là bảo vệ kinh thành, hộ vệ nhà vua và mệnh quan triều đình, hoặc hộ tống các yếu nhân khi có công cán quan trọng phải rời thành.

    Tuy nhiên, trải qua nhiều đợt huấn luyện, thử thách gian khổ, khó khăn, mà kết quả thành tích đào tạo sĩ quan chỉ đạt loại kém thì chẳng có mảy may một cơ hội để ước mơ của hai thanh niên bọn họ thành hiện thực.

    Thế là cả hai bị tống ra tít tận nơi biên giới, nhập quân Đồn V, vị trí chếch hướng Tây Nam kinh thành. Hai người bọn họ tuy kém cỏi, nhưng vẫn có khối tên còn kém hơn. Nào là lính quèn lâu năm không được thăng chức, nông dân, thợ nghề, phạm nhân. Thậm chí là đám công tử bột nhà phú hào, quan lại cũng chẳng thoát quân dịch. Thế là Hadim được bổ nhiệm làm tiểu đội trưởng, tương đương sĩ quan ngũ phẩm, còn Vigor làm tiểu đội phó, sĩ quan lục phẩm.

    “Đúng là hay không bằng hên!” – Vigor vênh mặt.

    “Không sợ địch mạnh, chỉ sợ đồng đội quá ngu!” – Hadim thì chán nản thở dài.

    Tiểu đội của họ thuốc nhóm kỵ binh cơ động, nhiệm vụ của Hadim là tuần tra ven các cánh rừng để phát hiện các dấu hiệu xâm phạm của quỷ. Đồng thời cũng hành động như một đội phản ứng nhanh trong đêm khi có bất kì trường hợp tấn công thành trấn gần đó xảy ra.

    May cho Hadim là chỉ có những thành phần ưu tú nhất mới được cho vào đội kỵ mã. Nếu nói một cách tương đối, thì ở nơi biên cương toàn thành phần kém cỏi và họ thuộc diện ít kém cỏi nhất.

    ~~~~~~

    Vào một đêm nọ, Hadim nhận được lệnh điều quân cứu viện thị trấn Lav’din nằm ở phía Bắc, cách chỗ cậu chừng nửa giờ ngựa phi.

    “Vigor! Mau chuẩn bị đồ của mày, rồi đi tập hợp đội hình lại. Ta sẽ khởi hành trong năm phút nữa.” – Hadim vừa nói vừa kiểm tra kiếm, rồi tra kiếm vào vỏ.

    “Vâng thưa tướng quân!” – Vigor châm chọc, múa tay làm lễ.

    “Năm phút không xong tao cho mày đi hốt cứt ngựa mạt kiếp!”

    “Rồi rồi! Sợ lắm!” – Vigor tiếp tục châm chọc.

    Hadim không nói gì, nhe răng trợn mắt hung tợn về phía Vigor.

    “Hadim!” – Eleana gọi tên Hadim và bước vào phòng, vẻ lo âu. – “Chàng lại sắp đi sao? Lại có chuyện gì vậy?”

    Eleana là người con gái của Hadim. Nàng ta cùng với Vigor là những bạn thơ ấu của Hadim, lúc còn ở Denfort. Dù là con gái, nhưng Eleana vẫn nằm trong diện được nuôi dưỡng của quân đội. Nhưng các bé gái như nàng sẽ không làm lính, thay vào đó sẽ là làm việc ở đội hậu cần. Những cô gái trong đội hậu cần sau này sẽ được gả cưới cho sĩ quan. Theo cách nói của các bô lão, thì đây là cách đem âm khí như mưa phùn tới kiềm hãm cái dương khí đang thịnh, bốc lên ngùn ngụt đen kịt như cháy rừng. Như dân Aldanine có câu: đàn ông cần đàn bà như kiếm cần vỏ, như thế mới không gây đổ máu khắp nơi.

    Quân đồn không chỉ là nơi thuần để quân đội đóng quân, nó còn là nơi định cư của số ít thường dân. Ramses chẳng muốn để phí một tấc đất nào ở miền Tây cả. Ngoài ra binh sĩ cũng cần người phục vụ hậu cần, chứ đám lính trẻ con bị gọi về hết kinh thành rồi còn đâu. Binh sĩ có thể sẽ cưới vợ là dân trong đồn và định cư hẳn ở đấy. Ràng buộc này buộc binh sĩ sẽ phải chiến đấu gan góc, lì lợm hơn để bảo vệ tổ ấm bé nhỏ của mình.

    “Không sao đâu, em yêu! Cũng mấy vụ vặt vãnh như cơm bữa thôi!” – Hadim vẻ tự tin.

    “Phải! Phi ngựa tới đá đít đám xấu xa, nghe dân làng ca tụng, rồi phi ngựa về nghe cấp trên khen ngợi. Chán lắm!” – Vigor hùa vào.

    Eleana trừng mắt nhìn Vigor thì cậu ta chỉ nhún vai, lảng mặt đi.

    “Em không biết! Mỗi lần như vậy là em rất lo cho chàng, chàng có biết không?” – Eleana nhìn Hadim với đôi mắt ướt át.

    “Anh biết! Ngày vui đang sắp tới gần và nàng sắp sửa trở thành một cô dâu nhỏ xinh.” – Hadim đưa tay vén một bên mái tóc của Eleana rồi nâng cằm nàng lên. – “Nhưng đêm nay anh vẫn phải làm nhiệm vụ, phải tiêu diệt đám xấu xa và bảo vệ lương dân vô tội.” – Nói rồi Hadim kề môi hôn Eleana.

    “Ôi đấng tối cao! Tôi lên cơn đau tim mất!” – Vigor chắp tay cầu nguyện, mắt trợn lên trời, rồi phẩy tay đi ra. – “Các vị có năm phút thôi đấy!”

    ~~~~~~

    ‘Finnler nói: đó là món quà của thượng đế ban cho loài người.

    Ta hỏi: để làm gì?

    Finnler nói: để loài người biết được rằng trên đời có thượng đế và hãy tôn thờ ngài.

    Ta hỏi: tại sao chúng ta cần phải có thượng đế?

    Finnler nói: ta cần ngài dẫn dắt và soi lối đi, vượt qua cạm bẫy cám dỗ, để tránh sa vào tội lỗi, để tới được miền đất bình yên và công lý ngự trị.

    Ta hỏi: ta đã làm gì sai?

    Finnler: tham lam, ích kỉ, giận dữ, chiến tranh, thù hận. Tội lỗi sao kể xiết?

    Ta hỏi: liệu đó có phải là lẽ hiển nhiên, là quy luật ngàn đời của tự nhiên?

    Finnler đáp: là lẽ hiển nhiên của thiên nhiên, của hoang dã, của mọi rợ. Ngài chọn con người để phá vỡ vòng lẩn quẩn thiên sinh hèn mọn. Để dạy con người cách kiến tạo nên vương quốc thần thánh.

    Ta hỏi: chẳng phải ta đang sống trong nền văn minh tiến bộ?

    Finnler đáp: nhưng không có công bằng, bình đẳng, lòng bác ái nhân đạo, đoàn kết yêu thương. Những đứa trẻ hy vọng của ngài chỉ mãi chinh chiến liên miên để chứng tỏ rằng, chỉ riêng một đứa là xứng đáng được ngài yêu thương. Đó không phải là điều ngài trông đợi ở ta. Hãy nhớ, ngài luôn yêu thương con ngài kể cả khi chúng lầm lỡ, miễn là chúng biết hối lỗi, hứa sửa sai.

    Ta hỏi: nếu ta không quy phục và nhận lỗi trước thượng đế, liệu ngài sẽ làm gì?

    Finnler: một đứa trẻ ngỗ ngược không biết vâng lời, cần phải bị phạt, nặng. Cho tới khi nó nhận ra sai lầm của mình.

    Chẳng bao lâu đó thì quỷ đen tràn đến.

    Ta hỏi: chúng từ đâu đến?

    Finnler đáp: đó là hình phạt của ngài giáng xuống tội lỗi của người. Ngài đã hết kiên nhẫn.

    Ta hỏi: mọi hình phạt đều có giới hạn, nếu không có giới hạn thì khác gì là hành quyết? Nó phải có điểm dừng?

    Finnler đáp: ngài vẫn luôn từ bi và cao cả, chờ đợi cho những đứa trẻ lầm lỡ biết quay đầu là bờ.

    Nơi Cổng Vàng, liên minh cuối cùng của loài người được thành lập, là nỗ lực cuối cùng của loài người đứng lên chống lại quỷ dữ để dành quyền được tồn tại. Liên minh đã thất bại, đức vua Constantan tử trận. Rồi sau đó, quân Cánh Trắng từ bầu trời xuất hiện, đánh đuổi quân quỷ.

    Ta hỏi: điều này làm sao có thể?

    Finnler đáp: ngài đã trông thấu và lắng nghe. Ngài hài lòng khi thấy những đứa con của ngài cuối cùng đã biết yêu thương và đoàn kết. Ngài với quyền năng tối thượng đã tha lỗi cho chúng ta.

    Ta hỏi: nếu chúa thượng đã xuất hiện và xá tội cho ta, thì, món quà tạo nên nhà thống trị của ngài giờ là để làm gì?

    Finnler đáp: để tặng cho người xứng đáng để thống trị, người sẽ cai trị vương quốc thần thánh nhân danh ngài.

    Ta hỏi: tại sao thần không đích thân cai trị thế giới này?

    Finnler đáp: những đứa trẻ rồi sẽ trưởng thành, sẽ phải tự đứng vững được trên đôi chân mà không cần ngài phải dìu dắt.

    Ta hỏi: trẻ con đánh nhau, người lớn chém giết. Luôn phải có xung khắc, điều này sao né tránh?

    Finnler đáp: trẻ con giải quyết xung khắc bằng nắm đấm, người lớn giải quyết xung khắc bằng lý lẽ và trí tuệ. Hãy xứng đáng với di sản mà ngài để lại.

    Ta hỏi: hiện thân của ngài sẽ dùng lý lẽ và điều sâu sắc để đánh đuổi lũ quỷ chứ?

    Ta không nhận được câu trả lời.

    Ta không tin Finnler. Hắn không phải là người duy nhất từng lắng nghe giọng nói của thần. Còn có Thầy. Thầy cũng không tin ở thần, Thầy tin ở một vị thần “khác”, khác biệt với Cánh Trắng.

    Thần là ai? Món quà là gì? Nhà thống trị là ai? Ta đợi ở Thầy và công chúa Zahra.

    Ta không đơn độc bất tín. Ta có ngài Ramses, người trở về từ địa ngục với máu của thần dính trên mặt.

    -Nimbus ký trình-’

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 09-11-2016 lúc 22:14.

  4. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,kira,samki1998,
  5. #8
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 2: Bước chập chững của những kẻ kế thừa: chạy nhanh, ...

    Đoạn 3

    Đội kỵ mã năm mươi người được trang bị đầy đủ trên đường thi hành nhiệm vụ. Họ mặc giáp sắt, đội mũ sắt, giắt kiếm bên hông, đeo khiên trên lưng, giắt bên lưng ngựa là cung tên hoặc mũi lao. Một số binh sĩ được giao nhiệm vụ mang thuốc pháo hoa. Họ phi tới Lav’din trên một con đường mòn thẳng, băng qua những những đồng cỏ rộng lớn, nhiều con suối nhỏ róc rách, và hơn hết là xuyên qua màn đêm tối tăm luôn mang lại cảm giác bất an lo sợ, cho dù đây chẳng phải lần đầu họ xung trận trong đêm.

    Con đường mà họ đi qua từng có cả một mảng rừng lớn, nhưng bởi vì lo ngại cánh rừng sẽ biến thành nơi lũ quỷ lợi dụng để mai phục nên họ đã đốn sạch đi, để lại một bãi đất trơ trụi chỉ có cỏ dại mọc hoang. Những vùng trống này trong tương lai sẽ có một cái trấn nào đó mọc lên. Còn một lí do khác để họ đốn cây hiển nhiên hơn cả là tạo ra một con đường ngắn nhất, thẳng tắp một đường nối giữa các địa phương và quân đồn.

    Một sự ưu ái tuyệt vời nữa của đấng kiến tạo dành cho con người nơi đây chính là địa hình bằng phẳng của miền Tây. Nhờ thế mà có đốt lửa truyền tin trên tháp cao ở địa phương này thì địa phương kế cận sẽ nhận thấy ngay, nếu mà xưa kia cây rừng thân cao tán rộng còn bám rễ ở đó thì chẳng thể thấy được gì cả. Mà cũng có khi sự ưu ái đó lại thành ra lời nguyền độc địa, người ta cho rằng lũ quỷ đen nhờ vào địa hình bằng phẳng mà có thể tiến quân thần tốc tấn công rồi lại rút lui chỉ trong mười hai giờ của một đêm.

    Hadim oai vệ dẫn đầu đoàn, cầm đuốc định hướng cho cả đội theo sau. Nếu mà có ý định dùng đuốc soi đường soi lối thì rõ ràng chẳng có tác dụng gì cả. Khi có sự cấp bách, họ phải phi gấp, như thế dù có chợt phát hiện gì bất thường, như tảng đá hay gốc cây ngáng đường chẳng hạn, thì khó mà phản ứng tránh kịp. Mà thực tế thì sẵn đường mòn họ cứ phi, những con lộ mà họ phi tới phi lui đủ nhiều để thông thuộc hết đoạn nào có dốc, có trũng, có suối. Thành ra ánh đuốc chỉ có tác dụng định hình đội hình và định hướng, nhóm chụm vài người thì sẽ có một người cầm đuốc. Ngoài ra cầm đuốc là để có sẵn lửa, châm pháo sáng rồi ném tứ tung nếu họ có lọt vào ổ mai phục bất ngờ giữa đường của quỷ.

