TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 8 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 678910 ... CuốiCuối
Kết quả 36 đến 40 của 59

Chủ đề: Nghiệp

  1. #36
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người


    ‘Từ thưở ban đầu của tất cả, chẳng có thứ gì tồn tại. Vô hình hay hữu hình, tất cả đều không. Kể cả là thời gian. Thế giới, không, đó không phải là thế giới. Lúc đó thế giới chưa tồn tại, không có thứ gì lúc đó để định nghĩa được thế giới. Lúc đó chỉ có một khái niệm duy nhất: cõi hư không bất tận. (the boundless void)

    Rồi bỗng chợt vào thời điểm khai sáng, Đấng Tối Cao xuất hiện. Người toàn năng và phép màu như chính sự xuất hiện màu nhiệm của Người. Người đã mở ra thời kì khai sáng và kiến tạo.

    Đầu tiên, Người tạo ra bánh xe thời gian vĩnh cữu và quay nó. Một khi chiếc bánh đã quay thì nó sẽ không bao giờ dừng lại. Và mỗi lần khi nó thực hiện xong một vòng quay thì chính là thời gian một năm đã trôi qua. Người đã sinh ra thời gian.

    Tiếp đó, Người tạo ra ánh sáng. Bằng chính ánh sáng kì diệu của Người, bóng đêm và sự bất tận của cõi hư vô đã được định nghĩa. Để đáp trả lại sự bất tận của cõi hư vô, Người hóa thân thành quang tinh cầu vĩ đại (great orb of light), tỏa ra luồng sáng mãnh liệt tới mức lấp đầy cả cõi hư vô tưởng chừng bất tận. Thế rồi, lúc đó Người bỗng chợt nhận ra rằng, nếu không có bóng đêm kia thì ánh sáng màu nhiệm của Người còn có ý nghĩa gì? Người khiêm tốn thu mình lại và rải những hạt bụi sao ra khắp cõi hư vô. Nơi nào hạt bụi ánh sáng chạm đến thì nơi đó chính là lãnh địa kiêu hãnh của Người. Lãnh địa đó được gọi là vũ trụ, là vũ trụ đầy sao lấp lánh và sự hiện diện uy quyền của Người.

    Vũ trụ chẳng thể là đủ để Người thể hiện quyền năng, Người quyết định tạo ra Thế Giới. Từ lòng bàn tay của Người tỏa ra ánh sáng màu nhiệm. Ánh sáng tỏa chiếu đến đâu thì nguyên tố kết tinh tới đó. Nguyên tố đầu tiên mà Người tạo ra chính là đất. Rồi sau đó là lửa, không khí và nước.

    Người phấn khích trước tạo tác của mình, nhưng lại chẳng được lâu. Thế Giới mà Người tạo ra nếu không có ánh sáng hay hơi thở của Người, chúng trở nên bất động và vô nghĩa như chính bóng tối thăm thẳm kia. Người muốn tạo ra thứ gì đó sống động. Thật sống. Người quyết định tạo ra sự sống.

    Một cái vung tay đầy những hạt bụi ánh sáng, Người gieo ra những hạt mầm sự sống đầu tiên. Kia là đất và đồi, cây cỏ sẽ phủ xanh nơi này và muôn thú sẽ rong ruổi. Kia là đại dương, kia là sông suối, cá sẽ đầm mình nơi đây. Kia là bầu trời và núi cao, chim chóc sẽ tự do bay lượn và đại bàng ngự trị nơi tầng mây. Kia là lửa, sự sống sẽ tránh xa và chỉ có rồng là thích chí chơi đùa.

    Người say sưa thưởng lãm tuyệt tác sống động của mình, rồi kiến tạo, rồi nhìn ngắm, rồi lại kiến tạo. Người cứ thế bận rộn mà chẳng mảy may nhận ra rằng xa kia bên ngoài vũ trụ của Người, có con quái vật bóng đêm đang ẩn mình trong bóng tối vô cực và dòm ngó Thế Giới của Người. Con quái vật đó là chúa tể của bóng tối, cai trị vùng tối còn lại của cõi hư vô. Con quái vật chẳng rõ từ đâu tới, chỉ biết là nó đang say giấc ngủ tưởng chừng như kéo dài đến bất tận trong thế giới tăm tối, thì bị đánh thức bởi luồng sáng mãnh liệt của quang tinh cầu vĩ đại.

    Giận dữ vì vương quốc tăm tối và im lặng của mình bị ánh sáng xâm phạm, chúa tể bóng tối mò tới vũ trụ của Đấng Tối Cao với dã tâm dập tắt ánh sáng và nhấn chìm Thế Giới trong bóng tối.

    -Finnler ký trình-’

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 7: Hướng của mỗi người


    Đoạn 1


    Tarbas, Đại Điện Nhà Vua

    Mũi tên đã khiến cho nhà vua Leonin tức tốc về đại điện ngay, phớt lờ luôn nhiệm vụ đương dang dở của một chủ tế. Đó là một cú ám sát hụt, nhà vua quả quyết như thế. Lại thêm câu nói nửa đùa nửa thật của tể tướng Ramses về mũi tên có độc khiến cho nhà vua càng thêm lo sợ, liền triệu gọi những thái y giỏi nhất trong triều đến ngay lập tức.

    Vị danh y nổi tiếng nhất kinh thành lúc bấy giờ là Khranes. Cũng chính vì danh tiếng mà ông lại đâm ra luống cuống khó xử, khi mà đột nhiên cả tể tướng lẫn nhà vua đều đồng thời lệnh triệu gọi ông, khẩn cấp. Là nhà vua, ông phải tuân lệnh nhà vua trước, phải ghé qua đại điện trước. May sao đó chỉ là một mũi tên vô hại, cũng như chỉ là một tai nạn theo cái ý nghĩ của Vigor, thế nên vừa ở chỗ nhà vua xong thì ông liền đến ngay chỗ tể tướng.

    Không chỉ gọi đại phu mà nhà vua còn điều động tới quân sĩ. Lệnh phong tỏa được ban ra khắp kinh thành, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Lễ hội cũng bị giải tán sớm, người dân bị quân lính xua trở về nhà, như cừu bị lùa nhốt chuồng. Đám lính còn được lệnh phải rà soát, lùng bắt và tra khảo những kẻ lạ mặt có hành tung đáng ngờ. Còn ở tòa đại điện, số quân tuần gác tăng gấp đôi, lại tăng thêm gần trăm hộ vệ canh gác cố định. Bấy giờ khắp nơi trong và ngoài đại điện đều có bóng dáng lính gác, dễ bề nhỏ bé như chuột bọ cũng không thoát khỏi tầm mắt rà soát.

    Đã qua nửa đêm mà nhà vua vẫn còn chưa ngủ, nhốt mình ở trong thư phòng ngột ngạt cùng với bốn hộ vệ giáp phục kín mít, lòng cảm thấy nơm nớp bất an, lo sợ. Không ai được phép ra vào phòng, trừ các cá nhân thân tín với nhà vua hay được nhà vua triệu gọi. Tu sĩ Hoséfin là một trong số đó.

    “Hắn rõ ràng muốn giết ta! Hắn đã toan tính quyết động thủ trước! Hoséfin! Ta phải làm sao đây?” – Leonin sắc mặt tái nhợt, miệng cắn chặt ngón tay cái, người chốc chốc lại run lên. – “Maril! Chắc chắn là lũ Maril! Lũ bóng ma! Chắc chắn chúng đã ở đó! Sau bấy nhiêu năm, ta cứ tưởng hắn đã giải tán đám Maril. Rõ ràng lần này hắn quyết một phen sống mái với ta mà!”

    “Ông ta rõ là đã có tựa lưng vững chắc nên mới manh động như vậy. Kể cả khi ngài thoát nạn và quyết tâm trả đũa thì ông ta cũng chẳng phải sợ.” – Hoséfin phân tích vẻ điềm nhiên. – ‘Ta thì cứ tưởng Maril chỉ là một chuyện đồn thổi.’ – “Kẻ thích khách kia giờ đang ở đâu?”

    “Quân lính đã bắt hắn.” – Leonin vò đầu. – “Là quân của Ramses.”

    “Vậy thì tiểu thần chịu rồi.” – Hoséfin nhún vai.

    “Thế thì các ngài có thể làm gì được cho ta cơ chứ!?” – Leonin giận dữ trợn mắt, chất vấn Hoséfin, chốc chốc lại nghiến răng rền rĩ vì cái chân đau. – “Các ngài có thể bảo vệ ta chăng? Chẳng lẽ Đại Tư Tế không tin sự tồn tại của cái chương trình quân sự bí mật của hắn sao? Nó quá rõ ràng, nó hẳn phải tiến triển tới cái mức độ khủng khiếp nào đó, đủ để khiến hắn manh động tới như vậy. Xin nhớ rằng cái mạng ta chỉ là chuyện nhỏ, nhưng tinh thần tự do của ta, lý tưởng của ta sẽ bị nghiền nát thành cát bụi! Và cả Lucar nữa!”

    “Xin đức vua hãy bình tĩnh!” – Hoséfin giơ bàn tay lên ra hiệu. – “Không cần phiền đến đức Thánh. Chuyện này sẽ có thánh sĩ Vondin lo liệu. Tạm thời trong thời gian này xin đức vua hãy lánh lại trong cung, tránh ra ngoài nếu không có thánh vệ sĩ hộ giá.” – ‘Kẻ dị giáo này được bảo bọc trong nhung lụa, sức chịu đựng lẫn sức chiến đấu là không có.’

    ~~~Tarbas, Dinh Tể Tướng, nhiều ngày sau sự kiện đại lễ~~~

    Vigor chợt hồi tỉnh khỏi cơn hôn mê, nhưng mắt lại mở không ra, khắp mình đau nhức, đầu óc nặng nề, chẳng thể nhớ được gì trong giây thoáng. Đương trong cơn mơ màng chàng nghe thấy xung quanh có tiếng người nói chuyện.

    “Tiểu thần tài hèn sức mọn, mấy ngày qua đã thử hết cách nhưng chẳng thể làm hắn hồi tỉnh. Thôi thì số phận đã an bài, thần nghĩ ta nên lo hậu sự cho hắn thì hơn.” – Giọng của một lão niên, vẻ cung kính.

    “Không được! Thái y phải cứu hắn. Kẻ này không thể chết.” – Giọng của một trung niên khác, vừa uy quyền mà cũng vừa cầu khẩn.

    “Thưa đại nhân, tiểu thần thực không thể. Kẻ này rơi từ cao xuống mà còn thở thì đã là mạng lớn lắm rồi. Để hắn bất tỉnh, nếu có trách thì chỉ có thể trách đám cấm vệ đã quá lỗ mãng. Đó là chưa kể tới nội thương do cú ngã, kể cả khi hắn không bất tỉnh đi chăng nữa, thì kiểu gì hắn cũng chết do nội thương.”

    “Chẳng lẽ ngài đành bó tay thật sao?”

    “Mạng hắn giờ là do trời định đoạt. Kẻ thường mất nước ba ngày là đã chết. Quá ba ngày rồi mà hắn còn thở thì mạng còn lớn. Trớ trêu là, mất nước thì gây hôn mê, mà càng hôn mê thì càng không uống nước được. Nói chung là, tiểu thần không thể giúp được hắn.” – Lão thái y phân trần.

    Vị đại nhân kia thở dài thất vọng, nhưng vẫn cung kính nói. – “Dù sao ta cũng rất biết ơn thái y đã tận tình cứu chữa những ngày qua!”

    ‘Hãy luôn kính trọng thầy thuốc và chiến binh. Chỉ có họ là dám thách thức ý chí của Vudai.

    -Ramses ký trình-’


    “Tiểu thần không biết phải làm gì nữa. Xin phép đại nhân được cáo lui.”

    “Vậy không làm phiền ngài nữa. Đã trễ rồi, ngài đi cẩn thận.”

    “Thần xin được nói lời cuối. Hễ còn hơi thở là còn hy vọng cứu. Nhưng kẻ này…” – Vị thái y thở dài, lắc đầu vô vọng, sắc mặt rầu rĩ. – “con mắt nghề y của thần mách bảo rằng đó là hơi thở của kẻ hấp hối. Ta giờ chỉ có thể chờ đợi và cầu khấn mà thôi.”

    “Đây là đâu?” – Vigor mở mắt và thều thào, thấy mình đang nằm trên giường đệm bông trắng, đắp chăn bông trắng, ở trong một căn phòng tường đá phẳng lì vuông vức. Khắp phòng là những món đồ nội thất đắt tiền, như ghế đệm nhung, tranh thêu lụa treo trên tường... Ngay gần sát bên đầu chàng là ngọn đèn dầu bằng đồng, chạm khắc cầu kì tinh xảo, đặt trên một cái bàn gỗ đen được sơn nhựa bóng loáng.

    ‘Ô chết tiệt! Mất mặt quá! Cái đồ khốn này sao lại tỉnh ngay lúc này được cơ chứ!’ – Lão thái y lật đật chạy trở lại bên giường, thoáng nhìn thấy cái cau mày không hài lòng của vị đại nhân kia, chợt thót sợ. – “Đừng cử động mạnh! Đừng làm nội thương thêm trầm trọng!” – Lão lấy một cái khăn bông sạch đem ngấm ướt nước sạch, rồi đưa lên bờ môi khô nứt vì thiếu nước của Vigor và bóp nặn ra dòng nước. – “Uống từ từ thôi.”

    Vigor ho sặc nảy người, rền rĩ đau đớn vì vết thương.

    “Từ từ thôi. Đừng nói gì cho tới khi ta thấy mồ hôi đổ ra.”

    “Tôi đang ở đâu?” – Vigor thều thào.

    “Phủ của ta.” – Vị đại nhân kia đáp và tiến lại gần, đi vào trong tầm mắt của Vigor.

    Chưa bao giờ một tên lính vô danh tiểu tốt như Vigor lại có thể tiếp kiến vị tể tướng đương triều uy nghiêm, lừng lẫy ở trong một hoàn cảnh kì lạ như vậy. Tể tướng Ramses hiện ra là một người có vóc dáng to lớn, lưng dài vai rộng chẳng thua gì một lực sĩ. Mặt ngài xương, da hằn nhiều vết sẹo của thời gian, nhưng cái ánh mắt vẫn còn tinh tường, cái thần thái vẫn còn uy nghi. Mái tóc của ngài dài và bạc trắng, vuốt ngược hết ra sau để lộ vầng trán cao trí tuệ. Mọc dưới cằm ngài là một chòm râu nhỏ bạc trắng, được tỉa tót vuốt nhọn.

    Ngài vận bộ áo choàng dài thắt eo thêu họa tiết cầu kì. Nhiều chỗ trên ngực, eo và tay áo còn được thêu đính thêm các sợi vàng, sợi bạc. Hay thậm chí là đá quý, ngọc trai lấp lánh, khi ta nhìn vào thì nghĩ ngay đến vẻ sang trọng, xa hoa tột cùng. Trên vai ngài có phủ thêm một lớp áo choàng, cũng thêu đính cầu kì phức tạp, phía sau mặt lưng là họa tiết hình linh vật kỳ lân. Đeo trên cổ và hai tay ngài là các món trang sức chạm khắc tinh xảo, vòng cổ, dây chuyền, vòng tay, nhẫn vàng được đính ngọc. Tuy nhiên, đối với ngài thì những thứ phục trang óng ánh kia chỉ rõ nặng nề và nóng nực. Mấy món trang sức thì rõ rườm rà, vướng víu, nhưng chúng lại đóng vai trò quan trọng không thể thiếu để tô vẽ thêm quyền uy của ngài trước thiên hạ.

    Tức thì Vigor hoảng sợ cái uy quyền đó, toan nhổm người dậy, bò ra khỏi giường để quỳ hành lễ. Nhưng chàng vừa nhổm lên thì cơn đau nhức gay gắt ập đến khắp cả mình. Thái y liền cản chàng lại. – “Ta đã bảo là không được cử động mạnh mà lại.”

    “Không cần thi lễ.” – Ramses úp bàn tay phải xuống. – “Cứ nằm yên đấy. Làm theo yêu cầu của thái y Khranes.”

    “Xin thứ cho tiểu nhân thất lễ!”

    “Bỏ đi. Ngươi là ai? Trông có vẻ là lính Tarbas. Cái này là có ý gì?” – Ramses rút ra mảnh vải trắng. – “Ngươi định gửi cho ai?”

    “Bẩm! Tiểu nhân là Vigor, sĩ quan phó đội đóng quân tại Đồn V, biên giới Tây Nam. Tiểu nhân đến là có tin hệ trọng muốn cấp báo với đại nhân.”

    “Tin hệ trọng cho ta?” – Ramses cau mày, vẻ không hài lòng, lật mảnh vải hiện chữ ra. – “Ngươi gọi cái này là tin hệ trọng hả?”

    “Kó, nọi, dán?!” – Lão Khranes đọc to từng chữ, nhíu mày vẻ khó hiểu.

    “Ơ là ‘có nội gián’.” – Vigor thanh minh. – “Ý của tiểu nhân là như vậy.”

    Ramses vẫn cau mày, thốt lên. – “Từ khi nào mà trình độ văn hóa của đám sĩ quan lại đổ đốn tới mức này?!”

    Vigor vẻ bẽ mặt, xấu hổ. – “Dạ... tiểu nhân... dốt nát...”

    Ramses xua tay. – “Bỏ đi. Ngươi biết ai là nội gián của Leonin, hay chỉ đơn giản là biết hắn có cài nội gián?”

    “Đức vua Leonin ư?” – Vigor ban đầu ngạc nhiên, sau đó thì biết chàng lại mắc sai lầm khi lại nhìn thấy cái cau mày không hài lòng của tể tướng. – “Ý thần là nhiếp chính vương Leonin. Ngài ấy có vấn đề gì ở đây ạ?”

    Ramses chợt nhướng mày, sau lại cau mày. – “Vậy kẻ đó thuộc phe nào?”

    “Tiểu nhân không biết chúng là phe nào. Nhưng tiểu nhân biết chúng là một lũ bí hiểm và âm mưu của chúng thì thâm độc. Chúng cướp thuế của chúng ta, cướp vũ khí của chúng ta, cướp tài nguyên của chúng ta. Chúng đục phá cột trụ kinh tế và quốc phòng của ta như lũ sâu mọt. Xin ngài hãy cho quân đi điều tra và tiêu diệt chúng ngay!”

    Ramses nhíu mày vẻ khó hiểu, rồi lại cau mày. – “Đừng gấp (save your breath). Hãy kể cho ta toàn bộ câu chuyện của ngươi, ngay khi thái y cho phép nhà ngươi nói.”

    ~~~~~~

    ‘Con quái vật nuốt chửng những vì sao, vũ trụ của Đấng Tối Cao cứ thế mà bị thu nhỏ lại. Khi Người bất chợt nhận thấy có điềm hung dữ thì con quái vật đã tiến tới cận kề tạo tác của Người. Sớm nhận ra dã tâm của quái vật, Người liền lao tới chặn đứng nó. Từ bàn tay Người ánh sáng nhiệm màu phát ra và hóa thành thanh gươm ánh sáng. Một tiếng gọi của Người phát ra và tất thảy những vì sao hóa thành những chiến binh ánh sáng. Những chiến binh ngôi sao của Người nhỏ bé nhưng đông đúc và quả cảm, nhất loạt xông lên với quyết tâm đánh đuổi thế lực hung ác.

    Trận chiến ác liệt giữa ánh sáng và bóng tối, giữa sự sống và cái chết, giữa thánh thiện và hung ác đã diễn ra nảy lửa. Càng nhiều chiến binh xông tới con quái vật, càng nhiều chiến binh rơi xuống Thế Giới. Thân xác lấp lánh của họ tạo thành cơn mưa ánh sáng và lụi tàn trước khi kịp chạm mặt đất. Các vì sao trên trời cứ thưa dần thưa dần theo thời gian, sức mạnh của ánh sáng cứ thế mà yếu đi. Còn quái vật bóng tối thì không hề tỏ ra suy suyển chút nào. Thanh gươm ánh sáng của Đấng Tối Cao không thể nào cắt lìa thân thể bóng tối. Hễ chặt đứt bóng tối thành từng mảng thì chúng ngay sau đó lại hòa nhập với nhau.

    Bánh xe thời gian từ lúc ấy vẫn cứ quay, quay hàng ngàn vòng, quay mãi, quay lâu thật lâu nhưng trận chiến vẫn chưa kết thúc. Thời gián cứ trôi đi cho tới khi đội quân ngôi sao bị tan vỡ hết, cũng là lúc con quái vật xông lên nuốt chửng Đấng Tối Cao. Nó liền tỏ ra tự mãn và toan nuốt chửng nốt Thế Giới. Thế nhưng, nó không hề hay biết cuộc chiến vẫn chưa kết thúc và Đấng Tối Cao vẫn chưa bị đánh bại. Từ bên trong con quái vật, Đấng Tối Cao một lần nữa hóa thân thành quang tinh cầu vĩ đại, tỏa ra ánh sáng màu nhiệm chói lọi, mãnh liệt chưa từng có. Thân xác bóng tối bị ánh sáng màu nhiệm thiêu đốt từ trong ra, vỡ nát thành từng mảng tối và rồi tan biến vĩnh viễn.

    Lực lượng ánh sáng hân hoan trong niềm vui chiến thắng vĩ đại. Đấng Tối Cao cũng sớm nhận ra một phần thân xác bóng tối của con quái vật đã kịp tẩu thoát trở về miền tăm tối. Đức thánh thiện của Người là đại diện của khởi sinh, cái ác tăm tối lấy tận diệt làm lẽ tồn tại, Người tận diệt cái ác thì há cũng trở thành cái ác. Con tim thuần khiết của Người chẳng hề nghĩ tới tận diệt mà còn mở lượng khoan dung cho phép nó tồn tại. Tâm trí khai sáng của Người không hề nghĩ tới xâm lấn bóng tối mà chỉ nghĩ tới bảo vệ vũ trụ nhỏ bé của Người khỏi thế lực hung tàn.

    -Finnler ký trình-’


    ~~~Tarbas, Dinh Tể Tướng~~~

    “Cơ bản là không trí mạng. Xương thịt có thể hoạt động lại được, nhưng sẽ phải dưỡng thương rất lâu. Phép thử kim châm kết quả có phần tích cực, nhưng chưa đủ để nói lên điều gì chắc chắn.” – Khranes nói với Ramses khi hai người ra khỏi căn phòng. – “Thần vẫn sẽ quay lại thường xuyên để quan sát tình trạng của hắn.”

    Khranes trước đó thực hiện phép thử kim châm với Vigor. Đó là lấy một mũi kim và châm khắp người bệnh nhân, là để kiểm tra xem bệnh nhân có còn cảm giác nơi thân mình và tứ chi.

    “Cảm tạ ngài, sắp tới hắn sẽ còn phiền ngài nhiều. Có điều này là ta làm phiền ngài, làm phiền tình bạn giữa chúng ta.” – Ramses bất chợt đặt hai tay lên hai vai Khranes. Ngài tể tướng cao hơn vị thái y già nua hẳn một cái đầu, không khỏi làm vị thái y cảm thấy choáng ngợp, thầm kinh sợ trước hành động kì lạ. – “Hãy giúp ta điều này: ngài không hề hay biết gì về sự tồn tại của căn phòng này. Những điều ngài nghe, những thứ ngài thấy, những thứ ngài chạm phải, chúng đều không tồn tại, chưa từng tồn tại. Ngài giúp ta được chứ?”

