TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 5 của 5 Đầu tiênĐầu tiên ... 345
Kết quả 21 đến 24 của 24

Chủ đề: Người phụ nữ cuối cùng trên Trái đất

  1. #21
    Ngày tham gia
    Mar 2017
    Bài viết
    26
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 19

    (Phần này là phần hồi tưởng quá khứ, tiếp nối mạch hồi tưởng cũ)

    Vronsky và tôi có mặt trong văn phòng của chỉ huy trưởng, nơi vốn là phòng làm việc của Gorbachev. Chúng tôi vừa bị áp giải bởi hai gã lính mà tôi chưa bao giờ thấy mặt trong hàng ngũ quân đội của chúng tôi, những kẻ mà cứ thúc vào hai bên vai của chúng tôi như thể tù nhân vậy. Lực thúc của bọn chúng rất khỏe, cứ mỗi lần chúng ấn vào vai tôi, dù chỉ là những tác động bình thường, tôi cảm giác cứ như thể bị một quả tạ đè lên buồng phổi vậy. Bởi thế, và cũng bởi vì muốn gặp mặt kẻ mà được mệnh danh là Nikoche, tôi không hề nói một câu gì.

    Alexei Vronsky thì khác. Trên đường đi, hắn ta hót líu lo, nói chuyện tíu tít với mấy tay lính lạ mặt cứ như thể họ là bạn bè lâu năm của anh vậy.

    "Tôi nghe nói Nikoche từng vật nhau với một con bò rừng đực chỉ bằng tay không, và thắng, hả? Thế còn chuyện về việc ông ta ra biến Bắc và bắt sống về một con hải cẩu thì sao? Chuyện ông lấy răng đẩy một chiếc xe tăng nữa? Có thật hay không vậy?"

    Tất nhiên, hai tên đó không hề trả lời. Bọn chúng vẫn giữ một sắc mặt hầm hầm, đôi mắt nhìn thẳng ra phía trước và hai tay khoanh trước ngực.

    "Đấy chỉ là mấy lời đồn thổi trong quân ngũ thôi mà, đừng nóng như vậy. Các anh không trả lời thì thôi"

    Đó là Alexei Vronsky mà tôi biết. Một kẻ suồng sã và luôn muốn làm thân với mọi kẻ khác như vậy đó.

    Khi đó, tôi hỏi anh.

    "Tôi tưởng anh đã được gặp Chuẩn tướng Nikoche rồi?"

    Alexei lắc đầu.

    "Nhận mệnh lệnh ư? Tôi đã nhận rồi. Gặp thì chưa. Cậu thấy đấy, Vysha, tôi nghe lệnh của một người tôi còn chưa biết mặt"

    Tôi khẽ gật đầu. Chỉ một điều đó thôi đã đủ cho tôi biết Nikoche là một kẻ quyền lực như thế nào. Đẩy một con người như Gorbachev xuống gần ngang hàng với thứ dân chỉ trong một nốt nhạc, thậm chí ép kẻ dưới quyền của Gorbachev thẳng tay giết chết hắn ta, hẳn con người này chẳng phải một kẻ tầm thường một chút nào.

    Đó là suy nghĩ trước khi bước vào phòng làm việc của Nikoche. Tôi đã chuẩn bị tinh thần để gặp mặt một người đàn ông đầy khí khái, thần thái xuất sắc, nhưng rốt cuộc điều đó đã không xảy ra. Ông ta nấp mình phía sau một chiếc ghế xoay lớn màu đen ở phía sau bàn làm việc và quay lưng lại với chúng tôi, tuyệt nhiên không để lộ bất cứ phần nào trên cơ thể ngoại trừ đôi giày da màu nâu da bò sáng loáng như vừa được đánh bóng.

    Thế nhưng, không khí u ám mà hắn ta tạo ra, thật không thể lẫn vào đâu được. Nó nặng nề cứ như thể ai đó phun chì lên vậy. Bầu không khí ngộp thở tới mức, chỉ vừa khi mới bước vào căn phòng làm việc của Nikoche, con người mà vốn thường ngày hay nói như Alexei, bỗng chốc im bặt. Vì một lí do nào đó, căn phòng nồng nặc mùi hắc ín, loại mà người ta thường dùng để làm dầu thơm cao cấp trong các nhà tắm hơi.

    Từ phía sau chiếc ghế xoay, giọng nói của Nikoche vang lên.

    "Hai các cậu là Alexei Vronsky và Vasiliy Kovalenko, phải không?"

    Giọng của hắn ta đục ngầu, trầm và ồm ồm cứ như thể một lão già khụm lụm mắc chứng đau họng kinh niên. Bởi vì chúng ồm ồm như vậy, dù hắn ta nói chuyện với âm lượng thông thường, tôi cứ có cảm giác như cả cái căn cứ này có thể nghe thấy giọng ông ta.

    "Phải" Chúng tôi đồng thanh. Nikoche đáp ngay lập tức.

    "Nghe này, Vasiliy. Tôi sẽ kể cho các cậu một câu chuyện"

    "..."

    Tôi và Alexei Vronsky, cả hai chúng tôi đều đứng cùng một nơi, đều nghe ông ta nói chuyện. Thế nhưng, Nikoche chỉ nói chuyện với một mình tôi. Điều đó khiến tôi đủ hiểu rằng, dù quan hệ của bọn họ là như thế nào, Nikoche và Alexei, bọn họ cùng hội, cùng thuyền.