    “Hadim!” – Vigor phi ngựa song song gần kề Hadim và gọi. Chàng ta chợt nhận thấy bạn mình tối nay có điều gì đó không bình thường như mọi đêm hành quân trước.

    Hadim gương mặt đăm chiêu, không nói gì, chỉ đưa mắt qua Vigor rồi nhanh chóng nhìn thẳng lại phía trước, tỏ ý “ta đang nghe đây!”

    “Mày ổn chứ? Đang nghĩ ngợi gì vậy?” – Vigor hỏi.

    “Sao tự dưng mày lại hỏi vậy?”

    “Trên đời này chỉ còn hai người là hiểu con người mày thôi. Là về ngày cưới à?” – Vigor đoán.

    Hadim chợt nhướng mày, mắt vẫn nhìn thẳng, rồi chẳng đáp mà hỏi lại. – “Mày có tin vào thần thánh không?”

    “Ta không chắc lắm. Mà sao?”

    “Ta chỉ tự hỏi sao họ không giúp chúng ta bảo vệ người dân? Họ không phải đấng thánh thần của chúng ta sao?”

    “Họ mà làm thế thì chúng ta thất nghiệp mất.” – Vigor đùa cợt.

    “Và nàng sẽ không phải lo lắng vì ta nữa.” – Hadim nhìn qua Vigor, miệng cười mỉm.

    “Phải phải!” – Vigor gật gù.

    Im lặng một hồi lâu, Hadim nói thêm. – “Và ông cụ giờ vẫn còn sống và chúc phúc cho hôn lễ của bọn ta.”

    Vigor im lặng một hồi lâu rồi đáp. – “Cả cha mẹ ta nữa!”

    Mỗi người bọn họ giữ lấy một tâm trạng chung và để câu chuyện của họ đi vào im lặng.

    ~~~Lav’din~~~
    Lav’din là một thị trấn lớn, dân số độ ba ngàn nhưng chỉ có khoảng hơn ba trăm lính canh, mà đa phần không phải là lực lượng cơ chính (cách gọi khác của lính chính quy thường trực) mà là lính vệ phụ (hay lính theo diện nghĩa vụ) của địa phương.

    Lính vệ phụ là trai tráng khắp cả vương quốc bị bắt đi làm nghĩa vụ quân sự. Gọi là tham gia chiến đấu, nhưng thực tế cứ ba ngày thì chỉ có hai ngày tham gia rèn luyện chiến đấu, ngày còn lại thì bị tống ra ruộng, ra rừng, ra hầm mỏ, cứ thế cho tới mãn hạn ba lăm. Khi mới nhập trại, lính vệ phụ sẽ mặc định mang hàm nhị binh, tức làm hàm thấp nhất trong quân đội.

    Lính cơ chính thì hoặc là trai tự giác xung quân, hoặc là trẻ mồ côi theo diện chính sách “nạn nhân chiến tranh”. Lính cơ chính phải phục vụ và chiến đấu suốt cả năm; được cấp hưởng cao hơn lính vệ phụ, được ưu tiên quân trang, quân lương hoặc thuốc men; sẽ được xét thăng hàm sĩ quan nếu đã chiến đấu cơ chính ít nhất năm năm; hàm thấp nhất là nhất binh, cao hơn nhị binh. Như vậy thì có nghĩa là lính trẻ con có hàm cao hơn cả một trai tráng đi lính phụ vệ và không có nghĩa vụ phải phục vụ lính phụ vệ.

    Dựng bao quanh trấn là một bờ thành dựng bằng cọc gỗ vót nhọn và đá tảng, cao gấp ba lần một người đàn ông. Phía sau bờ thành là những tháp canh dựng bằng gỗ, mà tháp không cao lắm, khi mà có cao tới mấy thì cũng chẳng thể nhìn thấy được gì xa trong đêm tối. Vai trò của tháp chủ yếu là hỗ trợ cung thủ, hoặc giúp lính canh có cái nhìn bao quát ngay sát tường thành khi có chiến trận.

    Nếu có cần một ngọn tháp cao thật cao thì hẳn đó phải là tháp truyền tin, hay tháp lửa, tùy cách gọi của người dân. Tháp truyền tin thường đặt ở trung tâm địa phương, thường là xây kết hợp với tòa nhà của trưởng quan địa phương. Vì có vai trò tối quan trọng mà tháp được ưu tiên xây kiên cố bằng đá và vữa. Khi có giao chiến cần cứu viện, củi khô được chất đống trên tháp sẽ được nhóm lửa. Các bô lão thông thái cũng quả quyết rằng, trong đêm tối kẻ tinh mắt nhất có thể nhìn thấy một ngọn lửa nhỏ đang nhảy múa ở khoảng cách xa tới năm mươi cây đá.

    Đoàn người ngựa của Hadim đã tiến tới gần thị trấn Lav’din. Lúc này bọn quỷ đã phá được cổng và tràn vào trong trấn. Người dân buộc phải nhốt mình trong các tòa nhà to lớn được xây dựng bằng gạch và đá kiên cố. Cửa tòa nhà được gia cố, chằng chống tạm bợ bằng một mớ vật nặng và thanh chống. Trên các nẻo hẻm, lối đi lát gạch, lính canh đã dựng nên các rào chắn bằng cọc gỗ vót nhọn và giương khiên sắt giáo nhọn ra cố thủ. Nhưng rồi bọn quỷ hung hãn với số đông áp đảo lên đến hàng trăm tên dễ dàng công phá vượt qua.

    Tình hình còn nguy ngập hơn cả thế. Lũ quỷ đã bao vây các tòa nhà nhốt chật người và điên cuồng đập phá cửa ầm ầm. Không ai biết được là cánh cửa sẽ chịu đựng được bao lâu nữa. Chúng còn leo lên trên mái nhà, dùng vũ khí đập phá lớp mái ngói bằng đất nung giòn tan hòng tìm cách chui tọt xuống qua mái nhà. Một số tên ranh ma toan đột nhập vào nhà qua đường ống khói. Nhưng người ta đã quen đề phòng, hễ nhà nào có ống khói thì phải nhanh chóng nhóm củi lửa. Những tên đần độn nào chẳng kịp để ý khói lửa đang bốc lên mà lao mình xuống sẽ bị thui bỏng ngay tức khắc.

    Lối đột nhập dễ dàng nhất hẳn là cửa sổ. Nhà nào khá giả thì mới sắm sửa được cửa sổ bằng sắt thép cứng chắc, an toàn. Cửa sổ mà bằng gỗ thì chỉ vài nhát bổ rìu là vỡ nát. Mấy tên quỷ phá cửa xong thì liền chui vào. Từ trong nhà, những người nông dân dũng cảm liền cầm ba chĩa xông tới đâm chúng. Chúng tức tối liền dùng nỏ đáp trả lại, bắn bừa vào giết chết không biết bao nhiêu người.

    Khi tới gần bờ tường, Hadim giơ cánh tay trái lên ra hiệu tách đôi đoàn ngựa. Đoàn của Hadim rẽ hướng sang bên trái, đoàn của Vigor rẽ sang bên phải, dự sẽ bao vây thị trấn. Năm kỵ binh từ mỗi cánh tách riêng ra và chạy vòng vòng quanh thành trấn để cảnh giới, luôn tay rải đều các quả pháo sáng xung quanh bờ tường. Bốn mươi kỵ binh còn lại từ hai hướng Đông, Tây xông vào trấn.

    Hadim thúc ngựa tiên phong, phi nước đại húc thẳng vào bọn quỷ làm chúng ngã văng ra đất, có tên văng vào tường rồi lại bật ra như một trái bóng hơi. Hadim vừa cưỡi ngựa vừa giương cung tên bắn vào những con quỷ ở xa và những con quỷ đang đứng trên mái nhà giương cung. Những mũi tên bay vun vút đâm thẳng vào cổ chúng, làm chúng gào lên đau đớn rồi trượt ngã lăn khỏi mái nhà, rơi xuống đất, đè lên lũ đồng bọn. Các kỵ binh vác giáo dài liền dùng giáo như mũi lao, phóng thẳng vào người quỷ. Mũi lao sắc nhọn được tiếp thêm uy lực từ sức phi của ngựa, bay đâm xuyên qua cả giáp sắt của chúng, cắm phập, ghim cả người chúng vào tường, vào nền đất.

    Một số kỵ binh có nhiệm vụ kiểm soát tháp canh. Họ giương cung bắn chết lũ quỷ trên tháp, rồi trèo lên. Từ trên tháp họ có thể quan sát tình hình, để sớm cảnh báo cho đồng đội, phòng ngừa liệu lũ quỷ có thể có đồng bọn tiếp viện từ bên ngoài. Không những thế, từ trên tháp họ còn có thể giương cung bắn những tên quỷ đang ở trên mái nhà, hoặc bắn yểm trợ cho đồng đội.

    Khi đã bắn hết cung tên rồi thì Hadim và các kỵ binh liền tuốt kiếm, kết hợp với tốc độ phi của ngựa mà bổ xuống những nhát chém uy lực làm cắt lìa cả đầu yêu tinh.

    Bầy quỷ bị vây đánh từ các phía, không trở tay được, tan tác cả đội hình phải tháo chạy. Một số con quỷ bị vây dồn vào chân tường, không có lối thoát liền buông vũ khí chịu trói xin hàng. Mười kỵ binh cảnh giới đợi sẵn bên ngoài, nhanh tay giương cung bắn hạ được thêm nhiều tên quỷ đang tháo chạy thục mạng vào trong bóng tối. Sau cùng họ thông báo rằng là không thấy bất kì dấu hiệu của một cuộc bố ráp hay phản công nào từ bên ngoài.

    Khoảng hai tá quỷ đen bị bắt sống, trói ngược tay ra sau, bị dồn lại ở khoảng sân rộng trước tòa nhà trưởng trấn. Vigor, tay chắp sau lưng, đi đi lại lại trước đám yêu tinh bị trói, như rằng đang tính xem sẽ làm gì với lũ tù binh này sao cho đáng công. Hadim sau một hồi rảo ngựa quanh một vòng toàn trấn để nắm bắt tình hình thiệt hại, thương vong thì trở lại chỗ Vigor.

    “Mày còn nguyên vẹn nhỉ? Cô dâu tương lai lại lo xa nữa rồi.” – Vigor châm chọc.

    Hadim không nói gì, cau mày lườm Vigor. Vigor thấy vậy chợt hiểu mà hỏi. – “Báo cáo thiệt hại như thế nào?”

    “Chết, bị thương, mất tích, nhiều lắm! Con số vẫn chưa là cuối cùng, nó sẽ còn tăng lên nữa!” – Hadim càng nói thì ánh mắt càng lộ vẻ phẫn nộ.

    “Vậy xử lí với chúng sao đây cho thỏa cơn giận của mày?” – Vigor trỏ tay, nhìn bọn yêu tinh bị trói.

    “Tra xét xem tên nào có thông tin cung cấp thì giữ lại, không biết hoặc không nói thì hành quyết!” – Hadim giọng đanh thép, đảo mắt chợt nhìn thấy một tên trong số đám quỷ nhìn mình với ánh mắt hung tợn, liền hỏi. – “Ngươi! Là ngươi! Có nói được tiếng người không?”

    “Là có!” – Con quỷ đáp không ngần ngại.

    “Tại sao chúng bay vẫn cứ tấn công bọn ta? Vì mục đích gì? Lợi ích gì? Ta đã đánh cả trăm trận như thế này, giết không dưới ngàn tên. Thế nhưng ta thấy chúng bay vẫn không lấy đó làm bài học mà thôi ý nghĩ tấn công bọn ta. Là vì lí do gì hả?”

    Con quỷ cười khục khặc. – “Ngươi ngông cuồng, do mi chưa giáp mặt một ngàn quân Kwi.”

    ‘Kwi?’ – “Vậy sao?” – Hadim nghênh mặt. – “Thế bọn chúng đang ở đâu mà lại để các ngươi trở thành đám giặc cỏ ăn hại thế này?”

    “Mi là chỉ huy. Mi có lính. Lính tuân lệnh ngươi. Ta là tay chân. Ta có chúa tể. Ta tuân lệnh. Ngài phái ngàn tên, bọn ta sẽ ngàn tên. Ngài phái trăm tên, bọn ta sẽ trăm!” – Mắt hắn trừng trừng, không tỏ vẻ sợ hãi.

    “Vậy chỉ huy của ngươi là ai? Hắn có ở đây không? Có lẽ nào hắn đã chết, hoặc bỏ các ngươi lại mà tháo chạy? Có khi nào hắn là kẻ chạy nhanh nhất không hả?” – Hadim nhạo báng.

    “Ngài thân là chỉ huy. Ngài còn nhiều trọng trách lớn. Mi không có tư cách để ngài đến.”

    “Ta thì thấy hắn là loại hèn nhát chỉ biết đứng nấp sau lưng lính lác các ngươi. Có loại thủ lĩnh nào lại như vậy? Ta thực tình muốn đá đít hắn.” – Hadim hất hàm, còn Vigor thì bặm môi cười khục khịch. – “Nhưng làm sao mà ta có thể làm được khi mà hắn cứ giấu đít ở cái xó xỉnh hôi thối tối tăm nào đó?”