    “Bẩm… bẩm… Căn phòng nào? Thần không biết căn phòng nào cả!” – Khranes lắp bắp.

    “Rất tốt! Ngài và căn phòng này, chỉ một trong hai được phép tồn tại.” – Ramses ôn tồn.

    “Thần… thần… biết mình phải làm gì. Xin đại nhân an tâm.”

    “Vậy thì tốt rồi. Ta chưa bao giờ nghi ngờ lòng trung thành của ngài. Hộ vệ sẽ hộ tống ngài về tư gia. Họ cũng sẽ đến đón ngài như mọi khi.”

    Tiễn thái y xong, Ramses cho hộ vệ canh giữ căn phòng nghiêm ngặt, rồi liền sau đó đi tìm Nimbus. Vừa đi qua một hành lang là ngài đã thấy Nimbus đang ngược chiều tiến lại.

    “Bẩm bề trên, ngài cho gọi…” – Nimbus cung kính chào, nhưng chưa kịp nói hết câu thì đã bị Ramses kẹp cổ bằng tay trái rồi kéo trở người đi cùng.

    “Ta sẽ có nhiều để nói, tốt nhất hãy nói trên đường đi.” – Ramses vẻ lầm lì.

    “Chúng ta sẽ tới đâu?” – Nimbus không tỏ ra ngạc nhiên mấy trước thái độ này của tể tướng, đây không phải là lần đầu ông bị kẹp cổ lôi đi như vậy, chỉ là luôn bị choáng ngợp trước cái vóc dáng cao lớn của tể tướng, nhất là khi bị ngài choàng tay qua vai và siết mạnh như lúc này đây.

    “Kho vũ khí.”

    “Bề trên muốn biết về tiến độ phát triển hay chăng?”

    “Không, ta sẽ kể chuyện cho nghe. Gã lính Vigor đã tỉnh, hắn biết chuyện buôn lậu.”

    “Nhanh thật! Thần biết hắn là kẻ có bản lĩnh.” – Nimbus phấn khích. – “Thần kì vọng là hắn biết nhiều thứ hay ho.”

    “Đúng! Hắn biết một số thứ mà ta không hề biết. Không hay ho, là những thứ cực kì nghiêm trọng. Bắt đầu từ…” – Ramses đang nói dở thì chợt đưa tay phải kẹp cổ một hộ vệ trung thành - vốn đang đứng gác phía bên cánh phải - rồi lôi đi theo cùng. – “Binh sĩ yêu cầu đội Tám cắt cử mười đơn vị đi Đồn V, biên giới Tây Nam, tìm sáu cái tên theo thứ tự ưu tiên: Orukrum, Frenen, Petersander, Gotsar, Bram, Carluso. Khẩn cấp, im lặng.” – Nói xong ngài thả người lính lại và quay trở lại với Nimbus. – “Ta bỏ rơi chỗ nào nhỉ?”

    “Bắt đầu từ.” – Nimbus nhắc.

    “Ta bắt đầu từ vũ khí. Vũ khí của ta báo cáo số lượng như thế nào?”

    “Dòng cũ hay dòng mới?”

    Dòng cũ: vũ khí trước thời kì của Nimbus. Dòng mới: phát minh của Nimbus.

    “Cũ.” – Ramses đáp.

    “Luôn đủ. Thần vẫn luôn để mắt kiểm soát. Ít nhất là từ khâu nhận thành phẩm từ lò rèn.”

    “Từ tổng kho quân các tới tay các đạo, các doanh thì như thế nào?”

    Các: tổng hành vụ các lực lượng, đứng đầu là ngũ quân thống chế (thống lĩnh bốn đạo là Đông, Tây, Nam, Bắc và vệ binh cấm quân), chính là tể tướng Ramses. Đạo: lực lượng của một miền, là tập hợp của nhiều doanh, đứng đầu là thống tướng. Doanh: lực lượng của tỉnh, là tập hợp của nhiều thành, chỉ huy bởi đề đốc.

    “Không còn thuộc quyền hạn của thần, là thuộc về các thống tướng và thuộc cấp chỉ huy. Bẩm bề trên, xin ngài tiết lộ ý nghĩa của việc này.”

    “Vũ khí của ta đang bị bán ra bên ngoài, ngay tại chợ lậu.”

    “Thần thấy có sự hiện diện của các vị tướng ở đây.” – Nimbus gãi cằm, vẻ chưa chắc chắn.

    “Ta thì chắc chắn. Nhúng tay sâu nữa là đằng khác. Lần cuối cùng ta phê duyệt bổ sung quân bị là khi nào?”

    “Hai năm ba tháng trước. Xuất xưởng chín trăm đơn vị cận chiến. Đó chỉ là bổ sung.”

    “Hãy tính luôn sửa chữa và thay mới.”

    “Một ngàn bảy trăm. Riêng đạo Tây nhận hết một ngàn năm trăm.”

    “Cứ cho một năm ta xuất ra một ngàn đơn vị vũ khí, thì mỗi đề đốc chỉ nhận về khoảng một trăm đơn vị hoặc ít hơn. Chừng đó là không đủ để cấp ra chợ lậu.”

    “Vậy là phải các vị tướng!” – Nimbus sửng sốt.

    “Hoặc cũng có thể là ngài.” – Ramses chợt siết mạnh tay, làm Nimbus phải giật mình. – “Ngài là kẻ kiểm soát số lượng lớn nhất.”

    “Cũng là người ít động cơ ngờ nhất.”

    “Đúng vậy, ta ít nghi ngờ ngài nhất. Vì ta chưa bao giờ từ chối ngài điều gì, phải không?” – Ramses trao cho Nimbus cái liếc nhìn đe dọa.

    Nimbus thì đáp trả lại bằng ánh mắt thách thức. – “Chuyện đó thì bề trên an tâm.”

    “Ta chưa yên tâm, vì thế ta cần tới kho quân bị của cấm quân.” – Tới đây thì họ đã tới ngay kho vũ khí.

    Ramses ngẫu nhiên chọn lấy một thanh kiếm trên giá, dùng ngón tay để tìm điểm cân bằng (point of balance), vung tay múa vài đường, rồi bất chợt vung chém mạnh vào tường. Sau đó ngài cho đặt thanh kiếm trên giá ngang, rồi lấy một thanh kiếm khác chặt mạnh lên. Khi quan sát độ sứt mẻ của hai thanh kiếm, ngài mới ra kết luận. – “Đạt chuẩn.”

    “Bề trên đang suy tính chuyện gì vậy?” – Nimbus hỏi.

    “Loại bỏ khả năng vũ khí bị tráo từ lúc ra lò.”

    “Tráo?”

    “Ta trước kia chỉ kiểm soát theo số lượng, không kiểm soát chất lượng. Để đạt số lượng, gian tế sẽ phải tìm cách tráo hàng kém phẩm chất vào. Đó là điều ta nghi ngờ.” – Ramses dứt lời thì tới rút kiếm của một cấm quân đang đứng gần đó và chặt mạnh lên thanh kiếm đặt ngang. – “Tạm thời tin tưởng cấm quân của ta vẫn đang dùng vũ khí đạt chuẩn. Tuy nhiên ta không chắc chắn điều này với quân sĩ các đạo.”

    “Ngài nghi ngờ các tướng cấu kết gian thương tráo hàng giả vào kho quân bị chăng?”

    “Chính xác là như vậy. Ngài lập tức cho thu hồi ngẫu nhiên một số vũ khí từ các đạo, từ kho quân bị lẫn đang sử dụng bởi quân sĩ.”

    “Thần tuân chỉ! Tuy nhiên điều này thần tin là không có gì đáng phải lo lắng.”

    “Tại sao?”

    “Công trình phát triển dòng vũ khí mới đang tới giai đoạn hoàn thiện. Sẽ sớm thay thế hoàn toàn dòng vũ khí cũ.”

    “Ta tin tưởng ở ngài. Các tướng không ai biết chứ?”

    “Thần tuyệt đối giữ kín bí mật với họ.” – Nimbus quả quyết. – “Có điều họ vẫn luôn tò mò thắc mắc vì sao ta dời lò rèn từ đây ra ngoài thành.”

    “Mặc kệ họ. Ngài cứ tìm cách nói dối. Cần phải làm vậy vì ta vẫn luôn nghi ngờ trong số họ có một kẻ phản trắc.”

    “Phản trắc? Thần đoạn nghĩ họ làm vậy vì một chút vun vén của cải cho cá nhân mà thôi.”

    “Là phản trắc! Ra chiến trận rồi, kiếm của ta có thể sứt mẻ, nhưng không được phép cong gãy. Một thanh kiếm gãy là một thanh kiếm chết. Một người lính chết là tinh thần chiến đấu chết đi một ít. Tinh thần mà đã chết thì không đánh cũng thua! Kẻ phản trắc là kẻ nối giáo cho giặc, làm cho quân ta thua từ trước khi ra trận!” – Nimbus giọng đay nghiến. – “Hắn chính là tên gián điệp! Nếu không sớm vạch mặt được hắn thì hắn sẽ còn mưu đồ phá hoại.”

    “Hắn có thể nối giáo cho ai, thưa bề trên?”

    “Là kẻ thù ngầm của chúng ta, những kẻ buôn lậu. Chúng lấy hết vũ khí tốt của ta, để trang bị cho quân của chúng. Ta vẫn chưa biết gốc tích lũ giặc người này là ai, nhưng biết chúng lại cấu kết với quỷ, đây mới là điều ta chưa bao giờ ngờ tới. Chúng chắc chắn chẳng phải người của đám Thiên Hội.”

    “Làm sao bề trên tin chắc chúng cấu kết với quỷ đen?”

    “Là kẻ Vigor kia cho ta biết. Hắn cam chắc chúng biết quỷ ngữ. Có biết quỷ ngữ thì mới tạo thỏa thuận được với quỷ. Có vậy chúng mới ung dung tổ chức chợ lậu ban đêm. Ta từ lâu đã ủng hộ giả thuyết này, vì thế mới không dám đưa quân ra ban đêm vây bắt.”

    “Bề trên quả có lý luận đúng đắn. Trước đó thần cũng đã nghi ngờ đám quỷ đen có đồng minh nào đó trên mảnh đất này, chỉ là không ngờ đó là con người. Cụ thể là khi khám nghiệm lại hiện trường Pirab, thần phát hiện thấy dấu tích của những mũi tên để lại trên thân cây, cho dù chúng đã tìm xóa hiện trường bằng cách dọn dẹp hết số tên. Quỷ đen ta biết chỉ dùng nỏ, uy lực xuyên thủng vượt trội. Quân Thiên Hội thì lại càng không dùng cung nỏ.”

    “Chúng quá tự tin ở ánh sáng. Quay lại vấn đề trước, các manh mối đã phù hợp với giả thuyết ban đầu. Các tướng, không chỉ là một, là kẻ phản trắc, nội gián của lũ giặc người, gián tiếp là đồng đảng của quân quỷ.” – Ramses kết luận.

    “Bề trên liệu đã có nghi ngờ vị tướng nào chưa?”

    “Chưa có.” – Ramses lắc đầu, trao cho Nimbus cái lườm dè chừng. – “Tuy nhiên nếu có thì ta cũng sẽ không nói cho ngài biết. Nhỡ trúng một cái tên thân thiết với ngài thì liệu ngài có cảnh báo cho hắn?”

    “Ý lệnh của bề trên nặng hơn cảm xúc cá nhân của thần.” – Nimbus điềm nhiên đáp. – “Thần sẽ chờ cho tới khi bề trên day tận mặt kẻ đó. Có điều, bề trên đã tính phương đối phó chưa?”

    “Nếu như gã Vigor kia nói thật, hắn sẽ có bằng chứng. Binh sĩ ta vừa phái sẽ đem về bằng chứng. Sớm thôi. Lúc đó ta và ngài sẽ có nhiều thứ để lo liệu.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    Dự chừng hết chương 7 sẽ treo phím lâu thiệt lâu để tiếp các chương 8, 9, 10, 11 và 12 là kết thúc năm của Tarbas.
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 09-05-2017 lúc 20:05.
    ---QC---


  2. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,
  3. #37
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 2


    ‘Người mất thêm mấy trăm năm nữa để kiến tạo thế giới. Ấy vậy mà Người vẫn không bao giờ cảm thấy mãn nguyện, Người muốn nặn ra một tạo tác hoàn hảo. Người cứ thế đẻ ra muôn loài, tạo ra vạn vật, nhiều đến nỗi Người luôn cảm thấy lạ lẫm trước các tạo vật. Các tạo vật mang hơi thở sự sống của Người nhưng lại không có lòng thành kính dành cho Người, ấy nên Người thất vọng.

    Từ tro tàn bụi sao, Người hồi sinh những chiến binh quả cảm và gọi họ là con người. Con người mang hình hài của chiến binh sao, mang trong mình sự cao quý của các vì sao, sống là để thay Người cai quản Thế Giới và bổn phận là phải tôn thờ Đáng Tối Cao. Con người là đứa con mà Đấng Tối Cao thương yêu và kì vọng nhất.

    Từ xa chúa tể bóng tối rình rập và thấy hết tất cả. Nó đã hồi phục nguyên thần và mong muốn phục thù. Nó biết mình không thể đánh bại Đấng Tối Cao, nên nó nhắm đến Thế Giới, nhắm đến con người. Từ những vì sao nó đã nuốt chửng, nó lấy đó làm vật chất để nhào nặn ra vợ đầu tiên, rồi đem tặng con người. Con người ban đầu thích thú với món quà, sau đó lại bị vợ mê hoặc, khiến con người trở ra sát phạt nhau để độc chiếm vợ. Đấng Tối Cao thấy vậy liền giấu vợ đi. Con người khi đó nài xin Đấng Tối Cao, khiến Người hết đỗi tự ái.

    Đấng Tối Cao lại lấy bụi sao để nhào nặn ra thật nhiều vợ để phát cho mỗi người, gọi các vợ là đàn bà. Con người vui mừng vô cùng. Nhưng Đấng Tối Cao cũng phạt con người, lấy đi sự bất tử của họ, bắt phải sống trần thịt, phải đổ mồ hôi để có ăn, bắt phải chết già chết bệnh, khi chết thì lại trở về với bụi đất. Những ai cách xa đàn bà, chỉ một lòng thành kính với Người thì được cho sống lâu. Người phạt đàn bà phải yếu đuối, phải lệ thuộc vào đàn ông, phải mỗi tháng đau bụng một lần, phải mang nặng đẻ đau mười bốn tháng để con người duy trì nòi giống. Người lệnh mỗi con người chỉ được ghép cặp một vợ, cả đời phải sống chung thủy, sinh con đẻ cái cũng phải sinh nam nữ đều nhau. Kẻ nào làm trái lệnh Người thì phải gánh tai vạ.

    Đấng Tối Cao tạo ra Mặt Trời và Mặt Trăng, thay Người chiếu sáng ngày đêm luân phiên, đồng thời tước đi ánh sáng của con người, khiến họ có cái bóng dưới nắng ngày và phải kinh sợ thú dữ khi tối đêm. Chúa tể bóng tối thấy kế đã bày ra theo đúng ý đồ, đợi mỗi khi đêm đến là hóa thành bầy quạ, tìm đến nơi con người ngủ và thì thầm vào giấc mơ của họ những điều xấu xa. Con người dần bị tha hóa, không lâu sau thì bộc phát sự hung ác, tham lam, ích kỉ, sống suy đồi trụy lạc, làm biết bao chuyện đại ác, nghịch đạo lý, trái ý trời.

    Đấng Tối Cao giận dữ vô cùng, toan trút cơn thịnh nộ, nhưng lại khoan vì sợ vạ lây các loài. Người dùng ánh sáng tạo ra một thế giới khác, một thế giới mới, có sông suối núi rừng, có đủ chỗ cho muôn loài. Rồi Người tạo ra cây cầu ánh sáng nối giữa hai thế giới, lệnh cho các loài qua cầu đến nhà mới. Con người và vợ mình, những ai có lòng thành kính và giữ được phẩm chất thì được cho qua. Con người tha hóa cũng đến xin qua cầu, Đấng Tối Cao xua tay đuổi đi. Chúa tể bóng tối nấp trong cái bóng của con người tha hóa khích động họ nổi loạn chiếm lấy cầu, ngăn bước tiến các loài. Đấng Tối Cao tức giận, lấy ánh sáng cực đoan thiêu đốt lũ người ngang ngược. Con người tha hóa da bị cháy đen như than, sợ hãi chạy trốn vào bóng râm.

    Khi các loài qua hết, Đấng Tối Cao thu cầu, thu luôn cả Mặt Trời và Mặt Trăng sang thế giới mới. Người đặt thế giới mới đè lên trên thế giới cũ. Thế giới cũ trở thành địa ngục tăm tối lạnh lẽo, giam cầm những kẻ tha hóa bị Người nguyền rủa luôn xấu xí. Ở thế giới mới, Đấng Tối Cao răn dạy con người lấy đó làm gương. Ai thành tâm lương thiện, Người chúc phúc cho sống lâu trăm tuổi, lúc chết cho về làm sao sáng trên trời. Ai bất kính xấu xa, Người nguyền rủa tai vạ đến suốt kiếp, lúc chết tống xuống cõi âm ty đen tối.

    Đấng Tối Cao luôn trông chừng con người. Đôi mắt ánh sáng của Người nhìn thấu tất cả, kể cả suy nghĩ thoáng qua trong đầu. Người nghiêm khắc thử thách, và cũng hiền từ chúc phúc, dẫn dắt con người xây dựng vương quốc thần thánh, nơi tà ác xấu xa không thể xâm phạm.

    -Finnler ký trình-’


    ~~~Tarbas, nhiều ngày sau~~~

    Một buổi chiều, Ramses đứng lặng im như tượng, một mình trên tháp cao của cung điện, gương mặt hằn nét lo toang nghĩ ngợi, đưa ánh mắt trầm lắng nhìn ngắm phố phường đông đúc náo nhiệt bên dưới. Thành thị huyên náo chẳng có gì đáng để cho Ramses phải lo âu, đó là vì nó huyên náo hơn lệ thường, có thể nói là bất thường, rồi đó trở thành vấn đề. Ramses thấy khó mà tự đưa ra quyết định cho vấn đề nan giải này, bèn gọi ngay năm đại thần thân tín. Và rồi họ hiện diện, từng người một bước qua cánh cửa gỗ kia: tướng Danik của phía Tây, tướng Dinno của phía Đông, tướng Luggas của phía Bắc, tướng Haphbern của phía Nam và đại học sĩ Nimbus. Tất cả bọn họ đều trạc tuổi Ramses, tóc đã bạc trắng, thần thái thì vẫn còn tinh tường, cái vóc thì cao lớn và cái lưng vẫn còn thẳng, trừ mỗi Nimbus là thấp bé hơn những người khác hẳn một cái đầu.

    “Hãy đoán xem lí do mà ta triệu tập các vị tới đây.” – Ramses nói, mắt vẫn nhìn xuống bên dưới qua cửa sổ, chẳng thèm để ý tới năm người kia đang tiến tới gần và cùng nhìn qua cửa sổ.

    “Nimb đã kể hết mọi chuyện trên đường.” – Danik nói, có phần sửng sốt. – “Chỉ có điều là, thần không ngờ mọi thứ lại diễn ra nhanh đến thế.”

    “Cũng phải hằng trăm!” – Luggas thốt lên.

    “Hơn ba trăm.” – Ramses nhận xét. – “Khoảng hai trăm là có thể chiến đấu.”

    Điều bất thường mà sáu người bọn họ đang bàn luận ở đây chính là một đoàn người lạ mặt từ phía Đông đến nhập thành, và họ đang tiến vào đại điện nhà vua. Qua diện mạo bên ngoài, ai cũng biết họ là người của Thiên Hội: áo tu sĩ phủ kín một màu trắng từ đầu tới chân, chỉ lộ mỗi khuôn mặt và bàn tay; cờ hiệu trắng giương cao rợp trời, thêu vào đó hình tượng thiên binh Enkel bằng sợi chỉ vàng; hương đèn nhả khói nghi ngút, kèn trống inh ỏi, và đặc biệt không thể thiếu những câu kinh, lời niệm vang lên đều đều bằng thứ ngôn ngữ kì lạ chẳng ai hiểu.

    Đoàn người đi thành hai hàng dài, lề lối và trang trọng. Các nữ tu vừa đi, vừa thướt tha rắc xuống những cánh hoa hồng trắng, để lại một vệt hoa dài trên con phố thẳng tắp, lát đá vuông vức phẳng lì sau bước chân, giống như lũ ốc sên để lại một vệt nhớt dài vậy. Đứng bâu chật, nép hai bên đường là đám dân thành thị hiếu kì bị thu hút. Đám họ mắt tròn mắt dẹt, kẻ đứng xa thì hò la í ới, kẻ đứng gần thì xì xầm chỉ trỏ. Ai nấy cũng đều tỏ vẻ lạ lẫm, thích thú, mặc dù vốn đã biết rõ đó là người từ Thiên Hội. Thể nào trong số họ cũng có kẻ là tín đồ trung thành của Hội, sẽ thấy kẻ đó quỳ xuống chắp tay nhắm mắt, lẩm bẩm đọc lời khấn nguyện không ngớt, thậm chí lại còn đổ nước mắt thành hàng dài vì xúc động.

    Con đường phủ cánh hoa dẫn tới bậc thềm đại điện. Tại đó nhà vua Leonin đã cho trang hoàng đại điện, khắp nơi là hoa và vải trắng kết trang trí, liễng Enkel treo ngay ngắn trên tường phẳng, cờ Enkel bay phấp phới trong gió lộng. Ngài đón tiếp đoàn người bằng nghi thức trang trọng nhất của hoàng gia và bằng tất cả sự nồng nhiệt, mừng rỡ hiện ra trên gương mặt ngài.

    “Chúng lê bước như một đám hành khất, nhưng lại đi nhanh như thể có gió sau lưng chúng vậy!” – Luggas vẻ ngán ngẩm.

    “Có khi là chúng đã lường trước được việc này.” – Dinno nói. – “Trước đó vài ngày tôi đã thấy chúng lên đường tiến về kinh thành. Nhưng lại đoạn nghĩ đấy chỉ là một đám tu sĩ hành khất, nên chẳng nghi ngờ gì.”

    “Ngài hãy nhìn xem, tu sĩ kiểu gì mà mặc giáp thế kia!” – Ramses chỉ về phía đoàn người áo trắng.

    Nhìn vào đoàn tu sĩ, người ta dễ bị rối mắt bởi ánh kim loại phản chiếu loạn xạ. Đeo trên mình các tu sĩ nào là đủ thứ vòng vàng vòng bạc, mề đay, vòng cổ, vòng tay, băng đô, thắt lưng… chỗ nào cũng có dát kim loại. Lư hương, bình hoa cũng là kim loại nhãn bóng, ngay cả sợi xích treo nom thô ráp ám bồ hóng cũng tỏa ánh lấp lánh. Trên cao nữa thì là cờ hiệu, khung cờ được trang trí bằng nhiều mảnh kim loại đính lại, tạo hình như một đôi cánh lông vũ cong cong.