    “Mạng mi lớn vì ngài không giá lâm! Nhưng ngài sẽ tìm mi, kẻ ngông cuồng. Hãy xưng tên đi!” – Con quỷ lớn tiếng.

    “Ta là Hadim, con trai của Maxim, chỉ huy quân đội kỵ binh cơ động số Hai, Đồn V. Ngươi hãy nhớ cho rõ, thủ lĩnh của các ngươi ít nhất phải biết tên của kẻ đã chặt đầu hắn.” – Hadim tuốt kiếm giương ra điểm vào trán con quỷ – “Mà có thể là ta sẽ chẳng bao giờ thấy hắn tìm ta.” – Hadim cười nhạo.

    “Ta ngửi mi. Ta sẽ ngửi thấy mi. Ta sẽ tìm thấy mi. Đừng trốn, vô ích!” – Con quỷ đe dọa, đưa mũi lên ngửi lên đánh hơi khịt khịt. – “Mi sẽ thấy thủ lĩnh. Mi sẽ thấy ngài ăn thịt mi.”

    “Thả hắn ra!” – Hadim lệnh cho binh sĩ. – “Ta sẽ để cho ngươi sống để trở về nói với chúa tể của ngươi rằng, ta sẽ tìm và chặt cái đầu xấu xí của hắn, hắn cứ việc trốn ở cái xó tối tăm nào đó. Còn nếu hắn muốn tìm ta, ta vẫn sẵn lòng chặt đầu hắn.”

    Con quỷ vừa bỏ chạy vừa ngoái đầu lại, như nó muốn ghi nhớ cho thật rõ gương mặt cuồng ngạo của Hadim, cho tới khi hắn biến mất hẳn vào trong bóng tối. Tất cả những con quỷ tù binh còn lại đều bị áp giải về đồn để thẩm tra.

    “Thưa ngài! Ngài có nghĩ là tên yêu tinh kia nói liều để tìm cách thoát thân không?” – Vigor hỏi Hadim.

    “Mày chỉ nghe bằng tai mà không nhìn bằng mắt. Ánh mắt của hắn như rằng muốn ăn tươi nuốt sống ta vậy. Hắn sẽ quay trở lại, thằng trùm nhà hắn cũng vác đít theo sau ấy mà.” – Hadim đáp tự tin.

    “Thế chúng nó kéo theo cả bầy ngàn tên thật thì sao?” – Vigor vẻ nghi ngờ.

    “Hàng ế cả lố để làm cho phí.” – Hadim ám chỉ thuốc pháo hoa.

    “Đừng để bị mất đầu đấy!”

    “Chặt đầu nó xong thì ta chặt đầu mày.” – Nói rồi Hadim quay lưng leo lên ngựa.

    “Đội trưởng khoan đã! Sao ngài lại thể sinh vật hung ác đó đi? Ngài làm vậy liệu có phải với dân làng đã vong mạng dưới tay bọn chúng không?” – Viên trưởng trấn già khọm lưng còng la lớn, chống gậy từ xa tiến lại gần.

    Một đám đông người dân theo sau lão, khí sắc giận dữ bốc lên ngùn ngụt, mắt trừng như có lửa, tay cầm đuốc tay cầm các loại búa, liềm, rìu, đinh ba, ... Toàn công cụ lao động cả.

    “Chúng tôi rất tiếc khi đã chậm trễ, nhưng cả đội đã nhanh hết sức ngựa rồi. Xin đừng trách móc.” – Hadim vẻ làm tiếc.

    “Chúng ta nào dám trách, chúng ta còn rất biết ơn các vị. Nhưng ngài phải biết là việc để con quỷ hung ác ấy thoát là không chấp nhận được. Nó đáng ra phải bị trừng trị cho thích đáng vì những tội lỗi nó gây ra. Không những thế, nhỡ đâu nó mang thù hận mà kéo theo đồng bọn quay lại thì sao? Chỉ trong một năm qua mà thị trấn hiền hòa này đã bốn lần bị đe dọa, trăm người đã chết, nhà cửa vừa xây cất thì bị đốt phá, ai mà biết được hoa màu ngoài kia còn bị chúng giẫm nát thế nào cho vừa!” – Viên trưởng trấn vẻ phẫn nộ, dư dư cây gậy.

    “Tại sao lại bắt chúng ta về cái nơi nguy hiểm này trong khi quân lính các người lại không bảo vệ được bọn ta?” – Một người dân khác la lên chỉ trích, đám đông đồng tình liền hùa theo la ó.

    “Ngài thấy rồi đấy,” – Viên trưởng trấn nói tiếp – “dân trấn đang rất bất an. Không khéo từng người trong số họ sẽ tìm cách để mà trốn về miền Đông lại mất. Đã nhiều lần ta đề nghị cấp thêm quân phòng cho trấn đấy, nhưng chúng ta nào nhận được gì nhiều. Bọn ta từng có lúc cân nhắc định mua cho bằng được thứ bảo bối phát sáng đó của các vị với cái giá nào. Nhưng các vị lại từ chối không bán. Vậy chúng ta phải làm sao để mà sống an lành đây?”

    “Thứ đó rất đắt và chỉ được ưu tiên cho quân đội.” – Hadim ngắt lời.

    “Vậy thì làm sao để chúng ta, dân chúng trong trấn cảm thấy được an toàn đây? Đây, trước mặt mọi người, ngài đội trưởng hãy nói cho họ được biết, để họ thôi băn khoăn.” – Trưởng trấn chỉ tay về phía đám đông đang vây xung quanh.

    Hadim nhìn quanh đám đông một lượt, nuốt nước bọt, liếm môi để cân nhắc cẩn thận những lời mình sẽ nói, hoặc là sẽ xoa dịu được sự bất bình của đám đông, hoặc là châm ngòi cho làn sóng di cư lần ba. Trong chốc lát, chàng không ngờ tới hành động phóng thích con quỷ lại làm cho tình hình căng thẳng như lúc này. – “Các vị phải biết là trấn ta đâu phải là mục tiêu duy nhất của bọn chúng.”

    Chợt trong đám đông rộn lên tiếng xì xầm. – “Nếu thật như thế thì ở khắp miền Tây này chỗ nào cũng nguy hiểm cả. Ôi thật khủng khiếp!” – Và như thế nỗi hoang mang lại bùng lên trong đám đông.

    “Như thế là quân đội phải trải đều binh lính ở khắp biên giới. Mọi người ai cũng yêu cầu thêm lính canh nhưng có mấy ai chịu làm lính. Trước, trấn này có hơn ba trăm lính, nhưng bọn quỷ chỉ hơn trăm tên, vậy mà lại để cho bọn quỷ thừa sức tràn vào. Bọn ta chỉ năm mươi người nhưng đánh bọn chúng tan tác. Đó không phải là vì thiếu lính mà là do chính các vị không chịu ai làm lính cả. Nếu mọi người sợ phải chạm trán với kẻ thù thì kẻ thù sẽ lại tìm đến. Có công đuổi sói thì mới có thịt cừu để ăn! Sẵn tiện tôi xin nói luôn là sẽ đưa tám đứa trẻ mồ côi về quân đồn. Nếu các vị cần lính, bọn ta sẽ cho các vị lính!” – Hadim giọng đanh thép, mặt cương nghị.

    Đám đông im lặng trước lý lẽ của đội trưởng, kể cả viên trưởng trấn. Bởi lẽ chính họ cũng đã từng nghĩ việc đi lính là điều hết sức khủng khiếp, phải đối mặt với đám quỷ hung bạo hiếu chiến. Đám thanh niên sợ hãi khi thấy bị gọi phải đi lính, bậc hương thân phụ lão thì lo sốt vó khi thấy con cái mình tới tuổi nghĩa vụ. Nhưng không họ lại không nghĩ tới điều Hadim đã nói, rằng quân đội sẽ giúp họ trở nên mạnh mẽ hơn và gan dạ hơn nhiều, bản thân mỗi người sẽ là một chiến binh diệt quỷ nếu được truy rèn qua khó khăn, thử thách của nhà binh.

    “Đội trưởng nói đúng đấy!” – Một người đàn ông đứng tuổi thân hình vạm vỡ từ trong đám đông bước ra, trên tay là một cây giáo nhọn hoắc. – “Tôi là lính giải ngũ. Lúc nãy còn trú thân trong nhà ông phú Bonja, tôi đã dùng cây giáo mang về từ quân trại để phòng thân. Giờ đem ra để đâm bất cứ tên quỷ nào dám liều lĩnh lao mình qua cửa sổ, còn đâm xiên luôn cả những tên khôn lỏi định xâm nhập qua ống khói lò. Bọn chúng bắn tên thì tôi lật bàn gỗ ra làm lá chắn. Tôi đã bảo vệ được gia đình mình. Tôi tự hào về điều đó!”

    Đám đông hò lên kinh ngạc, một số ánh mắt ngưỡng mộ. Hadim quay lưng leo lên ngựa rồi nói với người đàn ông mang giáo, – “Rất biết ơn bác đã nói lời công bằng.” – Rồi quay sang nhìn viên trưởng trấn, nói. – “Trước mắt, đội sẽ canh giữ thị trấn trong đêm nay, phòng như ngài đã nói là chúng sẽ quay lại trả thù. Sáng mai, đội sẽ phải quay về đồn cùng với những đứa trẻ và đám tù binh này.” – Hadim trỏ tay về phía về đám quỷ đang bị trói quỳ.

    Một người đàn ông giận dữ lên tiếng. – “Không được! Ông đã để một tên chạy đi thì ông phải để đám này lại! Ta phải giết hết chúng nó! Ta phải băm vằm chúng nó ra cho hả giận! Biết bao người thân thích của ta đã bị chúng sát hại dã man, đến nỗi không tìm thấy xác. Ta phải rửa hận! Ta phải bắt chúng chịu thống khổ!” – Ông ta người run lên kích động, mắt long sòng sọc, miệng nghiến răng chảy nước dãi như loài chó điên hung tợn, hai bàn tay siết chặt lấy cây đinh ba như muốn bóp nát cán cây.

    Đám đông ai nấy cũng thấu hiểu nỗi căm hận của ông ta, hùa theo la ó. Đâu chỉ có duy nhất mình ông ta là có kẻ thân người thích bị quỷ giết hại. Ông ta run run vì kích động, sự căm phẫn như dâng lên tột cùng, ông tiến lên phía trước một bước, tức thì cả đám dân cùng sấn tới, cùng giương mớ vũ khí thô sơ của họ lên, la ó inh ỏi, dâng trào khí hung hãn.

    “Phanh thây chúng nó ra! Treo xác chúng lên cho mỏ quạ rỉa thịt, mõm sói róc xương! Phải cho chúng thấy là chúng ta đáng sợ thế nào!” – Một người trong đám dân la lớn.

    Trong đám quỷ như có tên hiểu tướng người, trông sợ hãi ra mặt, lê lết túm tụm lại với nhau, người co rúm.

    Vigor lắc đầu thấy không ổn, liền rỉ tai Hadim. – “Chiều ý họ đi!”

    Hadim cũng lắc đầu, nhưng cương quyết, nói to. – “Không!” – Chàng rút kiếm ra, ra lệnh cho binh sĩ. – “Binh sĩ! Tập hợp đội hình lại!”

    Tức thì ai nấy trong đám dân cũng đều sững sờ, ngạc nhiên. Vigor thì sửng sốt đến tái mặt, hai tay ôm đầu. – ‘Thằng này đổ điên rồi! Chó chết thật!’

    Binh sĩ thuộc đội ở xung quanh đó liền tập trung lại, giương khiên và tuốt kiếm, lập đội hình đứng chen giữa Hadim và đám đông vừa kinh ngạc, vừa bức xúc. Vị trưởng trấn cũng tỏ vẻ bất bình không kém. – “Đội trường à! Sao ngài lại có thể làm như vậy được? Lẽ nào ngài lại không thấu hiểu được nỗi oán hận trời thấu đất hiểu của đám dân hèn chúng tôi hay sao? Hãy để cho chúng tôi được rửa nỗi oán hận này!”

    Hadim gật đầu, đáp. – “Ta hiểu! Ta là trẻ mồ côi, tức là cả nhà ta cũng đều bị chúng giết sạch cả. Nếu có ai muốn băm vằm chúng ra nhất thì kẻ đó phải là ta, không tới lượt các vị tranh giành. Nhưng ta vẫn phải nói không với các vị.”

    “Tại sao cơ chứ?” – Người đàn ông giận dữ kia giương đinh ba về phía Hadim.

    “Tại sao à?” – Hadim dõng dạc đáp. – “Có hai lý do. Một là về lý. Nhiệm vụ của ta là phải đem chúng về tra khảo, khai thác tình báo, phục vụ công cán phòng chống. Ở đoạn này thì yên tâm, ta sẽ giúp các vị bắt chúng phải thống khổ, sống không bằng chết! Cái thứ hai là về tình. Các vị hãy cứ là lương dân hiền lành. Đừng để thù hận biến bản thân mình thành quỷ dữ như chúng. Chỉ có quỷ dữ mới lấy việc hành hạ xác thịt của kẻ thù để làm vui thú.”

    “Ta mặc kệ! Ta phải trả thù!” – Ông ta lại la lớn, rồi điên cuồng xông lên.