    Ấy là nhìn bằng con mắt trần của đám thường dân, với những kẻ dạn dày trận mạc thì sẽ thấy thấp thoáng dưới cổ áo kia là những mắt xích giáp lưới, thấp thoáng dưới tay áo rộng thùng thình kia là những ngón tay bọc thép, thấp thoáng dưới tà áo phủ kín tới gót chân kia là những mũi giày bịt đầu bằng thép! Mỗi bước đi của đoàn ngươi là mỗi lúc rổn rảng tiếng lanh canh leng keng của kim loại va vào nhau.

    “Thứ lỗi cho thần tuổi già mắt kém! Thần không hề nhận ra là chúng có mặc giáp.” – Dinno trợn mắt phân trần. – “Nhưng thần có thể thấy những kẻ đó mặt mũi bặm trợn, lưng dài vai rộng, dáng đi thô kệch. Chúng mà là tu sĩ thì thần cũng là nhà thơ tình ca mất!”

    Cả năm người kia cùng phì cười, rồi Luggas nói. – “Trong cán cờ có thể giấu giáo và kiếm. Cánh cờ cong có thể giấu cánh cung. Chúng đông và có vũ trang, nhưng chẳng đủ để làm một đội quân.”

    “Sẽ còn nhiều đoàn nữa.” – Haphbern nói. – “Rồi đóng thành một trại lính ngay trong đại điện.”

    “Leonin đang cho tiến hành hoán cải một phần đại điện thành một đền thờ lớn.” – Nimbus nói. – “Sức chứa có thể lên tới hai ngàn khẩu. Vậy cũng là đủ thành mối nguy cơ.”

    “Leonin đủ sức điều lệnh đám tu sĩ này sao?” – Danik hỏi, giọng điệu mỉa mai.

    “Tất nhiên không phải lão già ấy, mà ngược lại kẻ đó còn khá trẻ.” – Dinno đáp, vẻ rầu rĩ. – “Mà hắn cũng hết sức đẹp trai tuấn tú nữa! Con gái tôi cứ suốt ngày rền rĩ vì hắn. Nhân tiện hắn không có mặt trong đám tu sĩ kia, có thể hắn sẽ tới vào ngày khác.”

    “Những kẻ như thế thì chỉ giỏi ve vãn lũ con gái mới lớn chứ chẳng thể thở được lâu trên chiến trường.” – Danik mỉa mai. – “Ta cứ kì vọng hắn phải là một kẻ đứng tuổi, ít nhất là như thế, gừng càng già càng cay.”

    “Thiếu niên xuất anh hùng.” – Nimbus đáp lại Danik. (Oldmen gain wise, youngman born talented)

    “Một kẻ có ngoại hình ưa nhìn, cử chỉ thân thiện dễ khiến cho người khác xúc động, nảy sinh cảm tình, rồi phát triển thành ý nghĩ thiên vị, cuối cùng là tư tưởng ủng hộ. Finnler quả là mưu gian kế độc!” – Ramses chêm vào, rồi quay sang Dinno hỏi. – “Hắn có tên chứ?”

    “Bẩm, hắn là Vondin.” – Dinno đáp.

    “Một cái tên quý tộc.” – Ramses chợt nhiên đâm ra lẩm bẩm một mình, ánh mắt thẩn thờ nhìn xuống thế giới bên dưới. – “Mà cũng chẳng có ý nghĩa gì, thời đại của ta sắp lụi tàn.”

    “Thưa bề trên!” – Luggas gọi Ramses, thức tỉnh ông ta khỏi suy nghĩ bâng quơ. – “Thần tin với tình hình nghiêm trọng như vậy hẳn là bề trên phải có điều muốn dặn dò, sai bảo?”

    “Ta không hề.” – Ramses lắc đầu. – “Trái lại, ta muốn nghe cao kiến của các ngài.”

    “Quân đạo Đông chặn đường tiến thoái. Quân đạo Nam Bắc gom hết về đây đánh phủ đầu.” – Dinno lên tiếng ngay. – “Phải đánh ngay khi chúng còn chưa kịp gom quân.”

    “Thiển cận!” – Luggas gắt gỏng. – “Leonin đâu phải đầu sỏ của Thiên Hội. Hắn chẳng qua chỉ là một con rối. Nếu ta ra tay thì Finnler lại có cớ xua quân.”

    “Trừ Telnum ra, vua các xứ Gadolin, Aldanine với Eshulu đều phủ phục trước Finnler.” – Haphbern thêm vào. – “Họ sẽ chẳng khoanh tay đứng nhìn.”

    “Đánh không được thì giảng hòa.” – Danik lên tiếng. – “Phải xoa dịu Leonin, cần thiết phải ba mặt một lời, chứng minh ta không liên can. Phải giao kẻ thích khách kia cho Leonin. Phải bắt khai ra sự thật, kẻ đứng sau tất cả.” – Danik chợt quay sang Nimbus. – “Nimb, ta hỏi ngài lần nữa, ngài có chắc đúng là thằng nhóc đó?”

    Nimbus không đáp, chỉ nhướng mày gật đầu, vẻ khó chịu khi có kẻ không tin lời mình nói.

    “Ngài thực sự nghĩ là hắn sẽ tin ta sao?” – Ramses hỏi Danik.

    “Ít nhất ta cũng phải tra khảo hắn. Thần tin là hắn sẽ nói ra gì đó. Hắn là phần tử nổi loạn, ta không thể lường được hắn sẽ mưu toan gì, thậm chí là bị kẻ nào đó xúi giục. Phải có một cái tên ở đây.”

    “Phải! Hắn đã nói ra một cái tên.”

    “Vậy kẻ đó là ai, thưa bề trên?”

    “Ngài!” – Ramses nghiến răng, trợn mắt. – “Danik!”

    Các tướng khác đều sửng sốt, đổ dồn ánh mắt về phía Danik. Riêng Danik thì tỏ vẻ hoài nghi. – “Không thể nào! Thần không tin chuyện đó!”

    “Thực sự là hắn đã khai vậy.” – Nimbus lên tiếng. – “Kẻ chủ mưu ra lệnh cho hắn chính là ngài. Mục tiêu của mũi tên vốn không phải là Leonin, mà là bề trên!”

    “Không! Không thể! Không thể có chuyện đó! Thần không hề có liên quan gì tới hắn! Thần tuyệt không có mưu đồ ám hại bề trên!” – Danik liền thanh minh. – “Nimb! Hãy nói giúp ta một lời công bằng!”

    “Hắn đã khai kẻ ra lệnh là ngài, Danik. Lý do để ám sát thì hắn không biết, hắn chỉ làm vì một khoản tiền công lớn.”

    “Hắn đang dối trá. Bề trên xin đừng tin lời rắn độc!” – Danik nói với Ramses.

    “Tất nhiên là bề trên không tin. Dù có tin hay không thì chẳng phải vấn đề nữa, bởi nó đã gây ra đại họa rồi.” – Nimbus nói.

    “Sai một li, đi một dặm.” – Ramses gằn giọng, nét mặt giận dữ, mắt nhìn ra ngoài kia thế giới.

    “Nimbus tôi đặt ra giả thuyết rằng, động cơ của hắn thực chất là muốn ám hại chính ngài, Danik. Việc ám toán hụt, rồi sau đó khai dối là để đổ tội cho ngài, gián tiếp trả thù cho đồng bọn của hắn, kẻ mà ngài bắn chết lúc còn ở Đồn V. Chính xác là kế mượn dao giết người. Rủi thay, mũi tên lại trúng Leonin, sự việc lại trở thành Leonin nghĩ là bề trên muốn ám sát hắn.”

    “Mũi tên chẳng trúng ai thì đã tốt, bắn trúng ta thì cũng chẳng hề gì, bắn trúng Leonin thì là đại họa.” – Ramses nói, nhưng trộm nghĩ. – ‘Tốt nhất là bắn chết luôn hắn ta!’

    Danik phân trần. – “Xin bề trên chớ quở trách! Tên lính bị thần bắn chết là phần tử nổi loạn, phá hoại quân kỉ, lại còn để cho địch bắt làm con tin. Việc hành quyết phải được thực thi ngay tức khắc, như vậy mới răn đe được quân sĩ. Nơi biên cương hiểm ác khắc nghiệt, quân kỉ phải được giữ vững, quân kỉ còn là phòng tuyến còn, giang sơn ta mới còn. Thần tin là mình đã làm đúng với trách nhiệm, chỉ có điều là thần không hề lường trước được sự việc lại có thể biến hóa ra phức tạp tới như vậy.”

    Ramses lắc đầu vẻ thất vọng, tiến lại gần Danik và nhìn thẳng vào mắt, đưa mấy ngón tay lên chơi đùa với phần tóc trên trán của vị tướng. – “Cả hai ta đều đã đầu bạc, từng kề vai sát cánh từ lúc đầu xanh. Điều gì khiến ta luôn nổi trội hơn ngươi trong mắt Dwusniw? Ngươi chắc chắn không biết được là gì đâu. Kể cả khi bước đi trên con đường mòn quen thuộc, ngươi chẳng thể lường hết được điều bất ngờ gì sẽ ập đến trước mặt, hay thậm chí là ập từ sau lưng. Đã lường tới rồi thì còn gì là bất ngờ, đúng không? Cẩn tắc thì vô áy náy, ngươi có thể phòng bị trước, cẩn trọng vẫn là đức tính tốt. Nhưng chẳng phải tốt nhất. Ngươi có biết điều gì là tốt nhất cho ngươi không? Đó là tầm nhìn! Ngươi cần tầm nhìn! Không có tầm nhìn? Ngươi chỉ có thể tới được đây mà thôi.”

    Nghe thế Danik chớp mắt liên tục, cả khi ngừng chớp mắt thì mi mắt vẫn còn run run giần giật. Vị tướng chợt liếm môi nuốt nước bọt, vuốt lại mớ tóc rối để lấy lại thể diện, cố giữ vẻ điềm tĩnh mặc dù bụng giận run lên, cảm thấy bị xúc phạm nặng nề và bẽ mặt ghê gớm trước mặt các đại thần đồng cấp. Bởi lẽ, ông ta vẫn còn đó cái danh dự của một cánh tay phải (righthand man), là cánh tay phải mà từ trước đến giờ luôn được Ramses tin tưởng trong mọi hành động, chấp thuận trong mọi thỉnh cầu. Mà cũng chưa bao giờ Ramses lại chỉ trích cánh tay phải của mình nặng nề đến như thế. Không những vậy, Danik còn cho rằng Ramses đã phóng đại và nghiêm trọng hóa sự việc, nếu như theo ý của Ramses đó là cách thể hiện tầm nhìn với sự việc. Đó là một lời chỉ trích thái quá, Danik tin chắc là vậy, và như thế thì nó có nghĩa là không đúng, không công bằng, không công minh. Là sự xúc phạm! Xúc phạm danh dự của một chiến binh trung thành.

    ‘Cứ như rằng ta không còn là gì trong mắt ông ta.’ – Một suy nghĩ thoáng qua trong đầu Danik, một nỗi nghi ngờ rằng liệu có còn đó sự sủng ái và tin tưởng mà Ramses dành cho ông ta, sau tất cả mọi sự tận tụy cống hiến. Thế nhưng Danik chẳng dám phản kháng gì, chỉ cúi đầu nhắm mắt, lễ phép đáp lại, tránh cái nhìn trừng trừng nặng nề của Ramses. – “Sai một li, đi một dặm. Một mũi tên bắn lạc cũng đủ để kéo theo một trận chiến đẫm máu. Thần xin ghi nhớ!”

    “Thứ cho thần chen ngang thưa bề trên.” – Luggas thấy rằng cần phải xua tan bầu không khí căng thẳng lúc này. – “Đại họa vẫn còn bước đều dưới kia. Tên thích khách kia, giờ hắn đang ở đâu?”

    “Ta đã giao hắn cho Leonin, sống chết chẳng rõ. Tuy nhiên chẳng tác dụng gì.” – Ramses lắc đầu ngao ngán. – “Các vị xem chừng chưa thể nảy ra cao kế gì. Trước mắt hãy đi điểm binh, sai tuần thám để mắt nơi biên giới, cấp báo nếu thấy ngoại quân. Dinno giám sát động tĩnh từ nhà thờ, lấy con số tu sĩ lang thang ở bờ Đông, trong bán kính năm mươi cây đá không được để con số lên quá ba ngàn. Chiến tranh với Thiên Hội nổ ra lúc nào không hay, nhưng quân bờ Tây vẫn phải giữ nguyên vị trí, Danik phải đảm bảo việc này. Mà dù chiến tranh với Thiên Hội nổ ra thật, các vị nghĩ ta có khả năng thắng không?”

    “Ta chẳng có nổi một cơ may.” – Luggas đáp thẳng thừng.

    “Lũ tu sĩ kia chẳng là gì đáng lo ngại. Thần cùng một trăm thuộc hạ ưu tú cũng đủ làm cỏ hết thảy và lấy đầu Leonin.” – Dinno nói. – “Chỉ là đám người trời kia thực là quá khó đối phó.”

    “Ha ha Dinno Mingo!” – Haphbern cười to. – “Nếu là ta thì ta chỉ cần nửa trăm thôi!”

    “Ta mà dùng hết sức lực thì chỉ cần mười người thôi!” – Dinno đáp trả.

    Ramses chợt chuyển sắc mặt nghiêm nghị, ra hiệu cho bọn họ im lặng, thôi cợt nhả. – “Cấm quân sẽ tự đối phó được với đám tu sĩ kia. Hãy hành động trong im lặng. Không để quân lảng vảng trong khu vực ngoại thành trừ khi được gọi. Hãy luôn kiềm chế, tránh động binh. Sớm ta sẽ gửi cho các vị chỉ thị mới nhất. Giờ các vị có thể lui, hãy luôn nhớ lời ta dặn. Chúng ta không có cửa thắng kẻ người trời!”

    ~~~~~~

    “Bẽ mặt thì là bẽ mặt thật.” – Danik nói với Nimbus. – “Nhưng cuối cùng ta vẫn thắng.”

    “Vẫn chưa là cuối cùng, thưa ngài.” – Nimbus đáp ẩn ý.

    “Ngài nói vậy là sao?”

    “Ồ!” – Nimbus chợt giật mình. – ‘Tí nữa thì lại hớ.’ – “Thằng nhóc tuy trong tay Leonin, nhưng chưa rõ sống chết. Nếu là còn sống thì ta vẫn chưa thua.”

    ~~~~~~

    ‘Đấng Tối Cao nặn ra con ruồi.

    “Ta gọi mi là ruồi.”

    “Tạ ơn Người.”

    “Mi bay được.”

    “Tạ ơn Người.”

    “Mắt mi nhìn được khắp hướng, cả trên và dưới.”

    “Người thật rộng lượng ban phước.”

    “Mi ăn cứt.”

    “Hả?”

    -Finnler ký trình-’


    ~~~~~~

    “Họ đã đi rồi, thưa bề trên!” – Nimbus báo với Ramses, các vị tướng đã rời đi và giờ trong căn phòng cao chỉ còn hai người bọn họ.

    “Có phải ta vừa nói là ta không có cửa thắng người trời không?” – Ramses hỏi. – “Là chưa! Chưa phải lúc! Ta chưa thắng được người trời. Sớm thôi, phải không Nimbus? Hoặc là ta mạnh hơn, hoặc là ta phát hiện ra điểm yếu của chúng. Ngài sẽ giúp ta thực hiện điều đó chứ?”

    “Đã khắc phục được vấn đề độ bền vật liệu. Vấn đề độ nảy và độ chính xác thần đã có phương án chỉnh sửa, nhưng kết quả sẽ lâu mới có, còn phụ thuộc nhiều vào kĩ thuật chế tác.” – Nimbus đáp. – “Phải hoàn mỹ! Nó phải thực sự hoàn mỹ. Bởi nếu thua, tức là ta sẽ mất hết.”

    “Đúng vậy! Ta không thúc giục ngài, ta muốn cho ngài thấy ta đang ở giai đoạn nào của xung đột. Ta tin là ngài biết phải làm gì lúc này. Mọi sự là tùy ý ngài quyết.”

    “Thần hiểu ý bề trên.” – Nimbus đáp, kính cẩn khom người. – “Có điều này làm thần cứ nghĩ ngợi suốt, xin phép được hỏi bề trên.”

    “Ngài cứ hỏi.” – Ramses chợt để ý khi thấy Nimbus ăn nói trở nên lễ nghi khác thường.

    “Tại sao bề trên lại tin tưởng thần thay vì các tướng quân? Chẳng phải đối với bề trên họ rất thân tín và quan trọng sao?”

    “Ta biết kiểu gì ngài cũng sẽ hỏi câu này.” – Ramses đáp vẻ điềm nhiên, như là đã tiên liệu trước. – “Đó là vì ta chưa từng từ chối ngài điều gì cả, cũng chẳng câu nệ, xét nét gì.” – Chợt Ramses nhướng mày, vẻ bối rối, do vừa sựt nhớ ra cái gì đó thiếu sót. – “À mà có, trừ vụ con quỷ kia ra. Ta đã thống nhất là làm theo cách của ta. Mong ngài đừng thất vọng. Giả như mấy tên lính thất bại thì lúc đó ngài tự ý xử trí vẫn chưa muộn, con quỷ vẫn còn nằm đó chứ có chạy đi đâu được. Giống như chỉ là tạm hoãn công việc lại một chốc thôi.”

    “Tạ bề trên tín nhiệm!” – Nimbus đáp, đứng chống nạnh gãi cằm, trở lại cái tác phong vô thể thống. – “Nếu là về con quỷ thì bề trên yên tâm, thần không dám phiền lòng, nó đang ở thể trạng tốt nhất, vẫn kiên quyết từ chối giao thiệp.”

    “Vậy thì tạm thời kệ nó đi.” – Ramses xua tay. – “Báo cáo kết quả triệu hồi vũ khí!”

    “Có tin xấu và tin cực xấu.”

    “Tin tốt trước.”

    “Chất và lượng của pháo sáng được bảo toàn.”

    “Và?”

    “Số vũ khí và giáp phục triệu hồi về, quá nửa không vượt qua bài thử chất. Từ các đạo cho biết, số lượng vũ khí đang dùng và lưu trữ trong kho khớp con số quân các cấp về. Kết luận duy nhất: đã có hiện tượng vũ khí bị đánh tráo từ cấp đạo.”

    “Có phải là Danik?” – Ramses gằng giọng, vẻ mặt hung tợn.

    “Toàn bộ vũ khí thu hồi ngẫu nhiên từ đạo Tây là đạt chuẩn.” – Nimbus nhún vai. – “Tin cực xấu là vũ khí từ ba đạo còn lại… hoàn toàn thất bại!”

    Ramses chợt nhướng mày, vẻ nửa ngạc nhiên, nửa bẽ mặt. – “Ô thế à?”

    “Đạo Tây chiếm hai phần ba tổng quân lực, lại giao tranh thường xuyên, hiển nhiên sự tổn thất vũ khí và yêu cầu bù đắp là rất lớn. Bề trên nghi ngờ Danik đại nhân là có cơ sở. Tuy nhiên thực tế lại trái ngược hẳn. Với các đạo còn lại, ít giao tranh, nên ít quan sát được chất lượng thực chiến của vũ khí, không có cơ hội phát giác ra sự việc gian trá này. Thần sẽ tấu lên bề trên một bản liệt kê chi tiết số lượng và vị trí thu hồi sau.”

    “Chẳng lẽ ba người bọn chúng…” – Ramses vuốt râu cằm. – “Việc này hãy tạm gác lại qua bên. Cho ta biết tiến triển của mật dịch.”

    “Đã lùng được tung tích của kẻ Frenen, được biết là hắn đang ở chỗ của bang hội Salta. Quân áp giải đã được gửi đi. Dự chừng ba ngày tới sẽ về kinh. Bề trên sẽ muốn đích thân tra hỏi hắn, và cả thủ lĩnh của hội Salta.”

    “Hãy khoan lớn chuyện với Salta. Cứ cho tai mắt bám theo kẻ thủ lĩnh.”

    “Kẻ Vigor vẫn chưa bình phục hoàn toàn, cũng sẽ phải hơn một tháng nữa thì hắn mới sẵn sàng để nhận nhiệm vụ.”

    “Vậy còn kẻ Gotsar?”

    “Lời khai của hắn đã được chứng thực. Chiến dịch sẽ được tiến hành ngay sau khi lệnh triệu tập được hồi đáp. Lúc đó hắn chỉ có thể dẫn đường mà thôi. Maril sẽ hành động.”

    “Hãy sắp xếp lịch trình, đừng để ba kẻ bọn chúng gặp mặt nhau.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 21-05-2017 lúc 21:34.

  4. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,
  5. #38
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 3

    ~~~Tarbas, Dinh Tể Tướng, ngày hai mươi sáu tháng Mười, bốn mươi hai ngày sau sự kiện đại lễ~~~

    Ngày thứ ba mươi hai Vigor lại thức dậy muộn. Điều này không có nghĩa là cái nếp sống nhà binh của chàng đã lệch lạc, mà đó là thuận theo yêu cầu của thái y: phải nghỉ ngơi thật nhiều thì mới nhanh liền vết thương. Thế là chàng chẳng phải làm gì ngoài việc nằm một chỗ, hoặc đi lại trong căn phòng trống trải. Trong bốn mươi hai ngày. Một kiểu giam nhốt, nếu có ý nghĩ nghi ngờ vậy.

    Ban đầu Ramses định nhốt giữ Vigor ở trong hầm ngục bí mật, do sự hiện diện của Vigor trong phủ tể tướng phải là bí mật. Tuy nhiên thái y Khranes lại đánh tiếng với ngài tể tướng rằng người bệnh cần phải có không khí trong lành. Thế là ngài nhốt Vigor trên tháp cao, trong một căn phòng không có cửa sổ mà thay vào đó là những khe trống trên tường đá, cung cấp ánh sáng và không khí tươi một cách tối thiểu cũng như ngăn cản cái nhìn từ bên ngoài. Cái nhìn soi qua khe trống cho Vigor biết rằng chàng đang ở trên cao rất cao. Cũng qua từng cơn gió rít buốt lạnh ùa vào khe tường mà Vigor biết mùa Đông đã đến.

    Sau cánh cửa gỗ kia là thế giới bên ngoài và hai cấm vệ đứng gác. Họ cứng nhắc và lạnh lùng, Vigor muốn trò chuyện để xua tan buồn chán, mà họ thì chẳng nói gì nhiều hơn ngoài việc cảnh báo Vigor không được bước ra khỏi căn phòng này, theo lệnh của bề trên của họ. Người bạn duy nhất mà Vigor có là một con mèo lông vàng. Thái y Khranes tiết lộ rằng đó là chủ ý của ông, không phải là ông mê tín, nhưng ông chẳng có cách gì chứng minh được một niềm tin rằng: bầu bạn với một con mèo sẽ giúp người bệnh nhanh bình phục hơn. Thái y quả quyết đó chẳng phải là niềm tin nữa, mà là một thực tế rõ ràng, cam kết bằng kinh nghiệm cả đời hành nghề thầy thuốc. Nimbus thì bảo điều này thật ngớ ngẩn, tể tướng Ramses thì chẳng bận tâm chừng nào con mèo chưa gây hại gì tới mưu đồ của ngài.