    Một người lính cất kiếm đi, tay không lao lên dùng thế võ tước cây đinh ba trong tay ông ta, rồi gạt chân vật ngã ông ta ra đất, cuối cùng là bẻ ngoặc cánh tay, khóa tay ông ta lại. Ông ta la lớn đau đớn, chửi rủa thô tục. Nhưng đám dân thì có vẻ chùn bước, co rúm lại, chẳng một ai dám lao lên giải cứu. Cái hung khí vừa nãy còn ngút ngàn của họ thì giờ đã tan biến đâu mất sạch. Có lẽ Hadim đã nói đúng. Họ rốt cuộc cũng chỉ là một đám nông dân hiền lành, nhút nhát, làm gì có cái gan đánh nhau, chứ đừng nói tới giết chóc.

    Đám lính phía sau liền lao lên hùa vào khống chế ông ta, tay vẫn giữ khiêng giương ra che chắn cho đồng đội.

    Hadim bình thản thúc ngựa bước lên vài bước. – ‘Biết thế nào cũng có cự cãi với đám dân này. May mà ta có ngựa để cưỡi. Cưỡi lên rồi vóc ta cao hơn, lớn hơn. Ta nhìn xuống và họ phải ngước nhìn lên. Thế là ta uy quyền hơn thôi! Tiếng nói ta thêm nặng. Cho thêm chút gang thép với lý lẽ cứng rắn nữa thì đảm bảo trấn áp tuyệt đối. Có vậy mới nói đám binh sĩ nghe lời được.’ – Hadim thầm đắc chí, cũng nhờ hết cả vào chương trình huấn luyện sĩ quan. – “Các người muốn trả thù ư?” – Hadim trỏ ngón cái về phía bọn quỷ. – “Chỉ đơn giản là giết hết bọn này sao? Vậy thì để ta nói rõ cho các người được khơi thông đầu óc, giết hết bọn nó thì chẳng đáng để gọi là trả thù. Phải tận diệt hết giống nòi quỷ dữ chúng nó thì mới là trả thù!” – Cuối cùng Hadim trỏ tay về phía đám dân, trừng mắt, giọng đanh thép. – “Và ta sẽ không để đám ngu dốt các người làm hỏng đại sự của ta!”

    Đám dân im thin thít, chẳng ai dám hó hé một lời. Ngay cả người nông dân giận dữ kia cũng chỉ biết nằm im, cắn răng chịu đau.

    “Binh sĩ thu đội hình!” – Hadim ra lệnh cho đám lính, rồi lại quay sang đám đông. – “Nếu các vị muốn có lính, các vị phải gửi thanh niên, trai tráng đang làm lính nghĩa vụ tới quân đồn. Chúng ta sẽ cho ngài những chiến binh dũng mãnh và gan dạ được truy rèn qua lửa và nước. Ta sẽ kiến nghị ngài quản cơ đồn cắt cử binh lính sang đây để canh phòng trong một thời gian. Giờ thì liệu các vị đã thấy an lòng?”

    Đám đông không một ai lên tiếng, chỉ xì xầm to nhỏ, nhìn qua lại lẫn nhau, như cố né ánh mắt cứng cỏi sắt thép của Hadim khi chàng nhìn qua bọn họ.

    “Nếu không còn ai có ý kiến gì thì xin mọi người hãy mau tập trung dọn dẹp hết mớ lộn xộn xung quanh.” – Hadim chỉ chỏ khắp nơi. – “Còn ta sẽ cắt cử binh sĩ mau dựng và gia cố lại cổng rào, cửa nẻo, trước khi bọn chúng lại mò đến.”

    Chợt có một cụ bà tóc bạc trắng gần đó lên tiếng. – “Dù sao cũng xin cảm tạ các ngài, những hiệp sĩ dũng cảm! Xin cảm tạ thần linh trên cao đã đưa các ngài đến!”

    “Là tể tướng, chứ không phải họ!” – Hadim lắc đầu ngán ngẩm, phi ngựa bỏ đi.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 26-10-2016 lúc 22:11.

  6. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,kira,samki1998,
  7. #9
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 2: Bước chập chững của những kẻ kế thừa: chạy nhanh, ...

    Đoạn 4

    Finnler nói, chúng là quỷ dữ hung ác trỗi dậy từ địa ngục tăm tối, là đòn trừng phạt nghiêm khắc mà “Chúa Thượng” giáng xuống đầu những kẻ dám nghịch ý “Người”, là thử thách cuối cùng cho những ai còn dám nghi ngờ ý chí của “Người”.

    Heh’ran nói, quỷ đến thì đã đến, thần đến cũng đã đến. Cái gì đã mang cả hai đến. (?!)

    Nimbus nói, những kẻ đến để tiêu diệt nền văn minh và chấm dứt thời đại của chúng ta, dù có là người kì dị hay là quỷ man rợ thì cũng đều là địch, cần phải bị tiêu diệt. Mọi mối đe dọa đối với sự tồn tại của chúng ta đều phải bị tiêu diệt.

    Ta nói, chúng là cả một chủng tộc, là cả một nền văn minh bí ẩn đang giấu mình cần phải khám phá. Và điều này nguy hiểm như lấy chính bản thân để thử xem nọc độc của loài rắn nào giết chết ta nhanh hơn.

    Và khi ta nói với họ ý tưởng về việc nghiên cứu lũ quỷ (sau này thì biết chúng tự xưng là Kwi trong Quỷ Ngữ), chỉ Nimbus tỏ ý muốn tham gia. Heh’ran chỉ bận tâm tới các vị thần, nghi ngờ hơn là tôn thờ. Còn Finnler thì lắc đầu không ngần ngại.

    Ta và Nimbus cùng bắt tay khởi việc. Nimbus nói rằng chúng thích bóng tối và ghét ánh sáng. Ta nói rằng chúng không những không thích ánh sáng, chúng sợ ánh sáng. Nimbus tỏ ý hồ nghi và thích làm sáng tỏ theo cách mà hắn ta vẫn làm: thực nghiệm.

    Tướng Ramses, ở thời điểm đó, nghe theo lời Nimbus mà bắt sống được một tên Kwi, một cách khó nhọc. Bởi việc cố thủ thành công một đợt tấn công ồ ạt đã là điều không tưởng. Nhưng Ramses là một chiến tướng tài ba có tài xoay sở.

    Thử nghiệm bắt đầu bằng việc nhốt con quỷ vào một lồng sắt, phủ màn đen kín và đưa ra giữa nắng. Khi Nimbus kéo tuột tấm màn che, ánh nắng ấm áp của mặt trời chiếu thẳng lên lớp da đen đúa thô ráp của con quỷ. Con quỷ phản ứng lại bằng cách thét lên đau đớn, tiếng thét đó chói tai tới mức làm cho Nimbus cũng phải giật mình. Con quỷ kêu gào giãy nảy một cách vô vọng, làm cho lồng sắt phải rung lắc phát tiếng leng keng. Hai bàn tay nó nắm lấy thanh chắn sắt, siết mạnh tới mức máu đỏ nhỏ vương vãi ra xung quanh theo nhịp rung của lồng sắt. Nó há hàm răng tua tủa sắc nhọn cắn lấy một thanh chắn ngang, cố lực cắn thật mạnh để rồi miệng hắn cũng ứa máu theo.

    Khoảng năm phút, nó chết, lồng sắt thôi giật, máu thôi rơi vương vãi. Khám nghiệm ban đầu cho thấy toàn thân nó sưng phồng, phần da thô ráp đen đúa đã viêm đỏ cả lên, các khối phù nề mọc khắp người.

    Thử nghiệm thứ hai, phơi sáng cục bộ. Một cánh tay của con quỷ được đưa ra phơi nắng. Toàn thân nó bị xích chặt để không cho giãy giụa, miệng cũng bị rọ chặt lại, như Nimbus hay nói: chúng ta luôn có được bài học sau mỗi cuộc thử nghiệm thất bại. Sau khoảng hai phút, cánh tay đã viêm phồng nhiều chỗ. Nimbus lấy tay chạm nhẹ lên vết viêm đỏ thì con quỷ phản ứng dữ dội qua ánh mắt long sòng sọc của nó, chứng tỏ một sự đau đớn tột độ.

    Thử nghiệm thứ ba, phơi sáng gián tiếp. Con quỷ được để trong bóng tối. Một tấm gương dùng để hứng ánh sáng ngoài trời và phản chiếu trực tiếp về phía con quỷ. Tác động sinh ra tương tự với phơi sáng trực tiếp, nhưng cường độ có phần yếu hơn. Ta cũng để ý thấy rằng, nắng hắt vào từ mặt sân cũng có tác động lên con quỷ. Tuy không tới mức gây thương tổn nặng nề, nhưng cũng đủ làm con quỷ co rúm, mất khả năng chiến đấu.

    Thử nghiệm thứ tư, ánh sáng nhân tạo. Ánh sáng từ ngọn lửa có tác động tương đối thấp, cự ly ba sải đổ lại mới gây tác động. Ta đã dùng thêm năm tấm gương để hội tụ ánh sáng về phía con quỷ, lúc này hiệu quả tác động có tăng lên, nhưng cũng chỉ ở mức gây ra các thương tổn nhỏ.

    Nimbus hào hứng khoe kết quả thí nghiệm với Ramses, tin rằng con người có thể chiến thắng trước lũ quỷ ngay trong đêm tối, và hắn ta liền bắt tay vào việc nghiên cứu hóa học để tìm ra ánh sáng nhân tạo mạnh hơn. Một hướng đi rất đúng đắn. Ramses quở trách hắn, việc tại sao không phơi nắng cục bộ trước rồi phơi nắng toàn bộ sau, như vậy sẽ đỡ nhiều công bắt sống.

    Ta đã nói với Nimbus rằng vẫn còn nhiều thứ để khám phá. Hắn lắc đầu, nói, không cần thiết. Thiển cận, ta ghét hắn từ đó. Kwi là một chủng tộc, như ta đã nói, và là cả một nền văn minh, và chúng phải có ngôn ngữ. Học được ngôn ngữ của chúng, ta sẽ biết được căn nguyên cuộc chiến, động cơ gây chiến tranh của chúng. Ta sẽ chấm dứt cuộc chiến mà chẳng cần phải đổ thêm một giọt máu khi đã đi tới được một thỏa hiệp lợi ích chung.

    Ngu dốt!

    -Musache ký trình-’


    ~~~Đồn V~~~

    Cả đêm hôm đó tiểu đội đóng lại Lav’din canh phòng. Vigor và nửa đội đi chợp mắt, Hadim và nửa còn lại thức canh, thức tới tận sáng mà chẳng thấy quỷ đâu. Lúc thấy tia nắng đầu tiên của ngày mới hiện trên nóc nhà cao, cả đội như cùng thở phào nhẹ nhõm, trút hết gánh nặng trong lòng, cùng thu xếp rồi nhanh chóng quay trở về quân trại.

    Trưa hôm đó tại quân trại, Hadim vẫn nằm dài ngủ khì trên cái giường gỗ trải chiếu rơm, trong cái lán nhỏ đơn sơ của mình. Tuy tồi tàn nhưng vẫn còn hơn là phải nhồi nhét chung với đám thuộc hạ vừa bừa bộn vừa hôi hám. Chui vào chung chăn và ôm lấy Hadim là người tình Eleana đang trần truồng. Nàng đến không phải để ngủ trưa, mà chỉ nằm đó ngắm nhìn người tình say ngủ. Nàng miệng chúm chím, gương mặt rạng ngời một niềm vui, niềm hạnh phúc khó tả.

    Không lúc nào thấy Hadim ra trận là nàng Eleana không thôi lo lắng, bất an. Nhưng khi thấy chàng bình an trở về thì nàng lại quay ra mơ mộng về đám cưới nho nhỏ của hai người, chỉ ba ngày nữa thôi. Đám lính lác của Hadim đã chuẩn bị đâu hết vào đấy, nào là gửi lời mời, sắp xếp bàn ghế cho khách khứa, bộ bàn tế lễ thánh thần, dựng lều căng bạt che nắng, treo ruy băng vải trắng đính hoa vải đủ sắc màu trang trí, ... Thức ăn thức uống thì mấy chị em của nàng sẽ lo đâu vào đấy. Tất cả chỉ còn đợi ngày lành giờ tốt, ngày nàng khoác lên mình bộ đầm trắng thêu hoa, thêu ren họa tiết xinh xắn, phủ lên đầu che mặt bằng tấm khăn voan trắng mỏng, như muốn giấu đi vẻ e thẹn dễ thương của thiếu nữ đang yêu sắp được làm cô dâu nhỏ xinh.

    Đó là chuyện của ba ngày sau, còn bây giờ, Eleana đang ngập tràn hạnh phúc, con tim nàng xốn xang và rạo rực trong từng nhịp thở. Nàng muốn được yêu, yêu ngay lúc này, nàng muốn hai người sẽ yêu hết mình, cháy bỏng, mãnh liệt. Và cuồng bạo. Nàng đã tắm rửa trước cho thật sạch sẽ, xức lên người thứ nước hoa rõ xa xỉ đối với thường dân lao động. Nàng định dành nó như là một món quà bất ngờ cho hôn phu trong đêm tân hôn, nhưng nàng chẳng thể kiềm lòng được nữa. Nàng gội đầu bằng nước lá tóc tiên nấu sôi cho mượt mái tóc vàng óng, cho thêm ít cánh hoa hồng để ướp cho tóc có mùi hương thoang thoảng. Nàng nằm đó không một mảnh vải che thân và hứng tình như nước đã tràn miệng giếng, chỉ chờ vị hôn phu tỉnh dậy là nhảy bổ vào như muốn ăn tươi nuốt sống ngay. Cả hai sẽ yêu thật mạnh bạo, siết chặt lấy nhau, ưỡn ngực rền rĩ, co giật trong đê mê cho tới khi kiệt sức lả ra giường thở phì phò.

    ~~~~~~

    Vigor ngồi một mình trong xó nhà sau bữa ăn trưa, ngã đầu dựa vào tường, nghĩ vẩn vơ về mọi sư trên đời. Tới đó thì chợt nhiền chàng nghĩ về điều mà chàng đã nghĩ rất lâu và rất nhiều. – ‘Ở trên đời này, ta là cái gì?’

    ‘Chẳng là cái gì cả!’ – Chàng tự giải đáp, rồi lại tự đính chính. – ‘Chính xác hơn là chưa là cái gì cả! Chẳng biết sẽ là cái gì, nhưng muốn sẽ là cái gì đó to tát thì phải làm cái gì đó to tát. Ở chốn tận cùng biên cương hiểm ác thì này thì có gì là to tát đâu. Chốn kinh đô là nơi hội tụ công danh vinh hiển, tứ linh bát thánh quần tụ. Muốn thành danh thành quý thì phải về đó bon chen. Ở nơi đây có tranh đấu sứt đầu mẻ trán thì cũng chẳng được cái chó gì. Có khi đám đầu sỏ Cờ Đen lại có thanh thế hơn ta, kho thì có tiền vàng của báu để đầm mình vào như tắm bể, ngày thì có trăm tên tay sai trung thành tùy ý sai bảo cho thỏa tham vọng bá đồ, đêm có chục đứa con gái sẵn lòng hết mực hầu hạ cho thỏa ham muốn nhục dục.

    Ta là cái gì? Ta muốn gì? Ta phải làm gì?’ – Đến cuối cùng thì Vigor trở lại với cái suy nghĩ cũ lần quần như một bậc hiền triết cao niên.

    “Bẩm đội phó!” – Một viên lính tới chỗ Vigor, làm chàng thoát khỏi suy nghĩ vẩn vơ mà trở về với thực tại. – “Quản cơ đang hối thúc ngài xử lí đám tù binh ạ!”

    ‘Ta là Vigor. Ta muốn tất thảy vàng và đám con gái trên đời này. Ta phải đi làm theo lệnh của Benam đầu bò óc heo gan thỏ.’ – Vigor và Hadim chẳng tôn trọng thượng cấp của mình là mấy. Chàng uể oải đứng dậy, sai viên thuộc cấp. – “Lôi hết bọn chúng ra đây.”

    Đợi tới cái lúc hơn hai tá quỷ tù binh bị lôi tới trong rọ sắt, Vigor vẫn chưa thôi uể oải, chán nán, vừa thầm trách Hadim tối qua đừng có làm quá cả lên, cứ để dân làng giết phức chúng cho xong, làm theo quân kỉ làm gì cho mệt thân nhọc xác. Bởi cái việc thẩm tra lũ này là vô dụng, chẳng cho ra kết quả gì nhiều. Một phần là chúng quỷ chẳng biết nói tiếng người, đằng người thì cũng chẳng biết tiếng quỷ. Loại này thì chỉ có giết quách, hoặc đem ra làm thí nghiệm cho đám lính mới xem, hoặc làm bia sống cho đám lính hành hạ. Một phần là dù chúng có biết tiếng người, thì chỉ giỏi chửi thề, giỏi mấy thứ ngôn từ mọi rợ, hạ đẳng. Thậm chí là chúng đủ sức để mà cả ngày tuôn ra đủ thứ ngôn từ chửi rủa, bằng cái chất giọng gừ gà như muốn phun ra bằng cả hai thứ tiếng. Đối với loại này mà không đủ kiên nhẫn, bình tĩnh thì dễ rút gươm đâm chết chúng cho nhẹ tai nhẹ óc, hoặc là ném bừa chúng ra nắng xem chúng giãy nảy như cá mắc cạn làm trò tiêu khiển hả giận.

    Trước đây khi quỷ còn chưa xuất hiện, người chỉ có thể tra tấn người mà thôi, tất nhiên là vậy rồi! Trước chiến tranh, nạn nhân là đám nghi phạm bị bức cung cho tới khi nào nhận tội hoặc khai láo theo ý đám gian quan. Bắt đúng kẻ đúng tội thì ít mà người bị hàm oan ép cung thì nhiều. Xã hội tồi tàn thì vẫn cứ thế thôi, loài người vẫn sinh sôi nảy nở nhiều. Nhiều khi nhận tội xong thì đâu đã thoát đòn đau, lãnh phải tội nặng thì kẻ đó còn phải bị tra tấn nhiều phen nữa theo hình phạt do phán quan tuyên phạt.

    Trong chiến tranh, nạn nhân là tù binh chiến tranh, là tướng sĩ phe địch bị bắt sống. Họ bị tra tấn để khai thác thông tin tình báo. Nếu là lính lác thì chẳng tốn nhiều sức tra tấn, đám này vốn hèn nhát, chẳng chịu đau được mấy, có điều là thông tin bọn này chẳng biết gì mấy. Đám tướng sĩ thì ngược lại, biết nhiều, nhưng cũng rất lì đòn.

    Sau chiến tranh, nạn nhân còn là đám giặc cướp, nổi rộ sau làn sóng di cư thứ nhất. Đa phần là nông dân không có ruộng cày. Nếu là dân di cư không có ruộng đã đành, ngay chính đám dân địa phương cũng bị giới địa chủ phú hào lừa gạt cướp đất, rồi còn bắt họ phải làm nông nô cho chúng. Nông dân tất nhiên là chẳng thể nào mà cam lòng được, thế là kéo nhau nổi dậy đòi lẽ công bằng, nhưng bị đám quan quân ăn của đút lót của địa chủ ra tay đàn áp, vùi dập thẳng tay. Không có kẻ làm công thì đám địa chủ thuê dân di cư về làm với cái giá rẻ mạt. Nông dân hoặc là cam phận làm tôi mọi ngay trên chính mảnh đất của mình, hoặc là rủ nhau cứng mặt đi làm giặc cướp, quyết chỉ cướp của đám nhà giàu mà thôi, chứ nông nô với nhau thì biết rõ chẳng ai có cắc bạc nào để mà cướp. Thế là trong mắt thiên hạ, từ nạn nhân của cướp bóc phải trở thành kẻ đạo tặc, còn kẻ ăn cướp thì hô hoán rằng mình là nạn nhân vô tội. Thiên hạ đảo điên hết.

    Còn có những người nông dân chẳng cam chịu làm nông nô, cũng chẳng có cái gan đi làm giặc cướp, thế là họ được mời gọi tới miền Tây với những lời hứa hẹn nào là đất đai bạt ngàn, màu mỡ trù phú, quanh năm tươi tốt, ... và sạch bóng quỷ dữ. Họ chả tin cái ý cuối, nhưng họ còn có lựa chọn nào khác? Dần dần trong đám dân nảy sinh cái suy nghĩ thù hắn đối với đám dân ngoại bang di cư tới, cùng với sự chán ghét đám quan thần lộng quyền.

    Nếu kẻ nào muốn tra tấn với mục đích là bắt nạn nhân phải bị dày vò thân xác, hứng chịu đau đớn thì chẳng thiếu gì cách để làm kẻ đó phải nếm trải đau đớn tột cùng như chết nơi địa ngục, nhưng chẳng thể nào chết được. Đơn giản thì hắn chỉ cần một con dao nhỏ, phức tạp thì cần cả một giàn ghế đinh, giường đinh.

    Còn nếu muốn tra tấn để bắt kẻ đó làm theo ý mình, hoặc buộc hắn phải thốt ra điều mà hắn đang giấu giếm thì phức tạp hơn. Cốt lõi là phải tìm ra được điểm yếu của hắn. Bước đầu luôn là màn dò hỏi, để biết xem hắn thuộc đẳng cấp nào trong xã hội, biết thông tin loại gì. Thường thì chẳng kẻ nào lại khai ngay khi mới chào hỏi cả, có khi là chối bay. Thế là sang bước tiếp, hành hạ thân xác. Những kẻ thấp hèn, đám trưởng giả mới nổi hay công tử bột thì chẳng mấy khi chịu được đòn lâu, thế là chúng khai tất, không có gì để khai thì chúng dựng chuyện lên để mong thoát khỏi cực hình. Vậy là phải luôn xem xét tới khả năng lời khai là dối trá, ngụy tạo.

    Những kẻ thuộc đẳng cấp cao quý thì khác hẳn, họ cứng cổ lì lợm, dường như không thể lay chuyển ý chí. Nhất là đám tướng lĩnh từng kinh qua nhiều trận mạc, những kẻ có lý tưởng cao quý, những kẻ thuộc dòng dõi vương giả. Hành hạ thân xác không thành thì phải khủng bố tinh thần, có khi là phải kết hợp cả hai luân phiên. Vigor học được hai thủ đoạn để đối phó với loại này, hiệu quả, nhưng cũng chẳng dễ mà thực hiện:

    - Tìm vật trao đổi ngang giá với thông tin của đối tượng. Ví dụ như: – “Nhìn xem! Đây là một chiếc hài nhỏ bé xinh xắn. Đoán thử xem nó là của ai nào. Ồ đúng rồi! Con bé thật dễ thương. Bọn ta chẳng nỡ xuống tay với trẻ con đâu, nhưng lũ quỷ thì có, chúng thèm thịt trẻ con nữa là đằng khác. Hãy thành thật rồi hai cha con ngươi sẽ được thả ngay thôi!”

    - Làm cho đối tượng mất thế độc quyền thông tin bí mật. Ví dụ như: – “Giờ thì ta bắt được hai tên chúng mày. Chỉ có một thằng được phép nói và thằng kia sẽ chết. Không thằng nào muốn nói thì ta sẽ tra tấn cả hai thằng cho tới khi có một thằng chịu nói. Nếu có thằng chết trước thì ta sẽ kiếm thằng thứ ba về và lặp lại công việc với hai thằng. Cứ thế cho tới khi ta nghe được điều mà chúng mày đang giấu.” – Nhiều khi chẳng bắt được tên thứ hai, họ bắt bừa một tên tù quèn nào đó làm vật thí mạng đe dọa.

    Dạng nạn nhân cuối cùng của các màn tra tấn là quỷ đen. Quỷ đen thì chẳng phải người, nên chẳng thể nào áp dụng cách thức dùng với người. Sẽ chẳng có những khung cảnh hầm ngục u tối lập lòe ánh đuốc, ngột ngạt và hôi hám. Lũ quỷ cần được đối xử tử tế hơn, chúng cần những nơi sáng sủa và thoáng đãng.

    “Đưa nó ra sưởi nắng!” – Vigor ra lệnh cho binh sĩ. Những gì chàng biết về lũ quỷ chỉ vỏn vẹn ba điều: chúng sợ nắng, chúng không biết tiếng người, chúng đoàn kết đến đáng sợ.

    Con quỷ bị xiềng xích trong lồng sắt giãy dữ dội, nó kêu gào ghê rợn bằng thứ ngôn ngữ mà không một ai ở đó hiểu được. Vigor thì chẳng màng, đi theo cái lồng sắt có gắn bánh xe bị kéo ra giữa nắng và đứng trơ mắt nhìn. Tia nắng buổi trưa nóng gắt gỏng trên làn da Vigor, nhưng lại là ngọn lửa thiêu đốt hừng hực đang nướng chín con quỷ đang giãy nảy vô vọng trong xiềng xích.

    “Trước khi chết ngươi có muốn phát biểu gì không?” – Vigor tiến lại gần cái lồng sắt nheo mắt nhìn con quỷ đang gào thét. – “Hoặc khai ra điều gì đó đủ để ta cân nhắc cho phép ngươi sống, mà phải nói tiếng người đấy nhé!” – Vigor bặm môi, múa múa bàn tay phải.

    Con quỷ mắt long sòng sọc nhìn vào thái độ cao ngạo đáng bị ăn tươi nuốt sống của Vigor, miệng sôi sục máu, rủa độc địa bằng ngôn ngữ quỷ trong giây lát rồi khụy hẳn trong lồng sắt, thôi kêu gào.

    Vigor lắc đầu ngán ngẩm, quay trở lại về phía căn phòng lớn tập trung hết đám quỷ tù binh bị nhốt trong lồng sắt, hất hàm nhìn chúng nói. – “Có thể nó muốn khai ra điều gì đấy, nhưng mà ta lại không thể hiểu được thứ ngôn ngữ mọi rợ của chúng bây. Tốt nhất là hãy nói gì mà ta nghe hiểu được ấy!”

    Nói rồi Vigor ngoắc tay lệnh cho binh sĩ kéo cái lồng thứ hai ra giữa bãi sân đầy nắng. Con quỷ sợ hãi giãy nảy, hoang mang trợn to mắt nhìn dáo dác xung quanh. Khi lồng vừa được kéo ra nắng khoảng một nửa thì con quỷ la lên. – “Ta nói! Ta nói! Hãy nghe! Hãy nghe đi!”

    Vigor liền ngoắc tay hiệu cho binh sĩ kéo ngược con quỷ trở lại vào căn phòng lớn.