    Chẳng rõ là nhanh hay chậm hay nhờ tài phép của mèo kia, sau hơn một tháng dưỡng thương Vigor tự thấy mọi cơn đau nhức đều đã tan biến, xương thịt đã lại linh hoạt, có điều là sức lực rõ yếu hẳn đi và thói quen dậy sớm cũng đã biến mât. Mà dậy sớm hay dậy trễ thì hà có ý nghĩa gì khi mà chàng chẳng có việc gì để làm, thời gian của một ngày là chỉ để quanh quẩn lo nghĩ về số phận của đám thuộc hạ trung thành. Và chàng còn lo sợ rằng nếu bản thân cứ nằm dài một chỗ như thế này thì quyết tâm chuộc lại lỗi lầm của mình sẽ mai một theo thời gian.

    Chàng nằm đó, nhìn trần nhà nghĩ ngợi đến phát bức bí, rồi trở mình nhìn ra căn phòng thì liền hoảng hốt khi thấy Nimbus đã ngồi đó chằm chằm nhìn chàng không biết từ bao giờ.

    “Không cần phải đa lễ.” – Nimbus ngồi tựa hai khuỷu tay lên tay ghế, các ngón tay vuốt ve bộ lông vàng mượt của con mèo đang nằm cuộn tròn trên đùi, đầu ngài hơi chúi ra trước, gương mặt không mấy thiện cảm, nói khi thấy Vigor luống cuống trèo ra khỏi giường để quỳ thi lễ.

    “Đại nhân, ngài đến là có điều muốn sai bảo, xin cứ đánh thức thần.”

    “Thái y đã có lời căn dặn, ta không dám. Tiện cũng muốn hỏi tình trạng của ngươi như thế nào rồi.”

    “Nhờ vào ơn trên cũng như thần dược của đại danh y, thần đã bình phục hoàn toàn.”

    “Thế thì tốt!” – Nimbus gật gù.

    “Đại nhân, ngài đến hẳn không chỉ đơn giản là để hỏi thăm, nếu không có điều để sai bảo thần thì thần tin là ngài đã có tin gì đó từ đám thủ hạ của thần.”

    “Ta đến là vì cả ba. Ta rất vui khi thấy ngươi đã hồi phục và sẵn sàng để ta sai bảo, nhưng trước hết, ngươi cần phải biết tin tức từ đám đồng bọn.”

    “Ngài nói thật sao? Bọn chúng giờ đang ở đâu? Bọn chúng vẫn ổn chứ?” – Đôi mắt Vigor ánh lên hy vọng.

    Nimbus lắc đầu, sắc mặt chuyển sang nghiêm trọng. – “Ba người Petersander, Carluso, Gotsar, tìm thấy chết ở Đồn V.”

    Vigor chợt đâm ra thẫn thờ, sau đó thì nghiến răng trợn mắt giận dữ. – “Là kẻ nào đã gây ra chuyện này?”

    “Ta không biết.” – Nimbus đáp thản nhiên. – “Ngươi có thể tự đi tìm. Kẻ Frenen vẫn còn mất tích, hay có thể nói là chưa tìm thấy xác. Đừng có tỏ ra ẻo lả, hãy biến đau thương thành giận dữ, từ giận dữ cho sức mạnh để liều mình. Nên biết rằng ngươi cũng đã chết, kẻ Vigor kia cũng đã chết, hãy để kẻ thù tin rằng ngươi đã chết. Ngươi giờ là một bóng ma.”

    “Ngài muốn tiểu nhân phải làm gì đây?”

    “Sẽ có nhiều thứ phải làm. Đừng nghĩ bản thân ngươi có diễm phúc được bề trên tín nhiệm. Chỉ đơn giản là vì một kẻ vô danh tiểu tốt thì khó bị kẻ thù chú ý. Dù là kẻ tiểu tốt nhưng ta thừa nhận ngươi có tài cán nhất định, sự liều lĩnh không ngần ngại truy tìm ánh sáng đang sau bí ẩn. Ngươi là kẻ có lòng ham muốn làm sáng tỏ mọi thứ, đúng chứ? Bề trên cũng vậy, vì vậy bề trên sai ngươi đi để biết hết mọi thứ rồi sau đó là kể lại cho bề trên. Chỉ kể cho bề trên, chớ có để kẻ nào khác biết, nếu không, ngươi hình dung ra được hậu quả chứ? – Nimbus nắn gân Vigor.

    “Tiểu nhân hiểu rõ, xin ngài chớ lo.”

    “Đừng có nhìn ta sướt mướt như vậy.” – Nimbus cau mày, xua con mèo đi. – “Hãy lại đây. Trên bàn có một viên thuốc. Nếu ngươi trung thành với bề trên, đừng thề, hãy uống viên thuốc.”

    Vigor không ngần ngại nhặt lấy ngay viên thuốc và cho vào mồm. Nimbus liền phấn khích, nhưng không dám ra mặt. – “Ngươi còn chưa chịu hỏi thuốc này là gì mà đã uống.”

    “Vì ngài bảo tiểu nhân đừng sướt mướt nữa nên tiểu nhân chỉ có biết liều.” – Vigor nhăn mặt vì thuốc đắng.

    Nimbus nhướng mày. – ‘Không biết là nên thán phục hay lắc đầu đây.’ – “Đó là thuốc độc.” – Sau khi thấy cái vẻ hốt hoảng của Vigor thì ông ta liền cau mày. – ‘Cái đồ ăn hại!’ – “Là thuốc độc ẩn, không phát tác ngay nên đừng lo. Độc này không có thuốc giải hoàn toàn, chỉ có thuốc giải cầm chừng. Độc sẽ phát tác sau ba ngày không có thuốc giải. Cứ mỗi ba ngày phải uống thuốc giải. Chỉ cần ngươi trung thành với bề trên, ngươi sẽ được phát thuốc giải. Ngươi rõ rồi chứ?”

    “Tiểu nhân không còn đường lùi nữa rồi.” – Vigor ban đầu tỏ vẻ miễn cưỡng, sau đó thì liền ra mặt cương quyết. – “Nhưng thuận ý bề trên cũng là thuận ý tiểu nhân. Tiểu nhân quyết sẽ truy ra kẻ thù.”

    “Tinh thần cứ là vậy. Giờ hãy ăn vận chỉnh chu vào rồi đi theo ta. Bề trên đang đợi.”

    Chẳng tốn bao lâu thì Vigor đã sẵn sàng để theo Nimbus ra ngoài, thoát khỏi cái chốn buồn chán này chừng ấy ngày giam lỏng trong phòng. Ra ngoài rồi thì chàng mới thấy gió thổi mạnh, cuốn theo lác đác mấy bông tuyết trắng tinh, cây cối thì trông cằn cỗi trong cái lạnh. Hai cấm vệ đi theo sát sau lưng, dáng đi đứng vững chãi trong gió lạnh, mặt khô cứng, mắt nhìn thẳng ra phía trước, chẳng buồn liếc nhìn Vigor khi chàng đang nhìn họ.

    Về phần Nimbus, ông ta dẫn đường đi theo một lộ trình đã định trước, tránh cái tai con mắt bên ngoài. Đó là hằng trăm bậc thang lên xuống, là những hành lang âm u có đuốc lửa trải dài. Cả quãng đường mà chỉ có bốn bóng người in trên tường đá lạnh lẽo, điều này khiến Vigor chợt thấy rùng mình, lo sợ hành trình này có thể dẫn tới điều gì đó thật khủng khiếp đang chờ đợi. Nimbus thoáng thấy ở Vigor sự nhiệt huyết đã biến mất, thay vào đó là vẻ căng thẳng thấp thỏm. – “Điều gì làm ngươi lo sợ?”

    Câu hỏi bất ngờ làm Vigor lúng túng trong giây lát. – “Liệu thần đã đi quá xa trong cuộc đời mình.”

    “Ta hiểu. Những kẻ nhỏ bé lần đầu tiên bước vào thế giới của kẻ khổng lồ thì hiển nhiên phải choáng ngợp. Ngươi làm ta nhớ cái khoảnh khắc ta nhận chỉ dụ đầu tiên từ tiên đế. Niềm tự hào hỗn tạp với nỗi lo sợ. Tốt nhất là đừng làm bề trên thất vọng, rồi ngươi sẽ quen với mọi thứ, ngươi sẽ quen với vị thế mới của mình.”

    “Xin ngài hãy mách bảo, tiểu thần không biết phải ứng xử ra sao để ngài tể tướng không phải phật ý.”

    “Cứ thuận theo bản ngã, ngài sẽ biết ngươi hữu ích ở việc gì. Ngài cũng chẳng câu nệ tiểu tiết ở nơi riêng tư.”

    “Mọi thứ diễn ra quá nhanh, và kéo theo những bất ngờ. Mà khởi đầu chỉ là những toan tính lo an phận. Kẻ hèn này thấy bản thân hoàn toàn không xứng đáng.”

    “Đừng có tỏ ra ngạo mạn, không biết trời cao đất dày!” – Nimbus bất chợt quát, trao cho Vigor cái liếc nhìn cảnh cáo. – “Đây chẳng phải đặc ân mà là mệnh lệnh. Chẳng có gì là xứng đáng với mệnh lệnh cả. Thử từ chối hoặc thất bại thì cái đầu ngươi sẽ bị chặt.”

    Vigor hết đỗi hoảng hốt, liền cúi gầm mặt, tránh ánh mắt của Nimbus, đáp lí nhí. – “Thần xin ghi nhớ.”

    Họ im lặng đi tiếp hành trình. Rồi kia là cánh cửa đích đến, mở ra một căn phòng nhỏ có cửa sổ kính nhìn ra hướng Tây. Đương buổi sáng, lại mùa Đông nên căn phòng nom u tối, chút ánh sáng yếu ớt lọt qua khung cửa sổ đủ sáng để làm hiện lên một bóng người đang ngồi gần cửa sổ, hai cẳng tay tì lên tay ghế, các ngón tay đan vào nhau chống cằm, ánh mắt nhìn nhìn xa xăm ra thế giới bên ngoài. Gương mặt ngài tể tướng Ramses hiện ra nhợt nhạt, vẻ trầm ngâm, thấm nỗi lo nghĩ. Nimbus tiến tới cúi đầu và đánh tiếng, – “Bề trên.” – còn Vigor thì quỳ xuống thi lễ.

    “Để hắn lại.” – Ramses ra lệnh cho Nimbus, mắt vẫn nhìn ra thế giới bên ngoài. – “Ngài còn nhiều việc phải lo.”

    Nimbus cúi đầu tạ lễ, rồi ra ngoài. Hai cấm quân cũng theo sau và đứng giữ cửa bên ngoài, để lại trong căn phòng tối hai con người.

    “Ngươi chiến đấu được chứ?” – Ramses hỏi Vigor.

    “Thưa bề trên, thần chiến đấu được.” – Vigor lễ phép đáp, chính xác hơn là thận trọng đáp. Chàng không dám liều lĩnh có hành vi ngôn từ mạo phạm. Không rõ là do không khí u tối của căn phòng hay nét nhợt nhạt trên gương mặt ngài tể tướng khiến cho Vigor có cảm giác bồn chồn bất an. Chàng không hay biết rằng suốt thời gian qua đã có nhiều biến cố xảy ra, và ngài tể tướng đã phải vất vả lo nghĩ.

    “Nimbus đã kể cho ngươi biết rồi chứ?”

    “Nimbus đại nhận kẻ với thần ba điều. Số phận của đồng bọn, số phận của thần, và ý chí của bề trên.”

    “Còn viên thuốc?”

    “Rất đắng.”

    “Tốt. Mau lại gần đây. Thời gian qua, người của ta đã đi khắp nơi để truy tìm kẻ Frenen, săn lùng kẻ thù giấu mặt, và cuộc đi săn vẫn đang tiếp tục. Tuy nhiên, có một nơi mà ta không dám liều lĩnh quân sĩ trung thành của mình. Đó…” – Ramses nói, mắt vẫn hướng ra ngoài ô cửa sổ. – “Ngươi dấn thân vào hang ổ của chúng và còn sống trở về, không chỉ một lần. Và ngươi sẽ phải dấn thân nhiều lần nữa.”

    “Bề trên muốn tiểu thần đi lùng hang ổ giặc quỷ hay chăng?”

    “Chủ thể không phải là ngươi, khách thể cũng không phải là giặc quỷ. Chủ thể là lính của ta, khách thể là bất cứ thứ gì ngoài kia biên giới. Lính của ta chẳng biết gì nhiều về thế giới ngoài kia. Và ngươi, chỉ là kẻ dẫn đường và cố vấn cho chúng.”

    Vigor ngẩn người trong giây lát vì bất ngờ. – “Thưa bề trên, điều này là không thể!”

    Ramses liếc nhìn Vigor. – “Có gì không đúng sao?”

    “Thần không thể chỉ là kẻ dẫn đường được.” – Vigor đáp ngay. – “Thần phải là cầm cán. Vai trò chỉ huy phải là thần chứ không thể giao phó cho một ai khác.”

    “Ngươi hoặc là ngông cuồng, hoặc là có lý lẽ. Tại sao phải là ngươi? Có phải ngươi nghi ngờ lòng trung thành của binh sĩ của ta? Lòng trung thành của cấm quân là không thể nghi ngờ.”

    “Thưa bề trên, không phải thần nghi ngờ lòng trung thành của họ. Đó là vì năng lực chiến trận của họ.”

    “Cái gì?” – Ramses vẻ bất ngờ, khó hiểu. – “Ngươi cho là chúng không đủ thiện chiến ư?”

    “Thưa, điều đó cũng không phải.”

    “Vậy thì mau giải thích xác đáng! Bằng không ta sẽ trừng trị!” – Ramses đứng bật dậy khỏi ghế, chỉ tay vào mặt Vigor, nổi cơn giận khi có kẻ dám cãi lệnh, lại còn chê bai những binh sĩ mà đích thân ngài tuyển chọn kĩ lưỡng. – “Đừng cậy việc ngươi có công mà ta không dám lấy đầu.”

    Vigor không tỏ ra chút sợ hãi, liền đáp. – “Họ rất giỏi chiến đấu, gan dạ, kỉ luật, không ngần ngại xả thân liều mình cứu giá. Nhưng tất cả những điều đó chẳng phải là cái mà nhiệm vụ này cần. Họ là cấm quân, hộ vệ quân. Họ bảo vệ yếu nhân, họ ngăn chặn các cuộc tấn công, những vụ hành thích ám sát. Phải! Họ giỏi chặn đứng các cuộc tấn công. Thế nên, họ chẳng giỏi tấn công!”

    “Điều gì khiến ngươi nghĩ đây sẽ là một chiến dịch tiến công?”

    “Thần tin đó sẽ là một cuộc đi săn. Con mồi ma mãnh sẽ chẳng dễ mà sa bẫy, thế nên kẻ đi săn chúng ta phải dùng bạo lực để khuất phục. Chiến dịch sẽ chẳng khác tiến công là mấy, chỉ là tránh xung đột lớn.”

    “Có lý lẽ. Nhưng quân của ta sẽ tự biết quyết định thế nào là xung đột lớn. Ngươi hãy cứ dẫn đường.” – Ramses cau mày thách thức.

    “Xin bề trên hãy nghĩ lại. Như thế là sai lầm rất lớn.” – Vigor van nài.

    “Hỗn xược!” – Ramses quát to. Tức thì hai cấm quân từ bên ngoài đạp cửa xông vào, tiến tới tóm lấy Vigor, khóa tay, đè người, dí sát mặt xuống nền đá. – “Đừng có thách thức sự kiên nhẫn của ta!”

    “Khốn kiếp các người vốn đã biết kẻ thù đồng minh với quỷ dữ, lại gửi đi những kẻ chưa từng chiến đấu trong bóng tối với quỷ!” – Vigor đột nhiên chửi rủa. – “Hãy nhớ kĩ từng gương mặt mà ông gửi đi. Ông sẽ chẳng thấy một trong số ấy một lần nữa đâu!”

    “Ngươi kiêu ngạo tới mức nghĩ rằng chỉ mình ngươi có thể làm được ư?” – Ramses giận tím mặt.

    “Bất cứ kẻ nào chặt đầu quỷ nhiều hơn tôi đều làm được. Cấm quân của ông thì chặt được mấy cái đầu người.” – Vigor vẫn nghiến răng gan lì. – “Mười năm trước tôi chặt cái đầu quỷ đầu tiên, giờ thì đã chém chết hằng trăm mạng quỷ. Ngày thì truy đuổi giặc cướp, đêm thì chống chọi quỷ dữ, đánh nhau còn nhiều hơn cơm bữa. Quân của ngài một ngày ra khỏi thành mấy bận, một tháng tới miền Tây mấy chuyến, mỗi năm đánh với quỷ dữ mấy trận? Sẽ chẳng còn thằng nào sống để mà khóc lóc!”

    Ramses giận run người, tím tái mặt mày, miệng nghiến răng, hai nắm đấm siết chặt, trừng mắt nhìn Vigor trong một lúc, rồi ra hiệu cho cấm quân thả tay. – “Có khẩu khí! Hai mươi. Ta cho mi hai mươi người.”

    “Tạ ơn trên!” – Vigor vội lạy tạ. – “Nhưng thần chỉ xin mười ba. Mười ba người nhanh nhẹn và biết vâng lời.”

    “Sao lại mười ba?” – Ramses ngạc nhiên.

    “Thêm mười ba để thành mười bốn Thần Báo Tử.”

    ‘Tagia có mười tám Hộ Thần thì Vudai có mười bốn Thần Báo Tử.

    Các hộ thần sẽ đến trong giấc mơ của thai phụ, để báo rằng đứa trẻ sẽ được Tagia phù hộ để trở thành quý nhân.

    Các thần báo tử sẽ đến trong giấc mơ của kẻ sắp chết, để cảnh báo kẻ đó tự lo liệu hậu sự cho chính mình.

    Nếu một quý nhân được Hộ Thần cứu mạng thì Thần Báo Tử sẽ lấy mạng người thân yêu nhất của kẻ quý nhân đó để thay thế.

    Hộ Thần đông hơn Thần Báo Tử, nên nhân gian mới sinh sôi nảy nở được.

    -Musache ký trình-’


    Ramses thầm ấn tượng. – “Ngươi còn chưa biết mình sẽ phải làm gì, sao lại xin chừng ấy quân?”

    “Ngài có cho ngàn quân thì cũng chẳng đủ đánh một đêm với quỷ. Ta sẽ phải đánh với đám người dạ hành (nightwalker). Số lượng thì chúng đông, nhưng chất lượng thì chúng còn tệ hơn cả cái hạng giặc cướp Cờ Đen kém cỏi.”

    “Chẳng phải chỉ là quỷ hay dạ hành. Ta muốn ngươi tìm xem có thứ gì ở vùng đất Mặt Trời lặn.” – Ramses chỉ tay về phía Tây. – “Bất kể thứ gì. Chỉ đến để nhìn rồi quay về.”

    Vigor vẻ mặt khó hiểu. – “Thưa, thần thật sự không hiểu ý bề trên?”

    Ramses cau mày thất vọng, bặm môi như đang đắn đo liệu có nên giới hạn thêm sự kiên nhẫn của ngài hay không. Rồi ngài chợt phớt lờ Vigor, mặt hằm hằm bước thẳng về phía cửa. – “Ngươi chẳng biết cái gì cả. Đi theo ta!”

    Vigor liền theo sau Ramses. Chàng mặt điềm tĩnh, nhưng bụng thì run sợ. Trong giây lát đối đầu đó chàng lại cả giận mất khôn, không kiểm soát được con thú ngông cuồng, và để nó hành xử thay chàng một cách liều mạng. – ‘Phải kiềm chế.’ – Chàng cứ tự nhủ. – ‘Đứng trước vua như đứng trước gấu.’

    Vigor lại đi qua một loạt các dãy hành lang dài và thang cấp ngoằn nghèo, và chẳng có một bóng người, trừ hai cấm quân vẫn đang theo sát sau lưng. Chán nản với sự tĩnh lặng và u ám, Vigor trầm trồ chiếu lệ. – “Cung điện của bề trên quả là rộng lớn nguy nga, đi cả nửa ngày cũng không khám phá hết.”

    “Sướng mỗi con mắt. Lúc có chuyện thì phải chạy tới chạy lui muốn thở không ra hơi.” – Ramses đáp, không thèm nhìn lại. Tuy vậy, Vigor cảm giác được sự ấm lên đôi chút của bầu không khí.

    Chẳng lâu nữa thì họ dừng chân ở một căn phòng nhỏ bừa bộn giấy tờ, hẳn là thư phòng của tể tướng. – “Nhìn vào việc chính,...” – Ramses tiến tới trước một tấm bản đồ lớn treo trên tường. – “...ngươi có nhận thức được vai trò của những cái chợ đó không?”

    “Thưa, thì là chúng dùng để cho bọn gian thương trốn thuế.” – Vigor liền đáp.

    “Đó là vai trò hiện tại. Vai trò căn bản nhất của cái chợ đầu tiên của những ngày xa xưa là gì?”

    “Thì là...” – Vigor buột miệng, định đáp ngay theo thói quen, nhưng rồi lại chần chừ, suy nghĩ một thời gian lâu mà vẫn nghĩ không ra. – “Thứ lỗi cho thần ngu dốt, thực tình...”

    “Bỏ qua tiểu tiết!” – Ramses xua tay. – “Không biết thì cứ đáp là không biết.” – Ramses vừa nói vừa lấy bút lông ngỗng đánh dấu trên bản đồ. – “Giả sử đây là lãnh thổ A, và kia là lãnh thổ B. Ở vùng A, người ta có khoai, ở vùng B thì người lại có muối. Người ở nơi A cần muối và người nơi B cần khoai. Để có cái mà mình cần thì họ phải làm gì là tốt nhất?”

    “Thì thương nhân ở A sẽ tới B để lấy muối, tương tự thương nhân ở B cũng sẽ làm vậy.” – Vigor đáp vẻ suy đoán. – “Không! Không phải! Thương nhân A sẽ đem khoai của mình đi tới B để đổi muối. Thương nhân B cũng có thể làm điều tương tự.”

    “Sai!” – Ramses lắc đầu. – “Nếu đi như vậy thì cả hai đều phải đi một quãng đường dài là khoảng cách giữa A và B. Cách tốt nhất là thương nhân hai bên gặp nhau tại một nơi nằm ngay chính giữa hai nơi đó. Quãng đường sẽ rút ngắn xuống còn một nửa cho cả hai bên. Họ sẽ trao đổi ngay tại đó, và tại đó sẽ thành ra một cái chợ! Ta chỉ nói với ví dụ là hai vùng địa điểm, trên thực tế chợ là nơi trao đổi trung gian của rất nhiều vùng với nhau, nằm ngay trên các giao lộ, ngã ba, ngã tư tới các vùng, sao cho con đường tới các vùng là ngắn nhất, tiện nhất, an toàn nhất.”

    “Thì ra là vậy!” – Vigor thốt lên khi ngộ ra chân lý.

    “Những cái chợ ban đầu từ những ngày xa xưa theo thời gian đều biến thành những thành trì kiên cố cả, nơi thương nhân yên tâm buôn bán mà không sợ gặp phải giặc cướp, quân lường gạt, hạng lừa đảo. Vương quốc ta ở ngay trung tâm Thế Giới, thương nhân khắp nơi đều phải tụ hội về đây. Vương triều ta trước giờ chỉ việc đảm bảo trị an và thu thuế từ thương nhân. Hơn nữa dân ta cũng chẳng cần phải đi đâu xa mà vẫn có được vô vàn thứ sản vật quý giá từ khắp nơi. Tarbas giàu có, hưng vượng cũng là nhờ mấy cái chợ đó cả.” – Ramses tiếp tục giảng giải, nhưng rồi chợt quay lại nhìn Vigor với ánh mắt đánh đố. – “Ngươi có nhận ra điều bất thường ở đây chưa?”

    “Bẩm có!” – Vigor đáp không chần chừ nghĩ ngợi. – “Lúc còn ở chợ đêm đó, tên tiểu nhị lữ quán có nói tới việc hội chủ thị mở rộng các phiên họp chợ từ phía Đông rồi lan dần sang phía Tây. Ở các phương Đông, Nam, Bắc thì tiểu thần hiểu rằng mục đích chính là để trốn thuế. Nhưng các vùng cánh Tây Nam thì... Hừm,” – Vigor chững lại trong giây lát đắn đo. – “thì có loại thương nhân bí hiểm nào dám đến từ phía đó?”

    “Chính xác!” – Ramses gật đầu, ánh mắt nghiêm túc. – ‘Và chúng bí hiểm đó đang tìm cách thu gom hết thảy vũ khí và sắt thép của ta! Nimbus sẽ phải điều tra việc này.’

    “Vậy, chẳng lẽ nào trên tàn dư của Halatan hoặc Gardine còn có một đám người nào đó tồn tại? Ngay trong lòng đất quỷ?!”

    “Hẳn là vậy.” – Ramses đáp. – “Có thể đó là một vương quốc, một sào huyệt, một căn cứ, một ổ thổ phỉ, hay một chính thể bất kỳ nào đó chưa được công nhận tồn tại. Có cơ sở nào đó ta tin rằng những điều ngươi kể là thật.” – ‘Cũng là cơ sở mà ta tin rằng đám quân thứ cấp (secondary troop) có dính dáng tới lũ người này!’

    Quân thứ cấp là nhóm quân được điều gọi bắt buộc từ những người gốc tị nạn Halatan và Gardine. Binh sĩ thứ cấp sẽ không được phép thi cử và thăng hàm sĩ quan, thậm chí là còn không được tiếp nhận vào đội hình kỵ binh và cung thủ. Quan điểm của Ramses từ đầu đã xác định rằng không có lý gì mà người Tarbas phải đổ máu để bảo vệ đám dân ăn nhờ ở đậu cả. Những kẻ tị nạn kia phải được đưa ra chiến trường trước hết, chúng phải tự chiến đấu để bảo vệ mạng mình, lo cho sự tồn tại của đồng bào chúng. Dĩ nhiên, Ramses xem những kẻ tị nạn kia là những kẻ thất bại, những kẻ hạ đẳng, họ không xứng đáng được đứng ở những vị trí cao trong xã hội Tarbas. – ‘Sẽ không có một kẻ thứ cấp nào được phép mang hàm sĩ quan.’

    “Tạ bề trên đã tín nhiệm.” – Vigor cúi tạ.

    “Quay lại câu hỏi đầu tiên của ta,” – Ramses xua tay hỏi. – “ngươi đã xác định được nhiệm vụ của mình là gì chưa?”

    “Tiểu thần đã rõ. Thế nhưng còn những chuyện khác, như chuyện vũ khí, lũ quỷ…”

    Ramses ngắt lời Vigor. – “Đừng có dư hơi dài tay! Ngươi biết mình phải làm gì chứ?”

    “Chỉ có đôi chân, tai, mắt là hoạt động. Chỉ đến rồi mang theo sự thật trở về. Gươm mang theo nhưng tránh động tới. Máu đổ sẽ để lại vết. Địch tuy không thiện chiến nhưng bù lại về mặt quân số. Chúng có tai mắt ở khắp nơi nên hành tung phải bí mật. Bóng tối sẽ chở che cho ta. Như thế thì có nghĩa quỷ có thể can dự.” – Vigor đáp rành mạch.

    “Thế ngươi có sợ không?”

    “Bẩm hoàn toàn không!”

    “Thế thì cách đối phó hẳn đã có?”

    “Bẩm thần luôn luôn có cách đối phó, vẫn như mọi khi cả!”

    “Kể ta nghe.”

    “Là tùy cơ ứng biến!” – Vigor đáp tự tin.

    “Hừm!” – Ramses cau mày bực dọc. – “Sao cũng được, đừng làm hỏng đại sự của ta (don’t fail me).”

    ~~~~~~

    Khi chẳng còn ai gần Ramses thì Nimbus lại xuất hiện và họ thì thầm nhau nghe những bí mật.

    “Khóa tốt nghiệp sĩ quan ngày mười chín tháng Bảy năm Leonin XXV, nhằm năm MMCLXXXV (2185) lịch Nostal, có tám học viên tốt nghiệp trước hạn. Là Neimdan, Affin, Calmag, Nogias, Stukof, Hadim, Vigor và Pulagus.” – Nimbus trình bày. – “Tất cả đều xếp hạng kém, và bị điều đi đến các đồn khác nhau ở biên giới phía Tây. Riêng Nogias bị phát hiện có gốc gác Halatan nên bị tước tịch. Tới thời điểm hiện tại, Hadim, Pulagus, Affin và Calmag xác nhận là đã chết trận.”

    “Tất cả đều đào tạo cùng một trường chứ?”

    “Bẩm không. Chúng đến từ ba trường.”

    “Ngài có xem qua các khóa thi khác chứ?”

    “Các năm đều có sĩ quan tốt nghiệp trước hạn, nhưng khóa XXV là kỉ lục. Tuy nhiên, không rõ nguyên cớ mà tất cả đều bị đánh hạng kém.”

    “Nguyên cớ thì chỉ có một mà thôi!” – Ramses nghiến răng giận dữ. – “Từ đầu ngài chẳng muốn đồng tình với nghi ngờ của ta. Lũ chúng nó lộng quyền quá thể!”

    “Bề trên, giờ ta phải làm gì đây?”

    “Bí mật triệu tập các sĩ quan tốt nghiệp trước hạn về kinh. Ta sẽ đích thân thử thách chúng.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 25-06-2017 lúc 23:55.

  6. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,
  7. #39
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 4: Gotsar

    ~~~Thị trấn Warfen Bach, ngày ba tháng Mười~~~

    Người đưa tin bí ẩn đã báo với Gotsar rằng: hãy đến Warfen Bach, tìm đến lữ quán Shzeireche và đứng cạnh giếng nước, sẽ có “Họa Mi” tới đón lúc giữa chiều, không được đến sớm. Warfen Bach là tỉnh trấn cách kinh đô Tarbas hai trăm cây đá về phía Đông Nam. Gotsar tìm đến đó sớm hơn lúc hẹn, có điều là không đến tới giếng nước ngay mà ẩn mình trong hàng chục con người nhộn nhịp qua lại, và thầm quan sát. Mà giả như nếu có kẻ gian nào cũng ẩn mình như cậu thì cậu cũng chẳng tài nào mà nhận ra hắn, thế là thành ra rỗi hơi làm việc không ra gì. Cứ đi vòng vòng một lúc thì cậu đâm chán, quyết định tới ngay chỗ giếng nước trước lữ quán Shzeireche.

    Chờ chẳng lâu thì có một người phụ nữ lạ mặt tiến tới và bất ngờ ôm chầm lấy Gotsar, cười nói mừng rỡ, và thì thầm vào tai. – “Tôi là Họa Mi. Hãy tỏ ra tự nhiên, hành động ngờ nghệch sẽ tự tố cáo mình.”

    Gotsar nhanh chóng hiểu, liền tỏ ra niềm nở. – “Họa Mi là cô?”

    “Hãy theo tôi.” – Họa Mi kéo tay Gotsar đi. – “Đại Gia đang đợi.”

    Gotsar như bị cuốn theo người phụ nữ một cách vô điều kiện, mất một lúc ngẩn ngơ vì dung nhan và nụ cười rạng rỡ của nàng, vì những ngón tay mềm mại đang nằm gọn trong bàn tay cậu. Thêm cái ôm ấm áp đầy bất ngờ khiến cậu nảy sinh cái cảm xúc trai gái rất thuần khiết.

    “Ta đang đi đâu đây?” – Gotsar hỏi, thấy làm lạ khi Họa Mi dẫn mình đi lối khác chứ không phải vào lữ quán.

    Họa Mi chỉ cười, không đáp. Nàng dẫn Gotsar đi vào một con hẻm nhỏ, cứ đi dọc con hẻm cho tới khi dừng chân tại một lữ quán khác, trông nhỏ thó xập xệ, có biển hiệu là Lhama. Đám người trong quán trông chẳng mấy thân thiện, trao cho Gotsar cái ánh mắt dò xét. Họa Mi thì tỏ ra tự nhiên như chốn thân thuộc, tiến ngay tới chỗ lão chủ quán và nói. – “Khách Quý của Đại Gia.”

    Lão gõ ngón tay lên quầy cạch cạch, nhìn Gotsar dò xét trong một lúc. – “Đại Gia đang chờ trong phòng.” – Lão đánh con mắt qua một cánh cửa gần đó.

    “Em biết.” – Họa Mi đáp, rồi kéo tay Gotsar qua cánh cửa đó.

    Căn phòng sau cánh cửa có hai người đàn ông đang ngồi bên bàn. Một người ăn mặc sang trọng, tuổi trung niên, tướng mập mạp, cằm rậm râu, mặt phúc hậu. Người kia trẻ tuổi, mặt mũi lầm lì, tướng tá gầy nhom, ăn mặc rách rưới.

    “Xin giới thiệu,” – Họa Mi nói, chỉ tay về phía người trung niên. – “đây là Đại Gia. Còn người kia là Ăn Mày.”

    Gotsar đáp ậm ừ, vẫn chưa thể hiểu được chuyện gì đang diễn ra ở đây và những con người này thực sự là ai.

    “Ăn Mày, cậu hãy đi đón những người khác.” – Đại Gia ra lệnh cho Ăn Mày, rồi quay sang Gotsar. – “Hãy ngồi xuống đây, ta sẽ kể cho cậu những điều cần biết. Hãy cứ tự nhiên, không cần phải dè chừng, trước lạ sau quen, chúng ta đều là thủ hạ của bề trên cả.

    Chúng ta không có tên, gọi nhau bằng mật danh. Ra ngoài kia, mỗi người sẽ chọn cho mình một cái tên bất kỳ. Chúng ta cũng không cần biết tên cậu. Chúng ta có thể gọi cậu là gì?”

    Gotsar suy nghĩ trong giây lát rồi đáp. – “Petersander.”

    “Cậu định dùng tên thật chăng?” – Đại Gia hỏi Gotsar.

    “Không hề. Đó là tên của người chết.” – Gotsar đáp.

    “Tốt thôi. Gọi ta là Sjeivard.” – Đại Gia xưng tên.

    “Monet.” – Họa Mi cũng xưng tên.

    “Chúng ta đã tìm ra một ‘phòng đại diện’ ở đây.” – Đại Gia nói tiếp. – “Phòng đại diện của chúng ở Wortlang đã đóng. Lát nữa ta sẽ tiếp cận phòng đại diện Warfen Bach như một thương nhân, Họa Mi là đào của ta, và cậu là hộ vệ.

    Ta sẽ dò xem trong phòng đại diện có gì, quy mô tổ chức tới đâu, có bao nhiêu tay chân, bao nhiêu thương nhân có can hệ với chúng, cách thức mà chúng liên lạc với đồng bọn bên ngoài và các phòng đại diện ở địa phương khác. Mục tiêu cuối cùng là xác định được cơ quan đầu não và thủ lĩnh là ai.

    Nếu cậu không có câu hỏi thì ta sẽ lên đường bây giờ.”

    Gotsar không đáp, chỉ lắc đầu.

    ~~~~~~

    Mọi người sẽ cùng nhau đóng một vở kịch. Đại Gia sẽ là người nói chuyện khôn ngoan. Họa Mi sẽ là sắc màu tươi tắn và gợi cảm, che mờ cái nhìn dò xét và phân tâm ý nghĩ nghi ngờ. Đóng vai một hộ vệ, Gotsar biết thanh kiếm mình đang mang là thật, nhưng linh cảm thì mách bảo rằng thanh kiếm chẳng phải đơn giản là đạo cụ giúp cậu đóng tròn vai. Kiếm là vũ khí, luôn sẵn sàng để khơi mào bạo lực và kết thúc bạo lực. Gotsar thực tâm ước không phải dùng đến nó, nhưng nếu biến cố có ập đến, thì cậu đã sẵn sàng tinh thần.

    Đại Gia đi trước dẫn đường, tay trong tay dìu dắt Họa Mi. Cô nàng vừa õng ẹo, vừa lả lơi, lại hay cười nói tíu tít. Dẫu biết vẻ tình tứ, thân mật giữa hai người bọn họ chỉ là để diễn tròn vai, nhưng Gotsar vẫn thấy bực bội trong người. Cậu ghen tuông vì một ả đẹp xa lạ, nhưng cố chối bỏ sự thật đó, mặt cứ hậm hực lẽo đẽo theo sau. Thế thì lại hóa ra hay, cái mặt cậu cứ hằm hằm, đằng đằng sát khí, ăn nhập với cái vai hộ vệ. Cứ thế cho tới một lúc sắc mặt cậu chợt chuyển sang lo sợ, khi thấy mình bước chân vào nơi đáng lẽ không nên tới – khu du côn. (rogue)

    Khu du côn thì ở đâu chẳng có. Nhà cửa xập xệ, tạm bợ. Con người thì nghèo túng, rách rưới gầy gò, mặt mũi xanh xao, chẳng mấy thân thiện. Họ có khi là dân di cư tìm kiếm miền đất hứa nhưng chẳng thể đi xa được nữa, phải dừng lại chốn đây, tồn tại leo lắt qua ngày vì chẳng kiếm nổi một kế sinh nhai. Tuy nhiên, chỉ mỗi đám dân di cư thì chẳng đủ để làm nên cái tai tiếng của khu du côn. Cái tai tiếng đó có được là nhờ vào đám băng đảng du thủ du thực, chẳng muốn lao động mà chỉ hà hiếp kẻ yếu sức. Không ít trong số chúng là lũ trai tráng trốn lính, sống trốn chui trốn nhủi nơi ổ chuột, phải kết bè kết đám thành một đám côn đồ, ngày chẳng dám ló mặt vì sợ bị lính tóm, đêm thì mò ra đường trộm cắp vặt. Đám này không trừng trị thì dễ chừng biến tướng thành phường cướp cạn, rồi được các thế lực băng đảng, bang hội chiêu dụ về làm tay sai, làm quân đâm thuê chém mướn, sai đâu đánh đó. Cuối cùng chúng cũng là phải bán mạng đổi cơm, nhưng vẫn quá tốt khi không phải đánh nhau với quỷ.

    Đương trong mùa đông lạnh giá, lại túng thiếu và sẵn sàng gây hấn, đó là điều mà Gotsar lo sợ về đám người nơi đây. Sự chẳng thể nào tệ hại hơn nữa khi mà Đại Gia lại ăn vận xúng xính, cái vẻ ngoài thừa tiền lắm của của lão đang thu hút hằng chục ánh nhìn thèm khát. Gotsar cũng từng đi truy bắt thanh niên trốn quân dịch, cậu chẳng ngán đánh nhau với đám băng đảng ở đây. Có điều là khi đó cậu còn có đồng đội, bây giờ thì cậu chỉ có một mình, và phải bảo vệ hai con người tay không tấc sắt. – ‘Không, chỉ là mỗi Họa Mi thôi. Đại Gia là kẻ ngu ngốc, hãy cứ kệ lão, cứ nhìn cái dáng đi đứng ung dung, phải nói là ngông nghênh của lão ở một nơi như thế này thì biết.’

    Đại Gia cứ thế ung dung dẫn lối tới một con hẻm nhỏ tối tăm. Hai bên lối hẻm là vài ba người mặt mũi bặm trợn và ánh mắt hung ác. Dẫu vậy, Đại Gia vẫn bình thản tiến tới, Họa Mi vẫn tự nhiên tươi tắn. Riêng mỗi Gotsar là căng thẳng tột độ, môi vẫn đóng nhưng răng thì nghiến, trong đầu tưởng tượng ra hình ảnh cậu và lão Đại Gia bị lũ côn đồ ập tới giết chết, còn Họa Mi thì bị chúng bắt đi hãm hiếp tập thể, càng nghĩ thì tay cậu càng siết chặt lấy kiếm. May sao mọi hình ảnh tưởng tượng vẫn cứ chỉ là tưởng tượng mà không hóa thành hiện thực, lũ côn đồ thì chỉ xầm xì nhìn theo họ, Đại Gia thì vẫn cứ bước đều dẫn lối cho tới tận cuối con hẻm, tới trước một cánh cửa gỗ. Cánh cửa cũ nát mở ra cọt kẹt, hiện ra bên trong một căn phòng trống trải, bụi bặm, ẩm thấp và ám mùi khói nến.

    Chủ nhân duy nhất của căn phòng là một phụ nữ có tuổi, đứng sau một quầy gỗ cao, chào hỏi mở đầu. – “Các người là ai? Các người muốn gì?”

    Đại Gia cởi nón, cúi chào lịch sự. – “Chúng tôi đến mua thịt ba chỉ.”

    Người phụ nữ nhìn họ dò xét. – “Ngài cần bao nhiêu cân?”

    “Vừa đủ cho ba người.” – Đại Gia đáp đầy ẩn ý.

    Người phụ nữ không nói gì nữa, liền đi tới và mở ra một cánh cửa dẫn lối xuống một hầm tối, ngoắc cổ, ra hiệu cho các vị khách bước qua. Đại Gia vẫn hăng hái tiến bước, không một chút ngần ngại. Sau một lát thì Gotsar phát hiện đó không phải là hầm tối, mà là một lối đi ngầm dài hơn trăm sải, bốn phía trái phải trên dưới là ván gỗ đóng. Cuối lối ngầm là cầu thang bộ hai tầng, vách hai bên cũng là ván gỗ đóng. Nơi bậc thang trên cùng là một cánh cửa gỗ khác, mở ra một căn phòng sáng sủa và bài trí sang trọng khác thường. Treo trên trần là đèn chùm có đính thủy tinh đắt tiền. Bốn phía vách tường là giấy dán có hoa văn, có chỗ tường còn treo phủ vải nhung đỏ đắt tiền. Treo trên tường là tranh lồng khung gỗ chạm trổ, vẽ chân dung của một quý tộc nào đó. Dưới sàn trải thảm len có họa tiết sặc sỡ và hoa văn cầu kì. Ở góc phòng là các giá sách chất đầy văn thư cuộn tròn và sách bìa da.

    Vẻ sang trọng là thế, căn phòng trông ngột ngạt khép kín, không hề có lấy một cánh cửa sổ, phải thắp sáng bằng nến. Đối diện cánh cửa ra vào duy nhất của căn phòng là một bàn làm việc gỗ, cũng được chạm khắc những đường cong kiểu cách. Đằng sau cái bàn là một người đàn ông có tuổi, ăn vận chỉnh tề, đeo kính mắt, ra dáng học thức. Xung quanh rải rác là các ghế gỗ có đệm lót, ba cái trong số đó bị chiếm hữu bởi đám thủ hạ của người có tuổi kia. Đám này mặt mũi bặm trợn, tư thế ngồi chiễm chệ, tay cầm dao găm múa máy săm soi, ra vẻ sừng sỏ. Chúng đưa mắt nhìn nhóm Gotsar dò xét, rồi tập trung hết về phía Họa Mi bằng ánh mắt thèm khát. Đại Gia phớt lờ bọn chúng, tiến thẳng tới chỗ người đeo kính kia.

    Người đeo kính tạm dừng công việc với bút lông ngỗng và giấy tờ bừa bộn trên bàn, ngước mắt lên nhìn và hỏi. – “Ngài đây đến là để…?”

    “Chào ngài thư ký Karmaliuk. Tôi là Sjeivard, là thương nhân buôn vải.” – Đại Gia vừa nói vừa múa bàn tay, đưa ngón tay nhẹ nhàng lướt trên bộ trang phục của mình và bộ váy thêu họa tiết hoa lá của Họa Mi. – “Là vải vóc thượng hạng. Tôi muốn đăng ký phiên chợ tháng Mười, vùng Anker Bach.”

    Karmaliuk không lấy làm ngạc nhiên khi kẻ lạ mặt Sjeivard kia biết tên mình, lão chú tâm tới Họa Mi nhiều hơn là vải vóc mà Sjeivard đang nói tới. Lão rướn cổ tới trước, liếm môi, tay sửa lại kính mắt. – “Sjeivard đến từ vùng nào?”

    “Skojvard.” – Đại Gia đáp.

    Karmaliuk đưa tay kéo hộc bàn, lôi ra một cuốn sổ bìa da lớn. – “Sjeivard… Skojvard… vải…” – Lão lẩm bẩm, lật từng trang để dò thông tin.

    “Ồ ngài không cần phải tìm thông tin đâu. Tôi đến đăng ký lần đầu, là ngài Wooniz giới thiệu tôi đến đây. Tôi tin là ngài thư ký có biết ngài ấy. Ngài ấy có gửi thư giới thiệu đây.” – Đại Gia chìa ra một phong thư vẫn còn niêm sáp đỏ. (seal wax)

    Karmaliuk vẻ mặt ngờ vực, liền mở phong thư ra nhíu mắt xem, một chốc sau thì vẻ ngờ vực ấy tan biến. – “Phí ký danh mười lăm đồng vàng.”

    “Ô tất nhiên!” – Đại Gia liền đặt một túi tiền rổn rảng lên bàn, như thể đã biết trước mà đã chuẩn bị sẵn đúng mười lăm đồng vàng. – “Đồng vàng đúng chuẩn Kromner.”

    ‘Lịch Nostal, năm MDCCXXXVII (1737), bậc thầy luyện vàng vùng Haudenstaufen, Kromner đã sáng chế ra phương pháp luyện được thỏi vàng có độ tinh khiết lên tới chín mươi lăm phần trăm. Cũng năm đó, Kromner tạo ra quy chuẩn đúc tiền vàng mang tên mình…

    …Lịch Nostal, năm MCMXXXIX (1939), vua Doravan của Tarbas vì muốn việc giao thương giữa Tarbas và Telnum thuận tiện hơn, đã ban bố lệnh áp dụng quy chuẩn Kromner làm quy chuẩn tiền tệ duy nhất và bắt buộc. Vì tiềm lực kinh tế lẫn sức ảnh hưởng giao thương lớn của Tarbas, nên về sau quy chuẩn Kromner được các vương quốc khác áp dụng, và trở thành quy chuẩn tiền tệ thống nhất.

    -Heh’ran ký trình-’


    Karmaliuk liền ôm lấy túi tiền và cất nhanh vào trong một hộc tủ khác, rồi trở lại với bút và sổ sách. – “Ngài muốn đăng ký bao nhiêu đơn vị đất, bao nhiêu đơn vị người?”

    “Bốn đơn vị đất và mười bốn đơn vị người.”

    “Vậy còn giá trị hàng hóa?”

    “Ước chừng tám mươi đồng vàng.”

    “Được rồi. Tôi sẽ cần phải kiểm tra lại một số thứ. Trong lúc đó, ngài có thể chờ ở tầng dưới. Người của tôi sẽ đem thẻ xuống cho ngài.” – Karmaliuk chỉ tay về phía một tên thủ hạ đang đứng.