    “Khó nghe thật! Nhưng mà ta chấp nhận, nói đi!” – Vigor đứng chống nạnh đối diện con quỷ.

    “Thủ lĩnh, thủ lĩnh, sẽ ăn thịt, các ngươi. Tất cả các ngươi! Thủ lĩnh sẽ tới!” – Con quỷ trợn trừng mắt nhìn Vigor, giọng hung hăng.

    “Nếu hắn có tới đây thì đó là chuyện giữa hắn và Hadim. Ta muốn biết khi nào hắn sẽ đến, chính xác là đêm nào hắn sẽ đến.” – Vigor hỏi, giọng điềm tĩnh pha chút cợt nhả.

    “Từ cánh rừng, thủ lĩnh, sẽ đến, sẽ hiên ngang sải bước dưới ánh lửa, sẽ ăn thịt các ngươi, sẽ uống máu các ngươi!” – Con quỷ nghiến răng, mặt hung tợn, trừng mắt nhìn Vigor và lẩm bẩm. – “Sẽ giết, sẽ giết, sẽ giết ...”

    Vigor đứng khoanh tay vuốt cằm suy nghĩ. – ‘Cánh rừng? Gần đây nhất là rừng sồi Pirab ở hướng Tây Nam. Thủ lĩnh, thì là thủ lĩnh của chúng. Bước dưới ánh lửa, ta cân nhắc xem đây có ý là dưới ánh sáng ban ngày. Sao lại có thể!?’ – Vigor hỏi con quỷ vẻ nghiêm túc. – “Ý ngươi nói là hắn sẽ tới đây ngay ban ngày sao? Bằng cách nào?”

    “Sẽ giết, sẽ giết, sẽ giết, sẽ giết ....” – Con quỷ vẫn lẩm bẩm. Những con quỷ khác cũng hung tợn đồng thanh hô theo.

    Vigor lắc đầu thở dài, dùng sức đạp mạnh, đẩy cái lồng sắt lăn bánh ra ngoài trời nắng. Trong khi con quỷ đó giãy nảy gào thét thì đám còn lại trong phòng bặt im thin thít. Mặt lạnh như tiền, Vigor đợi cho con quỷ vùng vẫy kêu gào một lúc rồi ra hiệu cho binh sĩ kéo nó vào. Con quỷ run rẩy, thở nặng nhọc.

    “Hãy trả lời câu hỏi của ta!” – Vigor gằn giọng.

    “Không biết, ... không ... ta biết. Không chúng ta ... biết. Chỉ ... thủ lĩnh biết. Nhưng ... ngươi sẽ biết, ... khi chúa tể sẽ đến.” – Con quỷ giọng run rẩy, hơi thở nặng nề.

    Vigor quay phắt sang nhìn đám quỷ còn lại. – “Có thật là các ngươi không biết không hả?” – Nhưng chàng chỉ nhận được một sự im lặng đáng ghét, không chào đón. Vigor liền lệnh cho binh sĩ lôi hết cả bọn ra phơi nắng. Lũ quỷ đồng loạt gào lên làm ồn cả một vùng, những ai ở gần đó đều phải nhức tai nhức óc. Nhưng với Vigor, thế này vẫn có nghĩa là một sự im lặng.

    Khi bọn quỷ chết hết, Vigor vẫn đứng đó trầm ngâm suy nghĩ thêm một hồi, rồi đi tới quyết định. – ‘Hadim cần phải biết chuyện này.’

    ~~~~~~

    ‘Ta đặt ra khái niệm “vành đai an toàn” và “vành đai rủi ro”.

    “Vành đai an toàn” là đường tròn bán kính mười hai giờ ngựa phi (khoảng hai mươi lăm cây đá mỗi giờ), tâm điểm là Quỷ Môn Quan. Khi nằm ngoài vành đai này thì sẽ không sợ bị lũ quỷ tấn công, bởi ta đặt ra giả thiết là chúng có thể di chuyển cố định ở tốc độ ngựa phi trong suốt một đêm.

    “Vành đai rủi ro” là đường tròn đồng tâm với “Vành đai an toàn” nhưng bán kính chỉ bằng một nửa, vì khi đó ta tính tới việc chúng phải dự trù thời gian để rút lui về Quỷ Môn Quan để trốn nắng. Nếu chúng điên cuồng tấn công bất chấp việc phải trở về trốn nắng thì rõ ràng rủi ro bị tấn công là có khả năng.

    “Vành đai rủi ro” là một vùng rộng lớn bao trùm lấy vương quốc Gardin. Chỉ trong một tháng, Gardin của chín mươi vạn con người đã bị xóa khỏi bản đồ.

    Halatan nằm ngoài“vành đai rủi ro”, nhưng ngay sau đó lại bị uy hiếp, đã khiến ta phải nghi ngờ tính thực tiễn của cái khái niệm “vành đai rủi ro”. Halatan đã cầu xin cứu viện nhưng chỉ nhận được sự phớt lờ. Vì Sa Mạc không nằm trong vành đai này.

    Sau khi Halatan thất thủ, năm vương quốc ngay lập tức nghiêm túc nhìn nhận lại mối hiểm họa diệt vong. Việc thành lập bán kính an toàn là cấp thiết, di tản thường dân ra khỏi vùng “vành đai an toàn”, bởi không thể chủ quan mà không tính tới khả năng lũ quỷ liều lĩnh vượt đêm, hoặc chúng có khả năng trốn nắng bằng cách nào đó chờ đêm xuống.

    Liên quân được thành lập thông qua hiệp ước, phạm vi bao gồm tương trợ phòng thủ và phân chia tuần tra ban ngày để lại bỏ nguy cơ kẻ địch cắm trại.

    Nhưng mọi nỗ lực đi vào thất bại. Đó là khi không thể tìm thấy bất kì dấu hiệu nào của kẻ địch, dù là đã tiến tới tận Gardin. Không đêm nào là lũ quỷ ngừng điên cuồng tấn công, chỉ ngay khi bóng đêm vừa sụp xuống.

    Như thế là giả thiết “vành đai” của ta đã phá sản. Luôn có khả năng giả thiết đưa ra là sai lầm, điều này là khó tránh khỏi. Nhưng ta không lấy đó là cớ để bào chữa cho nỗi nhục nhã của ta. Ta càng phải quyết tâm tìm ra cho bằng được chân tướng sự việc: chúng đến bằng cách nào.

    -Nimbus ký trình-’

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 26-10-2016 lúc 22:11.

  8. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,kira,samki1998,
  9. #10
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 2: Bước chập chững của những kẻ kế thừa: chạy nhanh, ...

    Đoạn 5

    Hadim nâng niu nhìn ngắm chiếc nhẫn đính hôn sáng ánh kim trên đầu ngón tay của mình, ánh mắt hiền hòa, miệng cười mỉm, đầu óc ngập tràn hình ảnh tưởng tượng về một hôn lễ hạnh phúc và ngọt ngào bên cạnh Eleana, người con gái mà chàng đã yêu thương từ thuở bé.

    “Hadim!” – Tiếng Vigor vào phòng gọi to làm Hadim tỉnh khỏi giấc mộng tưởng.

    “À ừ!?” – Hadim đáp, vội cất cái nhẫn đi.

    “Giờ tính sao đây?”

    “Mày đã báo cho bất kỳ ai ngoài ta chưa?”

    “Chưa!” – Vigor lắc đầu. – “Mày có tin lời nó không?”

    “Không.” – Hadim lắc đầu đáp. – “Nhưng cho dù có là thật thì chuyện đó ta cũng đâu có quyết được.”

    “Mày ngu à!? Cơ hội ngàn năm có một để thoát xác khỏi đây đó!”

    “Thoát? Làm cái gì mà thoát khỏi đây?” – Hadim vẻ khó hiểu.

    “Thoát chứ sao không! Ta với mày sẽ làm sáng tỏ vụ này. Nếu mò ra được một cái gì đó kinh khủng, to tát thì xem như lập công to. Lúc đó thì có cơ hội mà chạy khỏi đây.”

    “Ta chẳng hiểu. Mày nói rõ ra giúp ta với!” – Hadim nhăn mặt khó hiểu.

    “Chết tiệt! Như thế này, nếu mà bọn quỷ có thể đi dưới trời nắng thật thì phải thực là chuyện động trời. Ta sẽ tìm ra bằng chứng, rồi báo về kinh. Không biết chừng sẽ có điều quân đánh nhau, ta ké theo để giành thêm công trạng trên chiến trận. Ta sẽ ghi điểm to trong mắt tổng bộ! Ta sẽ được thăng hàm, được hồi về kinh, không thì tệ tệ cũng Mearodon, thoát khỏi cái miền Tây khắc nghiệt này!” – Vigor giải thích cặn kẽ kế hoạch của mình, không giấu nổi vẻ nôn nóng.

    “Bộ đánh nhau vui lắm sao?” – Hadim cau mày.

    “Thì ngày nào mày chẳng phải đánh? Thế thì sao không đánh một trận thật to rồi lên lon nhanh cho trớt, cứ lẹt đẹt mãi ở đây làm gì? Đã thế quân ta còn biết đường mà chủ động trước, ra tay phủ đầu, tiên hạ thủ vi cường, khả năng thắng cũng phải cao hơn nhiều!” – Vigor cam chắc.

    “Đừng có mà đứng đó tào lao!” – Hadim vẻ ngán ngẩm, lắc đầu phẩy tay. – “Kiếm việc gì làm đi!”

    “Tào lao cái con mẹ mày ấy! Mày đéo nghĩ cho ta thì cũng thử nghĩ cho con vợ mày ấy!” – Vigor nổi cáu. – “Mày muốn nó suốt đời ở đây để ngày nào nó cũng phải sống trong thấp thỏm lo sợ sao? Rồi con cái của mày nữa!”

    Nghe tới đấy Hadim chợt thấy chột dạ, mặt biến sắc. Chàng ta nghĩ tới cha mình khi xưa. Cha đêm nào cũng phải thức đêm canh gác, còn cậu bé Hadim tối nào cũng phải lo lắng, lủi thủi một mình, suốt đêm cứ thầm mong cha về ngủ với mình. Để rồi cha cậu bị lũ quỷ giết hại dã man, còn cậu trở thành trẻ mồ côi để rồi sau này lớn lên lại bị đẩy ra chiến trường. Hadim không muốn cái vòng luẩn quẩn này cứ lặp đi lặp lại mãi, chàng muốn cắt đứt cái vòng tròn nghiệp chướng, chàng muốn con mình sau này lớn lên sẽ không phải làm gì đụng tới gươm đao.

    Hadim nghĩ tới Eleana, chàng đã thề rằng nếu mình không thể đem lại hạnh phúc cho nàng thì ít nhất không thể để nàng phải sống trong khổ sở lo âu. Nhỡ đâu bọn quỷ chẳng còn sợ ánh sáng nữa, ồ ạt kéo tới ngay trước ngưỡng cửa thì phải biết làm sao? Phải làm cho rõ chuyện này, nếu điều con quỷ nói là đúng thì phải mau tìm cách sớm đưa nàng rời khỏi đây. Nghĩ vậy Hadim mới đề xuất ý tưởng. – “Hay là ta báo cho Benam đi.”

    “Ngu!” – Vigor cau có. – “Báo cho lão để lão cuối cùng cướp hết công à?”

    “Nhưng liệu mày có dám chắc là tụi mình cán đán được việc này không?” – Hadim nghi ngờ.

    “Ta đâu có đánh nhau với chúng. Chỉ cần phát hiện ra bóng dáng của chúng là đủ rồi. Sau đó thì biến thôi. Dễ như chơi gái rồi chạy làng!” – Vigor nói chắc nịch. – “Chắc chắn là làm được!”

    “Ta vẫn không chắc lắm, không thể chủ quan được.” – Hadim tay vuốt cằm. – “Địa điểm lúc nãy mày nói là ở đâu ấy nhỉ?”

    “Pirab.”

    “Không xa lắm! Bây giờ vẫn chưa tới giữa chiều, nếu đi nhanh thì có thể kịp trở về trước khi mặt trời lặn.” – Hadim bật dậy khỏi ghế, thò tay vào túi vải giắt bên thắt lưng để biết chắc chiếc nhẫn quý vẫn còn yên vị bên trong, như tự trấn an mình, rồi lấy kiếm giắt bên hông. – “Tập hợp đội hình trong năm phút, nếu có ai thắc mắc gì thì trả lời là tuần tra đột xuất.”

    “Tuân lệnh!” – Vigor bật dậy đứng nghiêm. – “Nhưng nhỡ lệnh bà có hỏi thì em trả lời sao đây?” – Vigor bỡn cợt.

    Hadim tự hỏi là tại sao mình không thể đợi sang ngày mai. – ‘Điều gì thôi thúc mình trở nên nôn nóng kỳ lạ như vậy?’

    Câu trả lời thì chỉ có một. – “Hãy nói là ta yêu nàng ấy.”