    Tên thủ hạ kia không nói gì, tiến thẳng về phía chỗ tường bị che phủ bởi tấm vải nhung đỏ lớn, đưa tay vén tấm vải lên, làm lộ ra một cánh cửa bí mật ẩn giấu đằng sau. Hắn mở cửa và ra hiệu cho nhóm Gotsar đi theo hắn. Họ theo đó mà đi xuống một tầng thang bộ tăm tối khác. Nơi cuối tầng thang là một hành lang dài hẹp, dẫn đường tới một cánh cửa gỗ bị khóa trong. Dù chưa mở cửa thì họ đã nghe thấy tiếng hò la ồn ào phía bên kia. Mở ra rồi thì mới thấy đằng sau cánh cửa là một tửu quán đông nghịt khách khứa. Tên dẫn đường ra hiệu cho họ đi ra, rồi nhanh chóng đóng sầm cánh cửa lại, khóa bên trong. Một tiểu nhị nhanh chân tới đón họ, dẫn họ tới một bàn trống để ngồi chờ, rồi còn mang ngay bia và thịt tới. Đám khách khứa liếc nhìn về phía họ, mà chính xác là về phía Họa Mi, bởi cô nàng là người phụ nữ xinh đẹp nhất ở đây, làm mấy ả hầu rượu phải ghen tị.

    Thấp thoáng qua lớp cửa sổ gương, Gotsar nhìn thấy một giếng nước. – ‘Chẳng lẽ là cái quán đó?’

    “Shzeireche.” – Họa Mi nói, khi biết Gotsar nhìn thấy cái giếng nước.

    Gotsar ngồi lặng im không nói gì, đưa mắt quan sát khắp quán và để ý thấy những điều kì lạ. Bàn trống vẫn còn nhưng tiểu nhị từ chối đón khách từ cửa chính, lí do bàn đã được đặt trước. Những người được phép vào thì phớt lờ tiểu nhị và tiến thẳng đến một bàn nào đó đã có người ngồi, vẻ như là có quen biết trước với các vị khách khác. Các vị khách ngồi tụm lại nói chuyện, chốc chốc là có sự thay đổi vị trí của người bàn này với người bàn kia, rồi sau đó họ lại nói chuyện rôm rả như thể tất cả đều quen nhau. Nếu có ai đó đứng dậy rời khỏi quán thì họ rời theo nhóm, trước đó còn nhận từ tiểu nhị một túi vải, trong đó có gì thì còn là bí ẩn. Còn Đại Gia và Họa Mi thì không chỉ đơn giản là nói chuyện cười đùa, mà họ còn ôm ấp mơn trớn, khiến cho Gotsar lại đâm ra khó chịu.

    Một lúc sau có người từ bàn khác nhảy qua bàn của họ và Đại Gia niềm nở tiếp đón, Họa Mi cũng cười đùa hùa theo. Gotsar thân phận là hộ vệ thì chẳng được phép nói gì, mà cậu cũng chẳng quan tâm họ nói với nhau cái gì vì đó chẳng phải lĩnh vực của cậu. Thoáng nghe thì biết đó là những câu chào hỏi và thăm dò, để biết nhau mỗi người buôn gì và làm ăn ra sao. Cậu nhìn ra khắp xung quanh, nhưng chốc chốc lại liếc nhìn Họa Mi để thấy cô nàng cười thật đẹp, nhưng nụ cười đó chẳng phải dành cho cậu nên cậu tức tối.

    Để hòa mình với đám người ở đây, Đại Gia chủ động rời bàn để nhập hội với các bàn khác, để lại Họa Mi và Gotsar. Họa Mi vẫn hiện ra tươi tắn và yêu đời, đáp trả lại mọi ánh mắt đang nhìn mình mà không thẹn thùng. Cô nàng biết cái liếc nhìn chốc chốc của Gotsar và chờ chực tóm lấy nó, rồi nhẹ nhàng đưa tay vén lớp vải voan mỏng trắng che vùng cổ ngực sang một bên, cắn môi dưới, đưa ánh mắt khớp hờ mời gọi. Gotsar tức thì hoảng sợ, đánh mắt tránh ngay đi chỗ khác, mi chớp liên tục.

    Một lúc sau tiểu nhị đến giao cho họ một cái túi vải, cũng là lúc Đại Gia trở lại bàn và ra hiệu đã đến lúc họ phải rời đi. Đại Gia đi ra một cách thong thả, vẫy chào một số người mà lão vừa mới nói chuyện xong. Gotsar nôn nóng muốn rời khỏi đây để hòng biết được có thứ gì trong túi vải, cũng như sự giải thích xác đáng về mọi chuyện vừa diễn ra, về cái chốn này, về những kẻ thương buôn kì quặc này.

    Bên ngoài gió lạnh, nền đất ướt nhão, xung quanh là những con người nam phụ lão ấu, giàu nghèo có đủ thành phần, có cái giếng nước và con hẻm nhỏ dẫn về quán Lhama mà Đại Gia đang hướng tới. Tuy nhiên, họ vừa bước tới chỗ giếng nước thì có tiếng gọi lại từ quán Shzeireche. – “Ngài Sjeivard xin dừng bước!”

    Là ba kẻ thủ hạ mặt mũi bặm trợn lúc nãy, có điều là lúc này giọng điệu chúng có vẻ khẩn thiết. – “Ngài Sjeivard xin nán lại đôi chút, chúng tôi có điều quên nói với ngài!”

    “Ồ! Có chuyện gì hệ trọng lắm sao?” – Đại Gia đáp niềm nở.

    “Tôi có lời nhắn gửi của ngài thư ký tới ngài. Xin ngài hãy theo tôi.” – Kẻ thủ hạ cầm đầu nói.

    “Thứ lỗi vì tôi đang bận việc. Xin ngài cứ nói ngay tại đây.”

    “Thật sự ở đây đông người, không tiện.”

    “Vậy hãy thì thầm vào tai tôi vậy.”

    Kẻ thủ hạ cầm đầu chợt cau mày, kê miệng vào tai Đại Gia và gằng giọng. – “Chúng mày đừng có làm trò! Mau đi theo ta. Không thì ta chém chết mẹ chúng mày!”

    Sự thay đổi thái độ của đám thủ hạ khiến cho Gotsar không khỏi phải bất ngờ. Đại Gia chỉ nhún vai cười gượng, trong khi hai tên khác đầy vẻ hăm dọa vây lấy Họa Mi và Gotsar.

    “Thôi nào, thôi nào.” – Đại Gia cười nói nhún nhường. – “Mọi việc đều có thể được giải quyết nhẹ nhàng. Không cần phải phức tạp lên như vậy, ngài đồng ý chứ?”

    Kẻ cầm đầu vẫn cau mày, lắc đầu không đáp. Cũng lúc đó, có rất nhiều tên du côn đang tiến lại gần từ khắp phía, trên tay vung vẩy vũ khí, không phải kiếm thì cũng chùy, rìu, gậy gộc… Đại Gia thốt lên, vẻ khổ sở. – “Ôi, vậy là ta không thể nhỏ nhẹ với nhau được ư?”

    Kẻ cầm đầu vẻ mặt lầm lì tóm lấy cổ áo Đại Gia kéo lại và hất hàm, buông lời đe dọa. – “Chúng mày sẽ phải cầu xin ta nhẹ nhàng!”

    Đại Gia chép miệng, lắc đầu vẻ làm tiếc. – “Ngu lắm con ạ! Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.” – Vừa dứt lời, lão đâm ngay một lưỡi dao mảnh và dài xuyên qua cổ họng hắn ta. Trước đó, từ trong tay áo phải của Đại Gia rơi ra lưỡi dao và lão nhanh tay bắt lấy nó. Kẻ cầm đầu khuỵ xuống trên đầu gối, tay bóp lấy cổ họng tuôn máu, ánh mắt ngỡ ngàng.

    Trong khi đám người kia còn đang bất ngờ, lão liền tiếp đó xoay người sang trái, vung tay trái ném ra một thứ bột trắng về phía kẻ thứ hai đang đứng gần Gotsar, khiến kẻ đó phải hốt hoảng nhắm mắt, bước lùi lại. Lão chỉ trông đợi có thế mà vồ tới xiên ngay lưỡi dao sắc nhọn vào cổ hắn. Cú vồ làm cả hai ngã lăn xuống nền đất ướt nhão và bị lấm lem bùn đất.

    Kẻ còn lại liền rút kiếm toan chém Họa Mi. Lưỡi kiếm của hắn đang bổ xuống thì bị kiếm của Gotsar đánh bật ra, phát ra tiếng keng sắc lảnh, rồi sau đó cả hai lao vào giao chiến. Đám du côn ba bốn chục tên thấy đã có máu đổ xuống, liền lập tức la lớn xông lên. Gotsar đánh bật kẻ thù ra, nhìn xung quanh bốn bề là địch thì thấy kinh sợ, đổ mồ hôi trong cái giá lạnh. – ‘Phen này ta chết chắc!’

    “Monet! Hãy theo sau ta! Ta sẽ mở đường máu cho nàng, hãy chạy thật nhanh!” – Gotsar nói với Họa Mi xong thì liền la to, xông thẳng về phía con hẻm tới quán Lhama. Phía trước cậu ít nhất là sáu tên lực lưỡng, và không kẻ nào trong số chúng có vẻ sẵn lòng khoan nhượng. Cậu run sợ, tim đập thình thịch như trống, hơi thở nặng nề, trán đổ mồ hôi, cơ thịt căng lên và các ngón tay thì siết chặt lấy cán kiếm mạnh hết sức. Nếu muốn chạy thoát thân thì cậu thừa sức, nhưng sẽ lại có người nào đó phải ngã xuống thay, như đám Petersander với Carluso. Đây sẽ là trận chiến cuối cùng của cậu, chết thì là chết, cậu quyết phải giết được càng nhiều càng tốt, bởi cậu tin rằng đám người này và đám người bịt mặt kia là cùng một ruột. Đây sẽ chẳng phải là trận liều mình để bảo vệ người khác nữa, đây sẽ là trận báo thù.

    Lúc Gotsar sắp giáp mặt kẻ thù, thì bất chợt có một tiếng nổ nhỏ phát ra trước mặt cậu, nghe như tiếng pháo, rồi kéo theo sau đó là khói xám từ mặt đất bốc lên mù mịt, che mờ tất cả mọi thứ trong tầm mắt, xung quanh lẫn trên trời. Nhiều tiếng nổ khác đồng loạt vang lên và khói mù càng thêm dày đặc. Tiếng la ó kinh ngạc của bọn côn đồ vang lên từ khắp nơi. Gotsar nhìn lại phía sau thì chỉ thấy khói mù phủ dày, không thấy bóng dáng Đại Gia với Họa Mi đâu. Ít giây sau đó là hàng loạt tiếng bước chân đạp bùn lạch bạch, với tiếng đàn ông la hét ghê rợn vang lên từ khắp phía. Hai thứ âm thanh đó hòa lẫn với nhau, khiến cho Gotsar phải kinh hãi nhìn quanh, bất giác la to gọi tên Họa Mi. Gọi mãi không có lời hồi đáp, cậu chỉ biết im lặng nắm chặt kiếm thủ thế đề phòng, không tài nào đoán được chuyện gì đang diễn ra và sẽ ập đến với cậu.

    Chưa đến một phút thì mọi thứ trở nên im ắng và khói mù tan biến. Khu đất rộng đông người qua lại giờ đã ngổn ngang xác chết bị cắt cổ. Đám thường dân xung quanh la hét kinh hãi khi thấy thảm cảnh, một số thì hoảng sợ bỏ chạy. Gotsar đứng ngơ ngác nhìn quanh, trong khi Đại Gia và Họa Mi thì tỏ ra điềm tĩnh, quan sát xung quanh một cách đề phòng. Từ đằng xa họ đã nghe thấy tiếng quân lính đang kéo tới ầm ĩ, không ngớt la to bảo người dân tránh đường. Họa Mi biết thế bèn tiến thẳng tới chỗ Gotsar, bất ngờ đưa dao cứa một nhát lên tay phải Gotsar, làm cho cậu phải buông kiếm. Khi Gotsar còn chưa kịp hiểu ý đồ của Họa Mi là gì, thì cô ả liền nhanh như cắt cứa một nhát nữa lên tay trái Gotsar. Khi đám lính vừa xuất hiện sau đám đông, Họa Mi liền ôm lấy cánh tay đang chảy máu thành dòng của Gotsar, chân đạp vào khớp gối chân sau làm cậu quỳ xuống rồi ả khóc lóc thảm thiết. – “Ai đó cứu chồng tôi với! Anh ấy chết mất!”

    Đám lính tới nơi liền ập đến chỗ mấy xác chết dò xét, rồi cũng ngơ ngác nhìn quanh để tìm kiếm một đầu mối thông tin nào đó. Họ thấy một đám thường dân số thì run sợ, số thì tò mò chỉ trỏ. Họ thấy có nhiều người bị thương tích do bị chém, đằng kia người vợ kinh hãi dìu người chồng vẻ thất thần đi kiếm thầy thuốc. Buồn cười hơn lã gã phú hào kia, xiêm y sang trọng nhưng bị lấm lem đầy bùn khi lão mặt mũi tái mét, hốt hoảng bò lết tránh xa cái bãi chiến trường đó. Đám lính đi dò hỏi tìm nhân chứng, thì được nghe kể câu chuyện cổ tích về một làn khói kì ảo chết chóc.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Xin bổ sung:
    - Sự kiện ở quảng trường Hồng Diệp là nhằm ngày 15/9/2190.
    - Bổ sung một đoạn ngắn ở cuối Chương 7, đoạn 3.
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 26-06-2017 lúc 14:42.

  8. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,
  9. #40
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Quyển 1: Năm của loài người

    Chương 7: Hướng của mỗi người

    Đoạn 5: Gotsar

    Đêm hôm đó, cả thị trấn Warfen Bach trở nên náo loạn bởi vụ cháy quán Shzeireche, làm sáng rực cả một vùng. Nhiều ngôi nhà lân cận bị ngọn lửa liếm phải, không thoát khỏi số phận hóa thành tro tàn khi trời vừa sáng lên. Ở quán Lhama, bảy con người mang bí danh bàn luận sôi nổi với nhau về sự việc này.

    “Chúng ta có thu được đầu mối nào không?” – Họa Mi hỏi.

    “Ta chỉ có thẻ bài và giấy thông nhập, đúng như tin báo.” – Đại Gia ném lên bàn cái túi vải nhận được từ quán Shzeireche. – “Ngoài ra chẳng còn gì khác. Ngọn lửa đã xóa sạch tất cả.”

    “Khốn kiếp lũ lính phá bĩnh!” – Ăn Mày ngồi bệt trong một xó chửi rủa.

    “Làm sao mà chúng lại biết ta có vấn đề?” – Họa Mi hỏi.

    “Wooniz.” – Đại Gia đáp vẻ rầu rĩ. – “Đáng lẽ phải nghe lời Góa Phụ, thiêu xác thay vì đem chôn.”

    “Có chôn thì cũng phải lột da mặt, phải không Họa Mi?” – Góa Phụ lên tiếng chất vấn. Góa Phụ là phụ nữ đã có tuổi, trên tay đang bế con nhỏ ru ngủ.

    Họa Mi khoanh tay, nhướng mày nhìn lảng sang chỗ khác, đáp ấp úng. – “À thì… tôi vẫn… vẫn… chưa quen làm việc ấy.”

    “Vì mi mà hỏng hết đại sự!” – Góa Phụ chì chiết. – “Phải lột da cái mặt xinh đẹp của mi thì lần sau mi mới chừa!”

    “Mụ muốn thử không?” – Họa Mi cười mỉm khiêu khích, sau tay áo thả lỏng của cô nàng thấp thoáng lưỡi dao.

    Góa Phụ nhẹ nhàng đặt đứa trẻ lên ghế, rồi liền hung hãn lao tới Họa Mi. Đại Gia liền lao ra can ngăn, xô Góa Phụ lùi lại. – “Mụ ngồi im! Mụ không có quyền phán quyết ở đây. Cả cô nữa Họa Mi! Ta sẽ trị cô vì tội khinh suất.”

    Ở một góc khác của căn phòng, Nông Dân nói nhỏ với Thợ Rèn. – “Cá năm đồng Họa Mi thắng.”

    “Năm đồng cho Góa Phụ.” – Thợ Rèn đáp.

    “Đặt mười đồng cho Họa Mi tối nay lấy thân chuộc tội.” – Tiều Phu châm biếm.

    “Cả chúng mày nữa! Thôi đi!” – Đại Gia quát.

    Cả căn phòng im lặng, đứa trẻ thì bật khóc. Góa Phụ đành hậm hực trở lại dỗ con. Ăn Mày lên tiếng thể hiện tiếng nói của mình. – “Nếu mất đầu mối thì ta sẽ làm gì tiếp đây?”

    “Không hẳn là mất.” – Đại Gia chắp tay sau lưng, đáp. – “Mất là mất đầu mối trực tiếp. Nhưng ta lại có đầu mối gián tiếp. Đó là đám thương nhân trong quán. Ta đã thu thập không ít thông tin. Ta sẽ theo đám người này, đừng để hỏng như Wooniz. Lũ chủ thị sau vụ này sẽ cẩn trọng, có khi bế quan. Nếu được thì hãy lùng theo Karmaliuk hay đám thư ký. Đám thủ lĩnh băng đảng cũng ít nhiều có dính líu, hãy dõi mắt luôn đám người này.”

    Cánh cửa phòng bên chợt mở ra và người thứ tám xuất hiện, trông đã có tuổi tác, râu tóc đã bạc và mặt đã hằn nếp nhăn. – “Tôi có bỏ lỡ điều gì không nhỉ?”

    “Hắn ta sao rồi?” – Đại Gia hỏi.

    “Hai nhát cắt rất chuẩn xác. Không trúng mạch chủ. Khá lắm Họa Mi!”

    “Cám ơn lão Đại Phu!” – Họa Mi cười đáp, vẻ tự hào.

    “Ta không có muốn khen cô đâu.” – Đại Phu lắc đầu.

    “Em không có cám ơn vì lời khen.” – Họa Mi lắc đầu đáp trả.

    Đại Phu cau mày khó chịu, nhưng cũng đành phớt lờ Họa Mi, quay sang Đại Gia. – “Hắn được phép tham gia với chúng ta chứ?”

    “Chưa được.” – Đại Gia đưa bàn tay lên ra hiệu. – “Vẫn chưa được.”

    “Tại sao chứ?!” – Gotsar đột nhiên xông vào phòng, tiến thẳng tới chỗ Đại Gia.

    Ăn Mày ngồi dưới đất liền đưa chân ra gạt chân Gotsar, làm cậu ngã nhào. Ăn Mày tiếp đó lao tới ngồi đè lên lưng Gotsar, nắm tóc giật đầu rồi kề lưỡi dao mảnh vào cổ họng cậu. Đại Gia đứng chắp tay nhìn, rồi thở dài. – “Cậu chưa đưa phép đưa ra câu hỏi ở đây.”

    “Tại sao chứ?”

    “Thứ nhất, cậu quá dễ để giết. Thứ hai, cậu chưa có được lòng tin của bất kỳ ai ở đây.”

    “Thế các người là ai?” – Gotsar nhìn tám người bọn họ. – “Tất cả các người, tôi đã thấy các người ở đó, các người đã lẩn trong đám dân. Chẳng một ai trong các người trông như một kẻ vừa giết người! Các người không phải quân lính. Các người là ai? Các người đang làm cái gì vậy?”

    Đại Gia thở dài. – “Chúng ta chỉ là chúng ta. Chúng ta làm việc chúng ta phải làm. Cậu hẳn biết là chúng ta đang theo sau kẻ thù của cậu, những kẻ đã truy sát cậu ở Đồn V.”

    “Nhưng… hãy nhìn xem… cách các người lên kế hoạch… cách các người thu thập thông tin… cách các người đóng kịch… cách các người cắt cổ bọn chúng… tất cả những gì các người đang làm…” – Gotsar căng thẳng, nói như mắc nghẹn. – “Chuyên nghiệp! Cực kỳ chuyên nghiệp! Các người có thể hành động mà không cần có tôi. Từ đầu tôi đã nghĩ tôi phải đi theo bảo vệ các người. Nhưng không phải! Các người là ai? Các người cần gì ở tôi?!”

    Đại Gia cau mày, nghiêng cổ, vẻ ngạc nhiên. – “Ai nói là bọn ta cần cậu?”

    Gotsar cũng tỏ ra ngạc nhiên không kém, câu hỏi tiếp nối câu hỏi làm cho tất cả đâm ra khó hiểu cho sự việc. Cho đến khi câu trả lời thực sự đến từ Họa Mi. – “Chúng tôi không cần anh. Chúng tôi đang thử thách anh!”

    Ánh mắt Gotsar khi đó sáng lên, chợt như đã thấu hiểu hết tất cả mọi sự. – “Vậy ra… các người… các người chính là…”

    “Không! Bọn ta không bao giờ nhận mình là…” – Đại Gia vẻ ái ngại, xua tay.

    “Cấm quân!” – Gotsar kết thúc kết luận của mình.

    Tức thì những con người ở đó nổi giận sục sôi. – “Mẹ kiếp!”, “Giết hắn!”, “Đem chôn hắn đi!”, “Cái thứ ngu như bò này chúng ta không cần!”…

    Gotsar ngơ ngác nhìn quanh, chẳng hiểu mình đã nói sai cái gì. Họa Mi đứng trong một góc cười tủm tỉm. Đại Phu thì tỏ ra điềm tĩnh hơn. – “Tôi chấm hắn rớt.”

    Đại Gia vẻ mặt chán nản, đứng chống nạnh, lắc đầu. – “Cậu vẫn chưa đủ tư cách. Hãy ra khỏi đây. Họa Mi, tống hắn đi cho khuất mắt ta.”

    ~~~~~~

    ‘Để đối phó với làn sóng nổi dậy nhằm lật độ huyết thống Huyền Vương, năm MDCCLXXVIII (1778) lịch Nostal, vua Tarbas đời thứ I Harkan cho thành lập hai nhóm quân, là Đông Chạn và Tây Chạn (Chaur).

    Đông Chạn là nhóm quân võ, đông đảo về quân số và ưu tiên về quân bị, lập ra là để trấn giữ các tỉnh miền Đông, vốn đông dân và thuần nông.

    Tây Chạn là nhóm quân mưu, quân ít nhưng túc trí đa mưu, lập ra là để kiểm soát đám phú hào, thương buôn, thầy kĩ nghệ. Thậm chí còn là đám quan lại quý tộc, giới tướng lĩnh. Và đặc biệt là phải để mắt tới thành phần tri thức cấp tiến trong xã hội. Kẻ nào bị quy kết là có âm mưu chống lại quyền lực nhà vua sẽ bị ám sát.

    Quân Đông Chạn hành vụ công khai, lắm thực quyền, chẳng lâu thì uy danh nổi khắp, không ai không nể sợ.

    Quân Tây Chạn hành vụ tuyệt mật, không cờ xướng, không đồng phục. Thiên hạ chẳng mấy ai biết, kẻ biết ít thì nghe phong phanh qua lời đồn thôi ghê sợ, kẻ biết nhiều thì chẳng dám hó hé. Nhóm quân này khi hành quyết một ai thì không để lại dấu vết. Mật quân Tây Chạn đến thủ phủ (cơ quan đại diện) cũng không có, về sau được ví gọi là tàng quân.



    Quân nổi dậy có ba thành phần: kẻ biết (the ones who know), kẻ nói (the ones who speak) và kẻ nghe (the ones who listen). Kẻ biết là kẻ thủ lĩnh, là kẻ có tư tưởng cấp tiến, thường xuất thân từ tầng lớp thượng lưu được tiếp cận giáo dục. Kẻ nói là kẻ phụ tá, là kẻ ủng hộ, xuất thân từ tầng lớp trung lưu biết chữ nghĩa. Kẻ nghe là kẻ tuân lệnh, là tay chân, là lực lượng chiến đấu chủ lực, phần đông là tầng lớp hạ lưu, nông dân thợ thuyền, đầu óc đơn giản, ít học.

    Tây Chạn bỏ qua kẻ nghe, tra khảo kẻ nói và săn lùng kẻ biết.



    Năm MDCCCXCVII (1897) lịch Nostal, vua Tarbas đời thứ III Orovan cho giải tán Đông Chạn và thành lập lực lượng cấm quân dựa trên một phần quân Đông Chạn. Nhiệm vụ duy nhất của cấm quân là bảo vệ kinh thành, nếu có ra ngoài thành để hành vụ thì phải có lệnh của vua. Mất Đông Chạn nên cái tên Tây Chạn chẳng còn ý nghĩa, giám quan Tây Chạn lúc đó là Neudeck đề xuất lên vua đổi tên Tây Chạn thành Maril. Maril trong cổ ngữ Telnum nghĩa là hư ảo.

    Vua đồng ý đổi tên, đồng thời hoạch định lại nhiệm vụ của Maril, không chỉ là thám báo nội bộ mà còn phải làm tình báo quân sự.

    -Heh’ran ký trình-’


    ~~~~~~

    “Tôi đã nói sai cái gì mà khiến họ phải phản ứng dữ dội như vậy?” – Gotsar vẫn còn thắc mắc.

    “Anh vừa nhắc tới kẻ thù không đội trời chung với họ.” – Họa Mi dẫn Gotsar về phòng. – “Tối nay mọi người sẽ ở lại đây. Anh cũng thế. Cánh tay của anh không sao chứ?”

    “À, ừ, không sao! Nhưng tại sao cô phải làm như vậy?”

    “Em xin lỗi. Không còn cách nào khác nữa.” – Họa Mi vẻ ngượng nghịu. Gotsar thấy thế thì cũng im lặng, không muốn truy cứu gì nữa. Cả hai cứ thế im lặng trong một, mắt lảng nhìn ra khắp xung quanh, rồi đột nhiên cùng cất tiếng như vừa nhớ ra chuyện gì đó, rồi họ lại cười ngượng nghịu nhường nhau. Thế rồi Họa Mi mới nói tiếp. – “Nếu như không có chuyện gì nữa em đi đây.”

    “Cô đi đâu?”

    “Trở lại sảnh. Chúng em vẫn chưa xong việc. Anh đừng đi theo. Nếu anh cứ lằng nhằng thì họ buộc phải trói anh lại.”

    “Vậy thì tôi không theo nữa. Nhưng có điều này hỏi nói cho tôi biết, tôi đang bị thử thách gì vậy?”

    Họa Mi lắc đầu, vẻ miễn cưỡng. – “Em không được phép tiết lộ, tuy nhiên, nếu mọi sự suôn sẻ thì trước sau gì anh cũng sẽ được biết. Nhưng, để đền đáp ơn đỡ giúp em nhát kiếm đó, em sẽ cho anh biết.” – Họa Mi lại chợt nấn ná trong giây lát. – “Em sắp vi phạm điều thứ nhất của hội quy. Chúng em là thành viên Maril. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ ở đây, chúng em còn phải thử thách anh trước khi đưa ra quyết định là có tiếp nhận anh trở thành viên mới của hội.”

    Gotsar nghe tới chữ Maril thì đã sửng sốt. – “Không thể nào! Các người sao có thể là Maril được? Maril phải là những kẻ áo đen đêm đó, những kẻ ẩn mình trong bóng tối!”

    Họa Mi thở dài ngao ngán. – “Nói thế thì họ lại càng ghét anh. Nhầm tưởng họ với kẻ thù truyền kiếp, rồi lại so sánh họ với đám nghiệp dư kia. Đừng vội vã, rồi anh sẽ hiểu hết mọi chuyện. Anh vẫn còn đang trong giai đoạn thử thách. Anh sẽ được thử thách về mặt tư chất, còn kỹ thuật sẽ được huấn luyện sau. Hãy cẩn thận, Đại Gia có con mắt rất sắc bén và là cửa ải khó khăn nhất.”

    ~~~~~~

    Lúc này tại sảnh lớn ở tầng trên của quán Lhama.

    “Giám quan đã quyết định người Gotsar đó sẽ là người thay thế.” – Đại Gia nói. – “Ta sẽ gác kiếm khi mùa Xuân tới. Đây sẽ là chiến dịch cuối cùng của ta.”

    “Không thể nào!” – Ăn Mày nói. – “Một tên ăn hại như hắn sao đủ tư cách thay ngài được?”

    Những người khác ai cũng tỏ ra phản đối. Thấy thế Đại Gia mới giải thích. – “Các ngươi hiểu nhầm rồi. Kẻ chính xác thay thế ta sẽ là Đại Phu. Còn hắn ta sẽ thế chỗ Đại Phu. Như vậy thì các ngươi có còn phản đối gì không?”

    Đại Gia nhận được những cái lắc đầu im lặng. – “Vậy thì hãy thử thách rồi đánh giá hắn thật nghiêm khắc. Nếu không các ngươi sẽ phải chấp nhận một kẻ tân binh chẳng biết gì làm cộng sự.”

    “Một kẻ trên mình lắm sẹo vì đánh nhau với quỷ thì tôi hề không nghi ngờ sức lực hay lòng gan dạ.” – Đại Phu nói. – “Tôi chỉ ngại đầu óc của lũ võ biền quá ngây ngô mà thôi.”

    “Ta sẽ thử thách hắn điều này.” – Đại Gia chống nạnh. – “Điều ta lo ngại là cảm tính của hắn. Giao hắn cho Họa Mi thử thách cảm tính thì càng đáng sợ. Cho dù hắn có là do giám quan tiến cử, thì hãy cứ thẳng tay hạ hắn nếu như các ngươi cảm thấy bất an.”

    ~~~~~~

    ‘Sáu quy định của Maril.

    Thứ nhất: trung thành tuyệt đối với đức vua.

    Thứ hai: không được tự nhận mình là Maril.

    Thứ ba: không để người ngoài biết về Maril.

    Thứ tư: nhiệm vụ là quan trọng, nhưng tính mạng là ưu tiên hàng đầu.

    Thứ năm: không được thất bại ba nhiệm vụ liên tiếp.

    Thứ sáu: có hai cách để rời Maril. Một là phục vụ tới tuổi gác kiếm. Hai là chết.

    Hình phạt duy nhất: xử tử.

    -Nimbus ký trình-’


    ~~~~~~

    Tại phòng của Gotsar.

    “Liệu tôi có thể trở lại đồn không?” – Gotsar hỏi.

    “Không được, anh ‘đã chết’, và kẻ thù tin là như vậy.” – Họa Mi đáp. – “Nếu anh trở lại thì chúng sẽ tiếp tục săn lùng anh mà thôi. Nói thật anh chẳng có một chút tư chất nào để trở thành Maril cả. Hẳn anh đã lập công trạng to lắm nên giám quan mới tiến cử. Tiến cử thì là tiến cử, anh thất bại thử thách thì vẫn sẽ bị hành quyết.”

    “Hành quyết?” – Gotsar cau mày.

    “Ai thất bại thử thách đều bị xử tử, để giữ bí mật của hội. Lý ra thì anh vẫn chưa là thành viên chính thức, vẫn được xem là người ngoài. Nãy giờ em đã phạm điều hai và điều ba của hội quy, hình phạt cũng là xử tử. Anh thương em thì hãy cố gắng vượt qua thử thách.”

    Gotsar nhướng mày, chợt cảm thấy có lỗi. – “Tôi sẽ bị thử thách như thế nào?”

    “Anh sẽ theo mọi người thực hiện nhiệm vụ. Nhiệm vụ thì hoặc là hành thích, hoặc là tình báo. Phải tránh giết chóc không cần thiết. Nếu có đụng độ thì phải tìm cách bảo toàn tính mạng trước, không chạy được thì phải giết địch cho bằng hết. Chuyện bảo vệ đồng bọn là không cần thiết.”

    “Thật kì quặc!” – Gotsar thốt lên. – “Không phải lúc chiều bọn họ đã lao vào hỗ trợ chúng ta ứng chiến sao? Mà khoan, cô có con dao, chẳng lẽ cô cũng giết bọn chúng?!”

    “Bọn họ không nhận lệnh bảo vệ chúng ta đâu. Bọn họ nhận lệnh giết địch. Lệnh là của đốc công, ở đây chính Đại Gia. Phụ thuộc vào quyết định của Đại Gia, lão bỏ chạy thì cả bọn thân ai nấy lo, lão giết thì cả bọn xông lên giết.

    Trước giờ chẳng ai bảo vệ em cả. Lúc đó, anh đã bảo vệ em. Trong khói mù còn gọi tên em nữa. Em cảm động lắm. Tuy nhiên hành động của anh sẽ chẳng được đánh giá cao.”

    “Tôi chẳng quan tâm. Ngoài kia chiến trường, muốn sống thì phải giương khiên che chắn lẫn nhau. Một kẻ bỏ chạy là đội hình vỡ nát, kéo theo bao nhiêu kẻ chết. Hơn nữa là người lính thì phải bảo vệ thường dân. Với tôi, cô cũng chỉ là thường dân.” – Gotsar quả quyết.

    “Trong mắt anh, liệu em có chỉ là thường dân?” – Họa Mi đáp vẻ nghi ngờ. – “Những lần anh lén lút nhìn em thì có nghĩa gì?”

    “Ồ không! Đó chỉ là trùng hợp thôi!” – Gotsar chối bay, tìm cách lảng tránh. – “Quay lại chuyện thử thách, liệu tôi còn phải làm gì nữa?”

    “Anh sẽ cứ đi theo và quan sát cách mọi người phối hợp. Anh phải tự học lấy, chẳng ai chỉ dạy cho nhiều đâu. Tư chất quan trọng mà một Maril cần có là khả năng quan sát và đọc tình huống, để rồi ứng phó hợp lý. Một chiến dịch yêu cầu đóng kịch thì sẽ phải gặp nhiều tình huống bất ngờ, kịch bản dựng trước sẽ chẳng giúp ích gì nhiều. Ở chiến dịch khác nhau thì vai diễn của mỗi người cũng sẽ phải khác nhau, để tránh tai mắt của địch nhận dạng được ta. Ở chiến dịch trước, Đại Gia lại có bí danh là Đồ Tể.”

    “Mọi người không gọi nhau bằng tên sao?” – Gotsar hỏi.

    “Maril còn được gọi là thứ quân bách nhân vạn diện (trăm người vạn mặt). Danh tính nghề nghiệp không hề có định mà thay đổi theo chiến dịch. Những ai tham gia một chiến dịch là do giám quan phân bổ. Chiến dịch trước đó có em, Đại Gia và Ăn Mày, những người khác thì hẳn đang ở chiến dịch khác rồi. Cứ thế mọi người cứ quen dùng tên giả và bí danh. Rồi anh sẽ quen thôi.

    Khi đã vượt qua thử thách tư chất, anh sẽ được huấn luyện kĩ thuật Maril, học cách chiến đấu và di chuyển của một Maril.”

    “Bí danh của cô là Họa Mi, vậy nghề của cô là gì?”

    “Em làm đĩ.”

    “Cái gì?” – Gotsar thốt lên. – “Không thể nào!”

    Họa Mi bật cười. – “Có sắc đẹp thì nghề nào hợp hơn làm đĩ hả chàng?”

    “Hừm! Nghề nghiệp sẽ thay đổi theo từng chiến dịch, mọi người sẽ chỉ đóng kịch chứ chẳng hành nghề thật.” – Gotsar gãi cằm, tự lý giải. – “Vậy sau khi hoàn thành một chiến dịch thì mọi người sẽ làm gì?”

    “Mỗi người sẽ trở về địa phương nơi mình ở và tiếp tục sống với nhân dạng, danh tính, nghề nghiệp tùy ý. Khi có điều động chiến dịch thì mọi người sẽ tụ họp lại tại một bản doanh như nơi này.”

    “Vậy thì cô ở đâu, làm gì?” – Gotsar hỏi. – “Mà cô có tên thật chứ?”

    “Không ai có tên thật cả. Anh cứ gọi em bằng cái tên mà anh thích.”

    “Monet. Cái tên này rất đẹp, hợp với cô.”

    Họa Mi vẻ bẽn lẽn. – “Em cũng thích cái tên này. Hết chiến dịch thì em lại về trấn Meynor, phía Đông Mearodon. chắc chàng biết nơi này?”

    “Tôi biết. Nếu là phải tìm một nơi trú thân thì tôi chẳng biết phải đi đâu. Cô sẽ giúp tôi chứ?”

    “Cần giúp đỡ thì anh cứ đến tìm em.”

    “Tôi sẽ tìm cô ở đâu ở Meynor?” – Gotsar tim đập thình thịch, trong lòng bấn loạn, nhưng cố tỏ ra điềm tĩnh.

    “Kỹ viện duy nhất ở Meynor. Em làm đĩ ở đó.”

    Gotsar cau mày bực mình. – “Cô đang đùa với tôi đó hả?”

    “Không.” – Họa Mi lắc đầu vẻ hồn nhiên. – “Em nói thật mà.”

    “Trong bao cái nghề sau cô lại làm cái nghề mạt hạng đó?” – Gotsar vẻ nóng nảy.

    “Nghiệp của em là Maril. Làm đĩ thì chỉ là nghề. Nghiệp đã gọi thì em phải bắt buộc đáp ứng, không thì mạng em mất. Em chẳng có lối thoát nào khác, ngoài việc phải bán đi phẩm hạnh.” – Họa Mi đáp vẻ buồn bã. – “Em phải sống bằng mọi giá, vì em tin rằng sẽ có lối thoát để mình đi tới một cuộc sống hạnh phúc như mong ước sau này. Một lúc nào đó em sẽ giải thích cho chàng được thấu rõ tâm tư. Giờ chàng hãy ngủ đi, em phải trở lại với những người kia.”

    ~~~~~~

    ‘Năm MCMII (1902) lịch Nostal, tháng bảy ngày mười sáu đã xảy ra sự kiện Bảy Bự ở kinh thành Tarbas. Một Maril có bí danh là Bảy Bự (Big Sev) được phái đi ám sát triết gia Orkemtov, nhưng sau đó lại bị mua chuộc, để trở về tiến hành vụ ám sát hụt vua Orovan III của Tarbas. Vua Orovan giận dữ, sai quân lấy đầu giám quan Neudeck, ra chiếu chỉ lệnh cho cấm quân lùng và diệt Maril trên khắp vương quốc.

    Tàn quân Maril phải đi lẩn trốn, một số chạy trốn sang các vương quốc khác. Vua Orovan lo sợ các Maril đào tẩu sẽ đầu quân cho các vua láng giềng, nên năm MCMIV (1904) ngài bí mật ra chiếu triệu gọi tàn quân Maril và tái lập Maril. Nhưng không phải toàn bộ tàn quân Maril trở về, chỉ có những kẻ còn lòng trung thành tôn thờ. Những kẻ bất mãn thù nghịch đã sớm đem bí mật của Maril dâng tặng cho các vua khác, chẳng lâu sau thì những vị vua đã có một đội quân do thám của riêng mình. Có kẻ Maril còn vùi mình dưới bùn, chẳng tuân lệnh ai mà tự lập nghiệp riêng, kết bang lập hội ám sát mướn, làm thủ lĩnh của thế giới ngầm.

    Quân Maril tái lập bị cấm đặt chân vào kinh thành, vì lệnh lùng diệt Maril vẫn còn được duy trì. Nhưng nếu có lệnh ám sát một cá nhân nào ở kinh thành, Maril vẫn phải thực hiện cho bằng được.

    Orovan cho rằng sắc lệnh của ngài là lợi cả đôi đường. Maril là đệ nhất hành thích quân, nếu cấm quân trị được Maril thì cũng chặn được hết thảy thích khách của kẻ thù. Còn cấm quân là lực lượng phòng vệ thiện chiến nhất, nếu Maril vượt qua được bức tường cấm quân thì chẳng khó mà thâm nhập được vào lòng quân địch.

    -Heh’ran ký trình-’

    ~~~~~~

    Trời vừa sớm tinh mơ thì Gotsar đã thức giấc theo thói quen. Buổi sáng mùa Đông lạnh lẽo và âm u dễ khiến con người ta nhụt chí, chẳng muốn chui ra khỏi chăn ấm. Cậu nằm lì trên giường chẳng phải vì lười biếng hay quên mất nề nếp, mà là nghĩ ngợi. Đêm qua cậu cứ trằn trọc mãi, bởi đầu óc cứ bận bịu với nỗi tò mò và suy nghĩ về lời nói của Monet. Giờ đã là ngày mới mà cậu vẫn không thôi nghĩ ngợi.

    Rồi Gotsar quyết định rời khỏi giường và ra sảnh chính, tin rằng bản thân sẽ khám phá ra điều gì đó ở nơi này trong khi các Maril còn đang say ngủ. Rồi cậu ngạc nhiên khi thấy ở sảnh chính Monet đã ngồi đó, nơi chiếc bàn bên cạnh khung cửa sổ gương sáng nhợt nhạt, nhâm nhi một cốc trà nóng bốc hơi nghi ngút, nhìn xa xăm đâu đó ở bên ngoài với vẻ thanh thản.

    “Chàng đã dậy!” – Monet chào rạng rỡ.

    “Cô dậy sớm thật.” – Gotsar đến ngồi đối diện với cô ả.

    “Chàng dùng một cốc trà nhé?”

    “Không, cám ơn.”

    “Tại sao chứ?” – Monet đứng bật dậy và tiến tới chỗ siêu nước. – “Coi như là làm ơn cho em đi. Nhâm nhi trà nóng một mình trong khung cảnh âm u thế này thì thật buồn chán.”

    Gotsar đưa tay nhận lấy cốc trà từ tay Monet, – “Cám ơn.” – rồi đưa lên miệng uống ngay, thế là vội nhổ ra lại vì nóng.

    Monet che miệng cười khúc khích. – “Chàng chưa bao giờ uống trà, đúng không?”

    Gotsar gọi trà là thứ đồ uống dành cho kẻ ẻo lả, nếu phải so sánh nó với bia. Thế là cậu nhún vai, mặt nhăn nhó. – “Chỉ có cô ở đây thôi sao? Những người khác đâu?”

    “Họ đã lên đường từ rất sớm.”

    “Họ đi đâu?”

    “Thực hiện chiến dịch mới.”

    “Cô không đi với họ sao?”

    “Em sẽ đi chứ! Có điều là không đi với họ, mà là với chàng.”

    “Với tôi? Tôi sẽ phải đi đâu đây?”

    “Phương Bắc. Chàng sẽ đi với em. Sẽ có một chiến dịch ở đó, nơi em thực hiện nhiệm vụ, còn chàng thì được thử thách.” – Monet nâng tách trà lên miệng. – “Ngoài trời lạnh lắm. Cốc trà nóng sẽ giúp ích cho chàng. Chúng ta sẽ đi ngay sau khi xong bữa sáng.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    Gotsar và Monet, hai người bọn họ tiến lên phương Bắc, chính xác địa danh nào thì Monet không nói rõ, chỉ biết hành trình kéo dài sáu ngày và sẽ có người đợi đón nơi cuối con đường. Họ cưỡi chung trên một con ngựa. Trước đó thì họ có hai con, nhưng Monet đã đổi cả hai để lấy một con ngựa chịu lạnh và ít tiền lộ phí.

    Ngày hôm đó trời lặng gió, nhưng vẫn đủ lạnh tê tái. Thế giới xung quanh chỉ một sắc cảnh ảm đạm điêu tàn. Cây cối trụi lá khẳng khiu, động vật vùi mình dưới hang hốc, và con người thì cũng khép chặt cửa nẻo với thế giới bên ngoài. Khung cảnh bấy giờ chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến con người cảm thấy chán chường, muốn co rúm lại mà thôi.

    Ngày đầu tiên của hành trình của họ kết thúc tại một căn chòi (cabin) vô chủ, xập xệ cũ nát, đơn độc giữa nơi đồng không mông quạnh. Cái chòi có lẽ từng thuộc về một nông dân nào đó, chủ nhân của vùng đất này, nhưng rồi người đó đã đầu hàng mảnh đất sỏi đá mà bỏ đi. Gotsor đi nhặt cành khô, gom bùi nhùi và thắp lên một đốm lửa. Monet đi lấy một tảng thịt bò giấu dưới yên ngựa, cắt thành nhiều lát thịt mỏng, rồi xuyên thịt lên nướng cùng với những lát bánh mì khô.

    Thế giới bấy giờ chỉ một màu đen tối, cả ánh sao trên trời cũng bị bức tường mây mùa Đông che lấp. Mặc cho gió lạnh gào rít ngoài kia, trong căn chòi nhỏ xập xệ là bầu không khí ấm cúng yên bình, có ánh lửa vàng ấm áp và tiếng nổ tí tách của củi, có hai con người đang ngồi tựa vào nhau để san sẻ hơi ấm và nỗi lòng.

    “Em cần hơi ấm của chàng.” – Monet ngồi gọn trong lòng Gotsar. – “Chàng có thể ôm em, nhưng đừng vì thế mà lạm dụng em.”

    “Nghe thật kỳ lạ đối với một kĩ nữ như cô.” – Gotsar vẻ nghi ngờ.

    “Vì em chẳng muốn bị sờ soạng lúc này.” – Monet giọng thều thào mệt mỏi. – “Nếu có muốn thì cũng chẳng được vì em rất mệt. Muốn em bất chấp cái mệt mỏi để hầu hạ chàng thì chàng phải trả rất nhiều tiền đấy.”

    “Bao nhiêu là đủ?”

    “Tiền vàng. Chàng có chứ?”

    “Tôi đào đâu ra tiền vàng? Nếu tôi cứ bất chấp làm liều thì đã sao?”

    Monet cảm nhận được con cu đang cương cứng của Gotsar đang cọ vào mông mình. Không chỉ vừa mới đây thôi, mà là cả ngày trời, khi cả hai còn đang trên lưng ngựa, khi đó ả ngồi đằng trước Gotsar. – “Thì em sẽ giết chàng, không phải lúc này thì cũng một lúc nào đó.”

    “Cô nghĩ mình đủ sức hạ được tôi sao?”

    “Chàng hay gã nào cũng vậy cả thôi. Em chẳng cần phải mạnh hơn, sức con gái liễu yếu đào tơ nào có thể thắng kẻ lưng dài vai rộng. Nếu muốn được sức vóc mạnh hơn đàn ông thì người con gái phải hi sinh thân hình gợi cảm. Với em thì em chỉ cần nhắm trúng điểm yếu của đàn ông mà thôi.”

    “Điểm yếu nào?”