    ~~~Rừng Pirab~~~

    Đội kỵ binh phi hết tốc lực về hướng Tây, băng qua đồng cỏ rộng lớn đang ngã vàng và những con suối nhỏ róc rách cuối hè. Việc đội của Hadim rời trại tuần tra đột xuất chẳng thể gọi là công khai, vì Benam chẳng biết chuyện gì, nói là lén lút thì cũng sai vì ai cũng nghĩ đó là lệnh của Benam. Trên đường đi đám lính xì xào hỏi nhau, cho tới khi đã đi được một quãng xa thì cả đám mới biết chuyện này là do Vigor khởi xướng, Hadim thì chỉ nghe theo. Ai cũng thấy việc tuần tra này đột xuất một cách bất thường, nhưng tuần tra rừng thì chẳng có gì lạ lẫm, to tát cả, nên họ cứ thế mà làm theo lệnh của đội trưởng mà chẳng dám thắc mắc gì.

    Hadim và Vigor dẫn đầu đoàn, như thường làm thì họ hay nhìn ngắm cảnh vật xung quanh trước khi chúng bị bỏ lại sau lưng. Những thứ có thể là những hòn đá tảng có hình dạng kì lạ nằm cô độc trên đồng cỏ, Vigor tự hỏi nhờ có phép thuật phi thường nào mà chúng có thể tới được đây. Rủi sao chúng ngáng đường họ trong đêm thì rõ là tai họa.

    Xa kia là một bụi hoa dại, thân lá thì cháy vàng dưới cái nắng gắt gỏng, hoa thì giản đơn hai sắc, cánh trắng nhị vàng, thoạt trông chẳng có gì đẹp đẽ nổi bật, nhưng Vigor lại thích chúng nhất trong các loài hoa. Bởi vì chúng tự do, hoang dại, và sức sống thì mãnh liệt. Dẫu cho bị nghiền nát vạn lần dưới vó ngựa thì những mầm hoa dại đó vẫn cứ đâm chồi nảy lộc, kiên cường và bền bĩ. So với chúng, Vigor tự thấy mình thật hèn mọn, chỉ cứ lo tìm cách mà tránh né gian khổ thôi. Vigor tự nghĩ thì thấy bản thân bị rối bời giữa cái lý tưởng cao đẹp được răn dạy và cái bản năng sinh tồn bẩm sinh đã có. Nhưng rồi chàng lại quyết định chọn cái sinh tồn, phải sống trước, bởi có sống thì mới hiện thực hóa lý tưởng được.

    Có hoa cỏ thì phải có muông thú. Chúng là lũ thỏ hang, lũ cáo đồng cỏ, lũ chuột đồng, lũ rắn chuông, .... Sự sống ở đây vẫn sinh sôi nảy nở, muôn màu muôn vẻ, các loài vẫn đa dạng và phong phú như từ trước tới giờ. Hadim tự hỏi liệu lũ quỷ chỉ thù ghét con người như đúng lời rao truyền của tu sĩ Thiên Hội, hay là chúng chê những loài nhỏ bé thịt chẳng đủ để nhét kẽ răng.

    Nhân nói về quỷ, thì cả Hadim lẫn Vigor trong chuyến tuần tra này chẳng ngắm cảnh vật như thường lệ. Họ nheo mắt nhìn xa tít nơi chân trời tìm kiếm dấu hiệu của quỷ. Dẫu về mặt tinh thần là không muốn tin điều con quỷ kia nói có thể là sự thực, bởi điều này vô cùng kinh khủng. Nhưng bụng họ cứ thầm mong nó là sự thực, có thế thì họ mới có đường thăng tiến theo như kế hoạch của Vigor.

    Họ cứ dõi nhìn xa thật xa cho tới khi những tán lá xanh rừng Pirab lọt vào trong tầm mắt, khuất sau một quả đồi nhỏ. Họ đến được bìa rừng Pirab sau chừng một giờ ngựa phi. Pirab là một khu rừng sồi rộng lớn, với những cây sồi mọc cao tới hơn bốn mươi sải, diện tích khu rừng ước chừng ba ngàn bốn trăm cây vuông.

    Hadim hiệu cho cả đội dừng lại, rồi phái ba người lên trước thám thính. Đám lính thấy khó hiểu việc cẩn trọng quá mức bình thường này, nhưng vẫn phải tuân theo lệnh. Ba người lính dò thám tiến tới bờ rừng, một người đi vào trước, người thứ hai theo sau cách người đầu tiên hai mươi sải, người thứ ba thì ở nguyên vị trí bìa rừng. Người thứ nhất tiến sâu vào trong cỡ chừng bốn mươi, năm mươi sải, sau đó sẽ quan sát xung quanh. Nếu thấy an toàn thì sẽ báo về cho người thứ hai, rồi báo tiếp cho người thứ ba.

    Khi thấy người thứ ba huơ tay ra hiệu an toàn, Hadim lệnh cho cả đội cưỡi ngựa tiến vào trong. Rừng Pirab rộng lớn, nhưng mật độ cây khá thưa, đủ để cho người ngựa cưỡi qua mà không trở ngại gì mấy. Thêm vào đó địa hình rừng cũng khá bằng phẳng.

    Đoàn ngựa tiến sâu vào rừng, bước chậm rãi. Các chiến binh dõi đưa mắt nhìn ngóng xung quanh, gọi là tuần tra nhưng tinh thần thì là đang cưỡi ngựa xem hoa. Chỉ riêng hai vị chỉ huy tay luôn ở trạng thái phòng bị, sẵn sàng tuốt kiếm bên hông và rút khiên trên lưng. Sau một quãng dài không thấy động tĩnh gì, Vigor thúc ngựa tiến sát lại gần Hadim, hỏi. – “Gia đình cô Adelaide sẽ tham dự lễ cưới chứ? Và cả Lisa nữa?”

    “Họ sẽ đến, nhưng Lisa thì không. Con bé đã có chồng rồi. Tha cho nó đi!” – Hadim liếc nhìn Vigor, cười nửa miệng.

    “Tuyệt! Lấy một gã buôn sắt!” – Vigor thở dài.

    “Nó có một con gái rồi đấy. Con bé có đôi mắt đẹp như mẹ nó.” – Hadim nói với vẻ tự hào.

    “Thật may mắn khi còn người thân thích trên đời này, phải không?” – Vigor mặt đăm chiêu.

    Hadim chỉ thoáng liếc nhìn, ánh mắt buồn. – “Ta là con nuôi.”

    “Gì cơ!?” – Vigor ngạc nhiên.

    “Chú Bronn đã nói vậy. Cha đẻ của ta không biết là ai. Chỉ biết mẹ ta bị một con yêu nữ giết chết. Cha đã cứu ta từ tay con quỷ đó và nhận nuôi ta. Lúc đó ta còn chưa mở mắt nữa kia!”

    Vigor vẻ thông cảm, không nói gì.

    “Còn nữa, trước đó vợ và con gái của cha ta bị quỷ giết. Nên ông ấy đã bất chấp, liều mạng tham chiến cả trận Cổng Vàng lẫn Quỷ Môn Quan. Mạng lão lớn lắm nên mới còn sống trở về. Nhưng cũng chẳng lớn lắm, rồi cũng bị lũ quỷ giết cả. Ta có tới hai cha mẹ nhưng rồi cũng bị chết hết cả.” – Hadim cười gượng. – “Người thân nào gần ta đều đoản mệnh cả. Gia đình cô Adelaide ở xa tít kia chắc không sao đâu nhỉ?”

    “Nếu xét ta là người thân của mày thì kẻ tiếp theo có thể là ta lắm!” – Vigor chắp tay vái lạy run run. – “Lạy ông bà tổ tiên chín đời, lạy ông thần ông thánh bát phương tứ hướng, lạy các chị em dâm nữ còn trinh, lạy ...”

    “Mày đừng có khùng nữa!” – Hadim cười thành tiếng, đưa tay dọa đánh Vigor. – “Thấy chúng thì bỏ chạy cho nhanh là được rồi! Đéo nói chuyện nhảm nữa!” – Hadim lấy từ trong túi ra cái nhẫn vàng. – “Mày nghĩ em ấy sẽ thích chứ?”

    “Gái thấy vàng là mở to mắt, thấy “hàng” là nhắm mắt lại và rên!” – Vigor đùa cợt.

    “Rên cái con mẹ mày!” – Hadim dọa đánh.

    Vigor đưa tay cầm lấy cái nhẫn, đưa lên săm soi. – “Vàng tám?”

    “Chính xác!” – Hadim gật đầu. – “Tên thợ kim hoàn định lòe ta đó là vàng chín lăm để hét giá cao. Nó tưởng thiên hạ ai cũng ngu chắc?”

    “Dám múa rìu qua mắt thợ, ha ha! Hai phần còn lại là đồng chắc.” – Vigor nói vậy là vì hai người trước đó từng làm thợ phụ nhiều năm cho các thầy kĩ nghệ kim khí của quân đội.

    “Để cho cứng một chút. Coi xong rồi thì trả đây!” – Hadim với tay ra đòi nhẫn.

    “El sẽ thích nó lắm.” – Vigor trả lại nhẫn.

    “Chắc chắn rồi!”

    “Mày cũng đừng quan trọng là vàng hay là đồng. Hai người thực lòng yêu nhau thì đến cả cái nhẫn cỏ cũng là báu vật.”

    “Cái mõm chó ăn cứt nhà mày cũng có lúc thốt ra mấy câu sâu sắc lắm!” – Hadim bặm môi, vẻ kiêng nể. – “Ta muốn em ấy sống thật hạnh phúc, thế nên chẳng thể nào mà ở lại đây được. Nhưng thực lòng, ta vẫn muốn ở lại đây hơn.”

    “Tại sao chứ?” – Vigor vẻ ngạc nhiên.

    “Ta muốn trả thù cho cha.” – Hadim đáp. – “Ta muốn diệt sạch lũ quỷ, giết cho tới khi giết được con quỷ to lớn đã hại cha ta.”

    “Mày đâu nhất thiết phải trực tiếp giết chúng.”

    “Ý mày là sao?”

    “Cứ làm cho xong vụ này, đưa vợ mày về Mearodon trước. Tới lúc đó cả ta với mày đều chức hàm phải cỡ lãnh binh rồi, không thì cũng quản cơ. Lúc đó có mấy trăm lính trong tay, sai chúng đi giết quỷ cũng được mà. Cho tới khi tìm được con quỷ chúa kia thì nhường lại cho mày.” – Vigor giải thích kế hoạch. – “Một công đôi việc.”

    Hadim không nói gì, chỉ nhướng mày rồi gật gù, vẻ như thừa nhận điều Vigor nói là có lý chẳng chê vào đâu được.

    “Có khi thắng được nhiều trận liên tiếp, leo cấp nhanh, vài năm là lên tướng ngay!” – Vigor lạc quan. – “Nhưng mà cứ đi thành đoàn thế này thì chưa kịp tìm thấy gì thì trời đã tối mất.”

    “Tách ra sẽ nguy hiểm nhỡ có gặp địch thật.” – Hadim ngần ngại.

    “Mày hết muốn lập công rồi sao?”

    “Có!” – Hadim đáp. – “Nhưng không thể mạo hiểm tính mạng của binh sĩ.”

    “Hay là sợ không được làm chú rể nữa?” – Vigor khiêu khích.

    Hadim trừng mắt. Vigor nhún vai.

    “Đừng tách quá xa! Đừng để ta phải ra tay cứu mày!” – Hadim hằm hằm nói.

    Vigor phi nước kiệu tiến lên trước, ngửa cổ ra sau nhìn Hadim và cười vẻ ngạo mạn. Hadim ra hiệu lệnh cho một toán kỵ binh mười người phi theo sau Vigor. Lời con quỷ nói thì quả thật khó tin, nhưng chẳng thể nào mà phớt lờ được. Hadim cứ thầm mong những lời mà lũ quỷ đã thốt ra đều là những lời bịa đặt xảo trá nhằm làm cho binh sĩ sợ hãi, nao núng tinh thần. Đối với Hadim công danh thì hấp dẫn, nhưng sự an toàn của Eleana là quan trọng hơn hết.

    Vigor phi ngựa ở phía trước, nhìn ngó xung quanh để tìm kiếm điều bất thường. Khắp nơi chỉ toàn một màu xanh, tán lá xanh trên cao, cỏ xanh trên nền đất, đến những tảng đá thô ráp lạnh lẽo cũng được phủ một màu rêu xanh. Nếu như con quỷ cũng có nước da xanh thì kiểu gì cũng trở thành tàng hình ở đây. May sao lũ quỷ lúc nào cũng đen như than, đen như cái tâm địa tàn độc mà con người gán cho chúng. Và thế là Vigor chợt nhìn thấy một cái dáng dấp đen như quỷ hiện hình giữa một rừng xanh, đang di chuyển thấp thoáng sau những hòn đá tảng và thân cây sồi cũng phủ rêu xanh nốt. Vigor thấy cái bóng đáng ngờ, bèn thúc ngựa đuổi theo, chẳng hay biết là lúc này đoàn của chàng ta đã bỏ lại đoàn của Hadim khá xa ở phía sau.

    Lúc sắp tới gần, Vigor giương cung tên và hét. – “Kẻ lạ mặt kia! Hãy đứng im!”

    Tiếng la to của Vigor lẫn tiếng vó ngựa vang lên làm cho bóng đen kia chợt giật mình, ngoái đầu lại nhìn, rồi liền nhanh chân bỏ chạy, thấp thoáng ẩn mình, luồn lách sau những thân cây và tảng đá lớn. Bóng đen có thân hình như người, nước da đen nhưng thoáng có sắc xanh lam, tóc đen bện dài từ đỉnh đầu xuống tới mông. Hình dáng hắn đúng là dị hợm, quái lạ, nhưng rõ không giống đám quỷ đen thường thấy. Hắn cao hơn và gầy hơn. Hắn không mặc áo giáp mà chỉ có áo vải, đóng khố, trên tay là một vật kì lạ đen đúa trông tựa như một cây chùy.

    Thấy kẻ lạ kia chẳng đứng lại như yêu cầu, Vigor liền phóng tiễn chẳng ngần ngại. Mũi tên bay vút trong không khí nhắm thẳng thân mình của kẻ đó. Nhưng bóng đen đó liền trở người, vung chùy và đánh bật mũi tên rồi tiếp tục bỏ chạy. Vigor hết sức kinh ngạc, liền liên tiếp tra tên vào cung bắn ra nhiều mũi, tuy nhiên đều bị dị nhân kia đánh bật lại hết thảy.

    Chạy trốn mãi cho tới một thời điểm nào đó, kẻ dị nhân kia la to bằng thứ tiếng quỷ mà hiển nhiên là Vigor không thể hiểu nổi. Nhưng dù có hiểu chính xác cái ý nghĩa của tiếng la đó hay không thì chẳng quan trọng bằng việc ngầm hiểu là: có đồng bọn của kẻ đó đang ở đâu đây. Điều này làm Vigor chợt giật mình định thắng ngựa lại, nhưng đã quá trễ. Một thứ vũ khí đen đúa trông như một cái rìu từ đâu bất ngờ phóng thẳng vào cổ con ngựa, làm nó đau đớn hí dựng ngược lên rồi đổ gục xuống, kéo Vigor ngã theo và kẹp luôn cả chân chàng dưới thân hình nặng nề của nó. Cú ngã đè làm chân Vigor gãy ngay tức khắc. Con ngựa sau đó gượng đứng dậy, đau đớn nhảy lồng nhảy loạn lên. Cái chân gãy của Vigor vẫn còn bị mắc vào bàn đạp, thế là chàng ta bị con ngựa kéo giật chân, liên hồi xốc người lên rồi đập lưng xuống nền đất thô cứng mấp mô. May sao còn có cái khiên sắt ở trên lưng, bằng không thì Vigor gãy lưng là chắc. Cái chân gãy bị kéo giật làm cho Vigor đau tới mức khóc thét cả lên. Riêng con ngựa thì sau đó bước đi lảo đảo vài bước rồi gục hẳn bên một gốc cây, miệng trào máu.

    Nhóm kỵ binh mười người theo sau liền giương cung và giáo ra, tạo thành vòng tròn hộ vệ vây lấy đội phó đang rền rĩ đau đớn. Từ trên những tán lá cao, nhiều hình dáng đen khác nhảy bổ xuống đạp các kỵ binh ngã khỏi ngựa, trên tay cầm vũ khí cận chiến sắc nhọn lao vào tấn công họ. Kỵ binh ngã ngựa liền vội đứng dậy tuốt gương bên hông, lấy khiên giắt trên lưng ra thủ thế. Lũ người đen vung đòn đánh thì các chiến binh tay trái giương khiên sắt ra đỡ, âm thanh va chạm vang lên loong coong như tiếng đánh cồng, tay phải thì vung kiếm lên đánh trả. Bọn chúng chẳng có giáp, cũng chẳng có khiên, thế nên người lính chẳng phải tốn sức nhiều để chém gục một tên. Chỉ có điều là địch quá đông và liều mạng.

    Trong lúc hai bên đang giao chiến căng thẳng và dữ dội, một kẻ da đen mò tới gần Vigor tội nghiệp đang lê lết. Trên tay hắn lăm lăm một cây chùy với đầu chùy có các ngạnh sắc nhọn. Hắn giơ chùy lên toan bổ thẳng xuống đầu Vigor, nhưng từ đâu một mũi tên vút bay tới và găm thẳng vào cổ hắn ta, làm hắn trợn mắt kinh hoàng, tay buông vũ khí ôm lấy họng, miệng trào máu, lảo đảo bước lùi lại rồi ngã ngửa ra đất. Đó chính là mũi tên của Hadim. Toán quân của chàng đã bắt kịp đoàn của Vigor đang bị bủa vây tấn công.

    Hadim và các kỵ binh tiếp tục bắn ra nhiều mũi tên nhắm thẳng đám người đen. Tưởng chừng đám người đen sẽ hoảng sợ rút lui, thì đột nhiên trên cây cao lẫn dưới những hốc đá, gốc cây xuất hiện thêm nhiều tên người đen khác lao ra bao vây các chiến binh. Chúng phóng vũ khí nhằm vào ngựa, làm cho ngựa phải hí dựng lên, hất các chiến binh ngã khỏi ngựa. Trong số đó có ngựa của Hadim, nhưng chàng nhanh trí nhảy bật khỏi yên nên không bị đè như Vigor nông nổi. Hadim liền tuốt gươm bên hông, rút khiên trên lưng, thủ thế sẵn sàng giao chiến với quân địch.

    “Tập hợp đội hình! Đứng sát vào nhau, nâng cao khiên lên, giương kiếm ra!” – Hadim hét lớn.

    Tức thì các chiến binh ngã ngựa đứng chụm lại thành vòng tròn và giương khiên ra các hướng, tạo thành một pháo đài người kiên cố, bao vây, che chắn cho Vigor. Những ai chưa ngã ngựa thì giương tên ra bắn, tận dụng khả năng quan sát từ vị trí cao. Một số khác thúc ngựa lao lên tông thẳng vào đám địch.

    Trong khi đó kẻ địch lại tiếp tục kéo đến mỗi lúc một đông. Từ trên cao chúng nhảy ôm chầm lấy kỵ binh rồi kéo họ ngã khỏi ngựa. Chúng nhảy đè xuống đầu các chiến binh, gây náo loạn, phá vỡ đội hình từ bên trong. Từ phía ngoài, chúng lao đến và nhảy bổ vào đội hình, người lính nào đứng trụ không vững thì bị tông cho ngã ngửa ra sau. Liên tục những pha lao mình tự sát như vậy khiến cả đội trở nên lúng túng, phát hoảng, không biết đường chống đỡ hữu hiệu. Theo thời gian đã có nhiều người gục xuống. Hadim thấy tình thế không ổn liền ra lệnh tháo lui, sai hai người lính đỡ Vigor dậy, dìu lên ngựa.

    Từ xa, tên người đen mà ban đầu Vigor phát hiện, đang cầm trên tay vũ khí và tiến thẳng về phía Hadim. Kẻ này tiến tới gần mới thấy thân thể hắn to lớn, phong thái thì điềm tĩnh khác hẳn đám lôm côm còn lại, ra dáng một thủ lĩnh. Hadim nhận ra điều đó và quyết định là sẽ giao chiến với hắn, bởi chàng nhận định chỉ cần hạ được hắn thì đám còn lại sẽ như rắn mất đầu, thôi không lao tới nữa.

    “Cung thủ! Mau bắn hạ thằng to xác kia!” – Hadm chỉ kiếm về phía tên thủ lĩnh.

    Một mũi tên được bắn ra, được nhắm chuẩn xác, nhưng vẫn không thể trúng bởi kẻ kia đã vung chùy đánh chặn. Thế là tiếp theo đó ba mũi tên được đồng loạt bắn ra, Hadim muốn thách thức xem hắn sẽ đỡ bằng cách nào. Thế nhưng vẫn chẳng có một mũi tên nào găm trúng vào người hắn. Hắn vừa né mình tránh một mũi tên vừa vung chùy đánh bật một lúc hai mũi tên, dễ dàng như thể đó là mấy cây tăm, cọng rơm chứ chẳng phải mũi tên chết người nữa.

    ‘Kẻ này khó nhai rồi!’ – “Bảo vệ đội phó! Đưa hắn ra khỏi đây!” – Nói xong, Hadim liền thủ thế, sẵn sàng giao chiến với tên thủ lĩnh.

    Hadim dùng hết sức vai lực tay, vung kiếm chém nhanh, dứt khoát và liên tục. Nhưng chàng không ngờ tên thủ lĩnh to thân lớn xác lại có thể uyển chuyển né đòn dễ dàng, nhẹ nhàng như một chiếc lá đung đưa trong gió. Rồi hắn chợt phản công bằng những cú đánh uy lực và mạnh như búa bổ, làm cho cái khiên biến dạng và cánh tay trái của Hadim phải run giật tê tái. Hadim tức giận vung kiếm trả đòn, nhưng hắn không thèm né nữa, thay vào đó là đòn vừa đánh bật đường kiếm vừa đánh trả lại. Cú đánh ập tới quá nhanh, khiến Hadim phải hốt hoảng xoay người đưa khiên ra đỡ. Hadim cứ thế phải chống đỡ chật vật chứ đừng nói gì tới việc hạ được kẻ địch kia có sức mạnh và tốc độ phi thường. Rõ ràng hắn áp đảo cuộc đấu.

    Rồi tên thủ lĩnh tung ra một cú đòn mạnh cực lực làm Hadim mất thăng bằng và ngã ngửa ra sau. Một cú tạt cực mạnh nữa của hắn làm Hadim rơi luôn kiếm. Hắn tiến tới gần, nắm lấy cổ áo Hadim và kéo xốc đứng lên. Hadim ra sức vùng vẫy, nhưng không thể nào thoát được bàn tay cứng như gọng kìm của hắn. Chàng còn vung tay vung chân đấm đá túi bụi vào mặt hắn, nhưng trông hắn chẳng xi nhê gì, xương thịt của hắn cứng như là thép nguội, hắn còn cười ngạo nghễ đắc thắng nhìn chàng.

    Tên thủ lĩnh thúc đầu mạnh vào mặt Hadim làm chàng choáng váng và gãy cả sống mũi. Lúc đó, trong giây lát, Hadim chợt nhớ lại những gì con quỷ ghê tởm kia đã nói, rằng thủ lĩnh của chúng sẽ chặt đầu chàng, rồi ăn thịt chàng, thậm chí hắn sẽ ngang nhiên sải bước ngay dưới ánh sáng ban ngày. Thế ra những gì con quỷ nói đều là thật, còn chàng thì ngu ngốc tự chui đầu vào rọ của địch. Hadim tự trách mình. – ‘Phải chi ta cứ theo như kế hoạch từ đầu, chỉ cần thấy bóng dáng quỷ là rút được rồi. Nhưng ta không thể thấy Vigor gặp nguy mà không cứu được. Ta không thể giương mắt đứng nhìn người thân của ta bị quỷ giết hại được. Ta thề sẽ không để một người thân nào của ta phải chết dưới tay quỷ nữa.’

    Sau cùng hắn dùng nắm đấm thúc mạnh vào cằm Hadim, làm chàng đau choáng rồi bất tỉnh.

    Vigor từ xa trông thấy liền ra lệnh cho binh sĩ mau giải cứu Hadim. Tuy nhiên, khi các chiến binh thấy chỉ huy của mình bại trận thì mọi ý chí chiến đấu đều tan biến. Giả như Vigor có thể cầm gươm lao lên thì họ cũng sẽ lao lên, nhưng chuyện đó chỉ là trong tưởng tượng. Quay lại với thực tế là họ đang bị vây đánh, địch thì vẫn cứ điên cuồng lao vào không ngớt. Họ giết chẳng ít kẻ mặt đen, nhưng từ sâu trong khu rừng chúng vẫn tiếp tục ùa ra đông như kiến.

    “Không được rối loạn! Thiết lập đội hình thoát ly! Rồi mau rời khỏi đây!” – Một binh sĩ lớn tiếng ra lệnh cho những người khác.

    “Buron! Không được!” – Vigor phản đối. – “Mau giải cứu đội trưởng!”

    “Lệnh bất khả thực thi! Kháng lệnh!” – Buron lớn tiếng. – “Mau nhanh chóng rút lui! Càng ở lâu càng nguy hiểm cho cả đội.”

    Đám binh sĩ nghe theo Buron, duy trì đội hình vòng tròn để phòng thủ và đánh trả, từ từ tháo lui khỏi vòng vây địch. Mặc dù họ vẫn chưa thực sự ra khỏi khu rừng, nhưng dường như mọi sự đã tai qua nạn khỏi. Đám người đen không hề đuổi bám theo họ, chúng chỉ đuổi đánh một đoạn ngắn, rồi đứng lại phóng vũ khí bay loạn xạ về phía họ như đang ra sức xua đuổi kẻ xâm lược.

    Vigor dùng dằng muốn ở lại, nhưng đám lính cứ lôi kéo chàng đi, cho tới khi họ đã ra khỏi khu rừng. Những kẻ bại trận thở phào nhẹ nhõm và vui mừng khi đã vượt xa khỏi bóng của những tán cây cao để nhận lấy ánh nắng chiếu vào mặt họ. Tuy nhiên, niềm vui không kéo dài được bao lâu vì họ nhận ra đây là vệt nắng chiều ấm áp cuối ngày. Họ sẽ phải chiến đấu với thời gian để hòng về đồn kịp, trước khi bóng của rặng núi Cực Tây nuốt chửng cả thế giới, chạy trốn khỏi màn đêm đầy rẫy chết chóc đang bủa vây, đe dọa dập tắt mọi hy vọng sống, mặc cho Vigor vẫn còn đang kêu gào khóc thương cho người thân duy nhất còn lại của hắn trên đời.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 19-03-2017 lúc 21:51.

    ---QC---


  10. Bài viết được 3 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,kira,samki1998,
Trang 2 của 12 Đầu tiênĐầu tiên 1234 ... CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status