    “Điểm yếu của đàn ông nằm ở dưới háng đấy thôi. Là hai quả trứng bé tí. Em chỉ đợi khi nó bị phơi bày ra. Thường thì em sẽ gợi ý dùng miệng trước để hầu hạ. Còn lắm lúc gặp phải mấy kẻ thô bạo cứ nằng nặc cởi quần em cho bằng được, thì em đành phải đợi cho hắn làm xong, phải giả vờ là mình đang sướng, rồi sau đó khóc lóc năn nỉ xin hắn đừng giết em, để em sống hầu hạ hắn. Thế rồi hắn tha em, em tiếp đó đợi lúc hắn quay lưng kéo quần thì bóp thật chặt lấy! Hắn quỳ xuống ngay thôi.” – Monet giơ nắm đấm lên, siết thật chặc, vẻ mặt bình thản. – “Còn nếu có dao trong tay và có cơ hội ra tay trước, em sẽ nhắm cắt hai động mạch nơi cánh tay và bắp chân, tốt nhất là đâm vào cổ hoặc tim. Dù gã có sức vóc tới mấy thì em cũng chẳng ngại, vóc càng lóc thì động mạch càng lớn, gã càng nhanh mất máu.”

    “Cô đang làm tôi sợ.” – Gotsar vẻ dè chừng. – “Không phải vì cách cô đối phó với kẻ hiếp dâm, mà là cách cô thỏa hiệp bằng thân xác. Cô không hề có một chút tự trọng nào cả.”

    “Chính xác là em không còn phẩm giá của một người phụ nữ. Nhưng em có lòng tự trọng của một kĩ nữ làm cái nghề mua vui. Đã mua vui thì có nghĩa là sẵn lòng làm điều mình không thích chỉ để làm kẻ khác thỏa mãn, chỉ khi đồng tiền có được là xứng đáng. Nếu có kẻ nào nghĩ rằng chiếm đoạt thân xác em là điều dễ dàng, thì em quyết không dung thứ cho kẻ đó. Điều quan trọng nhất là em thỏa hiệp thân xác để giữ lấy mạng, mạng còn thì trả thù lúc nào chẳng được. Không phải để trả thù thì cũng phải vì tương lai phía trước. Sau cơn giông tố thì vẫn luôn có ánh cầu vồng.

    Chắc rằng chàng chưa từng thấy điều này, em sẽ kể cho chàng. Lúc bé em đã từng thấy một đám cướp tấn công làng. Đàn ông bị chúng giết, phụ nữ con gái bị chúng hiếp, rồi còn bị bắt đem đi. Có cô chống cự quyết liệt bị chúng giết, rồi chúng nó lần lượt thay phiên nhau cưỡng hiếp cái xác còn hơi ấm của cô một cách hả hê, vì quả thực là cô rất đẹp. Chết như vậy thì thật chẳng đáng, chàng có thấy vậy không?”

    “Tôi không biết.” – Gotsar đáp vẻ nghĩ ngợi. – “Lúc đó có chuyện gì xảy ra với cô không?”

    “Em bị chúng bắt đem đi. Chúng đem hết con gái trong làng về làm nô tì, phải hầu thân xác. Đứa nào nhỏ tuổi thì đợi nuôi cho lớn rồi hiếp thôi. May sao quân đội đến và giải cứu hết tất cả.”

    “Sau đó thì bằng cách nào mà cô nhập hội Maril?”

    “Em đã nói với chàng rồi, em sẽ chẳng nói đâu.”

    “Nàng quyết tâm sao không nói sao? Tất cả những gì liên quan giữa nàng và Maril?”

    “Điều hai và điều ba trong quy định em đã kể với chàng rồi. Càng kể thì tội em càng nặng.”

    “Tôi không phải là người ngoài!” – Gotsar cau mày.

    “Cũng chưa hẳn là người trong.”

    “Nhưng tôi sẽ. Nếu nàng chịu giúp tôi.”

    “Giúp chàng em được gì?”

    “Tôi không biết. Tôi chẳng có gì lúc này. Nàng muốn tôi làm gì cho nàng đây?”

    “Thôi hãy để em kể, coi như đáp trả hơi ấm của chàng vậy.” – Monet kéo tay Gotsar vòng qua bụng ả. – “Nhưng nói trước với chàng rằng, thiên hạ có câu ‘đừng nghe đĩ kể chuyện’ đấy. Lúc em còn bé thì cha mẹ em đã mất sớm. Em sống với cha nuôi. Sau này mới biết cha nuôi cũng là Maril. Lúc lũ cướp tấn công làng, ông đã chiến đấu dũng cảm, nhưng trong bí mật, theo đúng tôn chỉ của Maril. Ông thà để cướp bắt em mất, còn hơn là để cả làng biết thân phận thật sự của ông. Sau này cũng là ông báo tin dẫn đường cho quân đội tới sào huyệt của lũ cướp.”

    “Ông ấy có phải là Đại Gia?”

    “Sao chàng biết?” – Monet nhướng mày, vẻ ấn tượng.

    “Chỉ là đoán mò thôi. Hãy kể tiếp đi.”

    “Lúc em lên mười, em chính thức được đào tạo trở thành Maril. Năm mười tám, em trở thành phụ nữ.”

    “Phụ nữ?” – Gotsar nhăn mặt vẻ khó hiểu. – “Cô lúc nào chẳng là phụ nữ?”

    Monet bật cười. – “Phụ nữ ai cũng có thời là con gái. Từ con gái trở thành phụ nữ thì phải mất trinh tiết, là phải làm tình với đàn ông. Tiếc thay là em bị hiếp, cũng bởi một Maril, đổi lấy mười đồng vàng. Em rất giận cha nuôi, vì mọi thứ là do ông sắp xếp. Tuy nhiên sau này em biết hai sự thật. Một là cũng có nhiều nữ Maril như em. Việc bị hãm hiếp là để nữ Maril dần quen với sự thật rằng, thân xác cũng là một công cụ để phục vụ nhiệm vụ. Không dâng hiến cho nhiệm vụ thì phải chết. Hai là giữa cha nuôi với em chẳng có tình cảm cha con gì, chỉ là ông có nhiệm vụ phải đào tạo em trở thành thế hệ Maril mới.

    Nhiệm vụ nào có tính moi móc thông tin thì rất cần thân xác bọn em. Phải lấy mình ra chiều chuộng, dụ dỗ đối tượng tiết lộ bí mật. Còn phải chiều chuộng thế nào thì tùy tạng đàn ông. Thế là em phải hầu hạ đủ loại đàn ông trên đời để đọc vị được tất thảy. Ngoài ra thì em còn phải học âm luật nữa.”

    “Âm luật là gì?”

    “Là mấy ngón nghề khiến cho đàn ông mê mẩn. Từ đàn, hát, ca múa cho tới giọng nói, cử chỉ.” – Monet đưa tay vuốt cổ Gotsar, miệng thì rên khe khẽ. – “Còn trên giường thì phải tư thế uốn éo, rền rĩ thế nào cho kích thích. Dùng miệng thì phải kiểm soát cơ hàm, không được để răng đụng phải cu. Tóm lại là nhiều lắm. Em biết là chàng cũng đang kích thích lắm nhé.”

    “Tôi đang kiềm chế để lắng nghe hết câu chuyện của cô.”

    “Đàn ông kiềm chế càng tốt thì em càng phục, càng hứng thú.” – Monet cười vẻ nghịch ngợm, hư hỏng. – “Đám đàn ông cảnh giác nhất mà em biết lại chính là người của Maril. Đám người này rất khó moi bí mật riêng. Thế là em cũng phải qua đêm với hết thảy đám người Maril, gọi là rèn luyện kĩ năng vậy.”

    “Cô cũng đã ngủ với Đại Gia chứ?”

    “Hiển nhiên thôi. Đó là trước kia, giờ thì lão già rồi. Còn Maril, kẻ nào thổ lộ lòng riêng với em thì y như rằng sớm muộn cũng bị sa bẫy địch. Kẻ nào kín tiếng thì chỉ đáp lại với em bằng tiền vàng. Thôi thì đằng nào cũng được lợi, hoặc là nâng cao kĩ nghệ, hoặc là được tiền vàng. Chàng đừng nghĩ em là con đĩ rẻ rúng, bởi vì em chẳng rẻ chút nào, phải là tiền vàng, bằng không thì em tìm cách giết.”

    “Tôi chẳng thể nào xem thường cô được. Kể cả khi chúng nói ra, làm sao cô biết lời nào là thật, lời nào là dối trá?”

    “Đó là một tuyệt kĩ trong âm luật. Ngoài ra thì còn phải kể đến khả năng thiên bẩm của phụ nữ, có thể gọi là trực giác cũng được. Chàng chẳng thể hiểu nổi đâu.” – Monet đáp, giọng thều thào mệt mỏi.

    Gotsar chợt đưa tay lên trán Monet. – “Cô không có sốt. Cô bị đau ở đâu sao?”

    “Chàng đừng lo, em sẽ ổn thôi. Mấy ngày nữa là em sẽ lại khỏe thôi.”

    “Cô mệt mỏi một cách bất thường. Cô chắc chắn là mình không bị gì chứ? Không thể bỗng dưng ngày hôm qua còn khỏe mà hôm nay lại mệt mỏi với đau bụng được.”

    “Sao chàng biết em đau bụng?”

    “Trực giác của đàn ông, cô chẳng thể hiểu nổi đâu.”

    Monet cười tủm tỉm. – “Là em sắp tới kì kinh nguyệt.”

    “Kinh nguyệt?” – Gotsar nhăn mặt. – “Là cái gì?”

    Monet chợt bật cười. – “Cái này thì để lúc khác em chỉ cho chàng. Chàng chỉ cần biết là nó hết sức bình thường với phụ nữ. Tầm một tháng thì nó đến thăm một lần, kéo theo mệt mỏi đau nhức. Mấy ngày sau thì nó bỏ đi và chúng em lại khỏe. Có lần, em đang mệt như thế này thì lại phải hầu hạ liên tục mười người. Lúc đó thì chỉ muốn chết mà thôi. Mà mới hôm qua thôi em đã phải ghé thăm năm người.”

    “Năm? Chẳng lẽ là bọn họ?”

    “Ừ, là bọn họ.”

    “Tại sao chứ? Nàng cần tiền?”

    “Chẳng phải.” – Monet đáp vẻ buồn bã. – “Vì em làm sai trái, giết người mà để lại dấu vết, làm cho nhiệm vụ hỏng bét. Lí ra em phải bị xử phạt, có thể phải bị xử tử. Em buộc phải ghé qua năm người bọn họ, kể cả hai lão già Đại Gia với Đại Phu, để cho họ thấy em còn giá trị về thân xác mà tha cho. Mụ Góa Phụ sẽ chẳng nói được gì đâu.”

    “Thật quá đáng! Góa Phụ? Có phải là người phụ nữ ẵm con nhỏ chăng?”

    “Ừ, là mụ ta.”

    “Tại sao mụ lại đem trẻ con tới nơi chém giết cơ chứ?” – Gotsar vẻ phẫn nộ.

    “Vì hai nhẽ. Một là giúp đóng vai thường dân cho thuyết phục. Hai là mụ chẳng thể rời xa con mụ được. Chồng mụ cũng là Maril, bị bại lộ danh tính, rồi bị quân địch phục kích giết chết.”

    Gotsar tặc lưỡi. – “Làm Maril khổ sở vậy sao cô với mụ không nghỉ đi?”

    “Điều sáu, chỉ có cái chết hoặc tuổi tác mới có thể chia cắt số phận của em với Maril.” – Monet đáp giọng sầu thảm.

    “Phải có cách khác chứ?”

    “Thì có, nhưng là khó lắm. Đã có người từng thử, nhưng chẳng khó thoát số phận bị truy cùng đuổi tận.”

    “Đã có chuyện gì xảy ra với họ?” – Gotsar tò mò.

    “Đã có nhiều câu chuyện, nhưng đây là câu chuyện éo le nhất mà em biết. Một nam Maril nhận lệnh đi giết cả nhà một viên quan địa phương. Viên quan nọ biết mình khó thoát cái chết, nên đã cầu xin vị Maril kia, rằng ông và vợ sẽ uống thuốc độc để tự kết liễu, chỉ xin vị Maril tha cho đứa con gái duy nhất của ông. Tiểu thư kia có nhan sắc hoa ghen liễu hờn, người Maril thế là đem lòng yêu, rồi liều quyết dắt nàng ta đưa nhau đi trốn, tìm chốn bình yên cho riêng mình.

    Quân Maril biết chuyện liền truy lùng hai người bọn họ. Vị Maril đào tẩu kia vì biết mánh khóe Maril, lại giỏi võ nghệ, nên đã giết chết rất nhiều Maril khác để bảo vệ mình. Tuy nhiên bi kịch nghiệt ngã vẫn đuổi tóm được họ. Cả hai người bị Maril hành quyết, còn đứa con đầu lòng chưa được một tuổi thì bị Maril đem đi. Quân Maril còn nói với vị Maril đào tẩu kia rằng, đứa bé sẽ phải trả nợ thay cho cha, cả đời phải đem tính mạng ra phụng sự Maril.

    Số phận của em cũng sẽ vậy, nếu em dám chống lại Maril.” – Monet khóc sụt sịt, người run run.

    “Số phận của cô sẽ chẳng như vậy, nếu người đàn ông đó đủ mạnh mẽ để khiến Maril phải run sợ.” – Gotsar giận dữ.

    “Giờ thì chàng còn muốn vào Maril nữa không? Nếu chàng không muốn thì em phải giết chàng ngay thôi.” – Monet đưa tay gạt nước mắt, thôi khóc.

    “Tôi không biết. Tôi cần Maril để trả thù, nhưng tôi không muốn thấy ai đó phải khổ sở vì sự tồn tại của đám người ác nghiệt này!” – Gotsar gằng giọng nghiến răng.

    “Chàng đang giận dữ và có ý định chống lại ý chí của Maril. Đó chính là vấn đề cảm tính. Cứ cho là chàng vượt qua thử thách, rồi được Maril chấp nhận, nhưng nếu sau này chàng rơi vào hoàn cảnh tương tự, động lòng trắc ẩn, nảy sinh tình cảm với mục tiêu cần giết, đó lại là vấn đề cảm tính. Maril không được có cảm tính, chỉ có lý trí là thứ duy nhất được phép, một lý trí duy nhất là sống để phụng sự Maril. Từ đó Maril phát sinh ra việc thử thách cảm tính dành cho các ứng viên mới.

    Tiết lộ cho chàng hay, em cũng là người tham gia thử thách cảm tính của chàng, cũng là từng với biết bao nhiêu người khác trước chàng.”

    Gotsar chẳng biết phải nói gì, chỉ ôm chặt lấy Monet hơn một chút, áp má lên mái tóc ướp mùi thơm ma mị của cô ả, vẻ đồng cảm.

    “Em chẳng muốn sống mãi như vậy. Em cũng chẳng muốn chết. Thật nực cười làm sao, em cố gắng làm ra nhiều tiền vàng để làm gì, khi mà chẳng thể nào tận hưởng một cuộc sống sung túc, an bình.” – Monet gạt tay Gotsar rồi nằm xuống. – “Em chẳng muốn kể nữa, em ngủ đây.”

    Gotsar ngồi đó một chốc, chẳng biết nói gì, chỉ lặng nhìn gương mặt xinh đẹp đang nhắm mắt của Monet mà nghĩ ngợi, trong lòng suy nghĩ lẫn cảm xúc bị xáo trộn hỗn loạn. Theo Maril thì còn thấy Monet khổ, chống Maril thì không trả thù được cho chiến hữu.

    Monet chợt nhổm dậy, kéo tay Gotsar nằm xuống cạnh bên. – “Em lạnh lắm! Ôm em đi. Nhưng chỉ được ôm thôi nhé. Không được làm gì khác. Không được động lòng với em. Em cảnh báo là em đang thử thách cảm xúc của chàng đấy nhé!”

    “Có điều này tôi vẫn không hiểu.” – Gotsar nằm xuống sau lưng Monet. – “Tại sao lại phải giết đám du côn nọ, ở giếng nước ấy? Mọi người chỉ việc tung hỏa mù rồi bỏ chạy, không phải tôn chỉ của Maril là hạn chế động thủ sao?”

    “Đại Gia có kể em biết, đó là vì lão dự định giết xong đám đó thì sẽ xông vào bắt ngay tay thư ký. Thế mà lại rủi thay có đám lính tuần tra đi ngang qua phá đám. Thế là đành phải rút quân chứ sao.”

    “Maril ngại quân lính sao?”

    “Ngại chứ! Chúng có áo giáp che chắn chỗ hiểm. Lại có khiên nữa, vả lại được rèn luyện chiến đấu bài bản. Đối phó với chúng chẳng dễ chút nào. Chưa kể chúng có tù và, hú lên là có tiếp viện lao đến ngay. Đối phó đám du côn kia dễ hơn nhiều, chỉ có vải bọc da.”

    “Chúng ta cũng vậy.” – Gotsar ôm tay qua eo Monet. Những ngón tay lạnh cóng của cậu cảm nhận được thứ hơi ấm mê hoặc tỏa ra từ lớp vải áo mỏng manh kia, khuấy động trong cậu một thứ cảm xúc rạo rực, một nỗi tò mò muốn biết được dưới lớp áo vải kia sẽ còn ấm áp đến nhường nào. Những ngón tay bỗng chợt liều lĩnh luồn xuống dưới mép áo của Monet, rồi chạm phải làn da ấm áp mịn màng nơi eo bụng.

    “Chàng đang liều mạng mình đấy!” – Monet đanh giọng cảnh báo.

    Gotsar phớt lờ, lòng cảm thấy hồi hộp, thở mạnh một cách bấn loạn. Từng làn hơi ấm thở ra đáp lên bờ vai trắng nõn của Monet, và từng làn hơi hít vào là hương thơm ma mị trên tóc ả. Bất chấp lời cảnh báo, Gotsar hôn đắm đuối lên bờ vải ả, tay luồn lên trên, rúc những ngón tay khám phá xuống dưới lớp áo ngực, tóm gọn trong lòng bàn tay bầu vú săn chắc bên trái, rồi mân mê, nhào bóp một cách điên dại.

    Monet vẫn nằm im không trở mình, tay rút một lưỡi dao và chĩa ra sau qua vai, nhằm thẳng mặt Gotsar, gằng giọng, tỏ vẻ khó chịu. – “Em cảnh báo chàng lần cuối!”

    Gotsar chợt nhướng cổ lùi lại, vẻ dè chừng. Những ngón tay đành rời bỏ niềm khoái lạc mà từ từ rút xuống dưới bụng. Rồi bất chợt, những ngón tay liều lĩnh luồn ngay xuống dưới mép cổ váy, nhanh chóng luồn tiếp xuống dưới lớp khố vải, dừng lại nơi âm đạo. Những ngón tay kéo lên rồi trượt xuống nhẹ nhàng quanh bờ môi nhạy cảm một cách nhịp nhàng, cảm nhận lớp da mỏng trơn tuột trong chốc lát đã tiết dịch ươn ướt, trở nên nhầy nhụa.

    Cũng lúc đó Monet bèn vội khép chặc hai đùi lại, bắt đầu thở nặng nhọc, tay chợt buông dao mà nắm chặt lấy cánh tay Gotsar, cố sức kéo mạnh ra, co rúm rền rĩ. – “Đừng chàng! Đừng!” – Rồi người ả chốc chốc lại co giật run run mỗi khi ngón tay của Gotsar di chuyển lên xuống.

    Thứ dịch trơn ướt nhầy nhụa không ngừng tiết ra, không ngừng kích thích cảm giác nơi đầu ngón, khiến cho những ngón tay chợt trở nên điên cuồng thọc sâu hơn, và ngoáy mạnh bạo. Monet chợt ưỡn cổ ưỡn ngực, quằn quại rên rĩ. Cánh tay mảnh dẻ của cô ả chống cự một cách yếu ớt, chẳng mấy tác dụng, ngược lại còn làm cho Gotsar thấy kích thích hơn, mạnh tay hơn. Ham muốn thì cứ còn đó, nhưng cậu đành phải rút tay ra vì mỏi, trong giây lát ngắm nhìn những ngón tay dính dịch nhờn như ngắm nhìn một điều kì diệu. Rồi cậu chợt nhổm dậy ngắm nhìn Monet. Ả lặng im nằm đó, vẻ mệt lử không còn chút sức lực, cổ ưỡn nhẹ, đôi mắt khép hờ đê mê, vùng eo bụng chốc chốc lại co giật không thể kiểm soát.

    Monet lúc này thật quyến rũ, nàng đẹp như một tiên nữ, mọi thứ vừa diễn ra như một phép màu kì diệu, Gotsar nghĩ thế. Cậu chẳng thể ngăn bản thân hôn hít lên vai ả một cách rồ dại, và đưa tay xoa bóp ngực ả một cách mê mẩn, để rồi lắng nghe ả rên rĩ yếu ớt đầy kích thích. Cậu nhắm nghiền mắt lại, là để loại bỏ bớt một giác quan thừa thải lúc này, dành trọn hết nhận thức cho đôi tai lắng nghe âm thanh yêu đương mùi mẫn, cho cái mũi hít vào thật sâu và thật chậm cái mùi hương quyến rũ của phụ nữ, và cho thân thể đang chìm đắm trong hơi ấm tỏa ra từ làn da mịn màng và mềm mại. Mãi đắm đuối trong cảm xúc thì cậu bỗng giật mình mở choàng mắt, khi cảm thấy bàn tay của Monet đang mò vào trong quần mình, và tóm lấy hai quả trứng gọn trong lòng bàn tay.

    “Không không.” – Gotsar bình tĩnh nói. – “Nàng sẽ không muốn làm vậy.”

    “Tại sao chứ?” – Monet vẫn nằm im nhắm mắt, thở nhẹ nhàng, miệng nhoẻn cười vẻ đắc thắng. – “Chẳng phải em đã cảnh báo chàng rồi hay sao? Chàng có hối hận chăng?”

    “Vì ta sẽ trả nợ nàng.”

    “Chàng nợ em gì? Tiền vàng ư?”

    “Ta nợ nàng ánh cầu vồng.” (I owe you the silver lining)

    Monet chợt mở to mắt, hơi thở trở nên nặng nề. Đồng tử cũng mở to như chính đôi mắt ả, là dấu hiệu rõ ràng của một thứ cảm xúc tích cực ập đến bất ngờ, khiến cho nơi con tim nghi hoặc, ngờ vực trở nên rộn ràng sắc hoa lá, sôi nổi tiếng chim ca. Ả cố gắng sử dụng lý trí để giữ thăng bằng, liệu câu trả lời bất ngờ đó có là dối trá hay là thật. Ả chẳng thể nào đoán ra, dù có dùng cả kinh nghiệm lẫn trực giác. Thế thì ả đành tin, ả tin phần vì động lòng cảm kích trước sự quan tâm ấm áp hiếm hoi tới từ một gã đàn ông xa lạ, phần vì ngọn lửa hy vọng trong ả lại được nhóm lên, hy vọng về một ánh cầu vồng rực rỡ. Mà nếu có dối trá như bao kẻ khác, ả vẫn sử dụng cách cũ để trừng trị, không một lời cảnh báo nào nữa.

    Vậy là ả buông xuôi, những ngón tay nhỏ nhắn mềm mại rời bỏ hai quả trứng sần sùi mà chuyển sang vuốt ve khúc thịt căng cứng. – “Hãy yêu em đi!”

    Nếu có nói là buông xuôi thì cũng không hẳn, là vì cá đã cắn câu.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    12h khuya lên đoạn 2, 18+.
    Mai cố lên đoạn 3 ngắn.
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 17-09-2017 lúc 17:47.

    ---QC---


  10. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    hailam1991,
Trang 8 của 12 Đầu tiênĐầu tiên ... 678910 ... CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status