    "Năm năm trước, khi tôi nắm đội không quân đi viện trợ lương thực cho Đại đội 4 ở Dolgopolov, lúc đó đang bị tàn sát bởi Lục quân của tướng Pavlyuchenko. Những chiếc máy bay của chúng tôi lượn qua đó ba, bốn vòng nhưng tuyệt nhiên không hề thấy một gã lính nào đứng trên hào chiến cả. Tôi gọi điện đàm cho chỉ huy Dyatlenko hỏi lí do vì sao lại như vậy, thì hắn đáp rằng "Nếu chúng tôi đưa lính lên trên đó, quân của Pavlyuchenko sẽ bắn chết họ ngay lập tức". Khi đó, tôi nhận ra rằng cùng một gã Dyatlenko đó, hai tuần trước đã gửi điện về trung ương. Nội dung của bức điện nói rằng phòng tuyến của bọn họ gần như không còn khả năng chống cự nữa, và họ đang xin ý kiến của trung ương để được đầu hàng. Đầu hàng, ha! Tôi đáp lại với hắn rằng nếu hắn biết rõ rằng chiến trận đang tới mức tận cùng vô vọng như vậy, hắn cũng phải thừa biết sẽ chẳng có cách nào để máy bay cứu trợ đáp xuống đưa lương thực cho quân đội của hắn cả. Và các anh biết rằng hắn ta đã đáp lại điều gì không?"

    "..."

    ""Anh có thể tưởng tượng được cảnh quân lính đói túng tới mức mà bọn họ nhảy xổ vào xác của một con ngựa chết, đập bể sọ nó ra và bốc não tươi lên ăn sống hay không?" Hắn đã nói vậy đấy. Và khi đó tôi nghĩ rằng: "Gã Dyatlenko này là một thằng hề nhát cáy". Hắn ta không đánh nhau, hắn ta không đưa quân ra để tiếp chiến, rồi hắn ta xin hàng và nói rằng chiến thắng là điều không thể. Và các cậu biết tôi đã làm gì không? Tôi lệnh cho mọi hoạt động cứu trợ ngưng lại hết. Không viện quân, không lương thực, không gì cả. 17000 binh lính của Đại đội 4, tôi để bọn họ chết sạch. Đó là phần thưởng cho một lũ nhát cáy biết không nghe lệnh"

    "..."

    Giọng kể của Nikoche mang một thứ oán khí nặng nề, bám đầy lên cổ họng gã ta cứ như thể mạng nhện. Bên cạnh tôi, Alexei Vronsky nhăn mặt. Tôi nghĩ rằng anh ta có chung một suy nghĩ như tôi. Một quân đoàn bạc nhược và yếu ớt tới độ phải đập não những con ngựa chiến của mình ra chỉ để cứu bản thân khỏi chết đói, nhưng tất cả những điều Nikoche nghĩ đến được chỉ là: bọn chúng là những kẻ hèn nhát. Điều duy nhất tôi có thể nghĩ đến được là rằng đó là những suy nghĩ thật bất nhân làm sao. Điều đó làm tôi cảm thấy thực sự băn khoăn. Tôi chưa hề nghe tới câu chuyện này bao giờ. Dolgopolov cách chúng tôi tới hai nghìn dặm, và chiến trận ở đó chắc chắn chẳng hề liên quan gì tới nơi đây, chưa nói đến việc nó là việc của năm năm về trước. Và nhất là khi, nó là một câu chuyện nào đó, như thế này.

    Thế nhưng, khi hắn ta kết thúc câu chuyện của mình, tôi hiểu ra rằng mình đang phải đối mặt với điều gì.

    "Và khi đó, tôi nhân ra rằng, những tay lính tầm thường là một bọn nhát cáy, các cậu hiểu không? Và tôi đã suy nghĩ, nghĩ rằng: làm thế nào để biến những kẻ nhát cáy kia thành những con người dũng mãnh, những kẻ không biết sợ là gì? Và cuối cùng thì, tôi đã tìm ra câu trả lời thỏa đáng rồi. Câu trả lời là, sức mạnh. Chỉ khi con người ta là kẻ mạnh, con người ta mới thôi không còn sợ hãi nữa. Bởi vì thế, chúng tôi đi khắp đất nước này để tìm kiếm những kẻ có tài. Và ở nơi đây, bọn tôi tìm thấy cậu, Vasiliy"

    "..."

    "Ở đây, chúng tôi không có chỗ cho những kẻ hèn nhát, Vasiliy. Bọn tôi ra lệnh cho Gorbachev điều quân chuẩn bị tham gia chiến trận, nhưng hắn ta từ chối vì lí do "binh lính chưa sẵn sàng". Một lí do thật nhảm lồn. Vì thế tôi đến đây để tận mắt chứng kiến. Tôi thấy hai các cậu đã sẵn sàng rồi, vì thế Gorbachev phải chết. Bởi vậy, hai các cậu nghe đây. Dù cho hai các cậu là những kẻ có tiềm năng, nhưng tôi chỉ đào tạo những kẻ gan dạ, những kẻ biết chiến đấu cho lí tưởng mà thôi. Tôi muốn những kẻ tận hiến, bởi vì khi tận hiến, các cậu sẽ nhận được thành quả xứng đáng. Các cậu thấy rồi đó. Tôi là kẻ tận hiến, và giờ tôi ngồi đây trong khi thi thể của Dyatlenko ngập sâu dưới ba tấc bùn. Nếu như các cậu đống ý, các cậu sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Bằng không thì..."

    "..."

    Bất thình lình, hai gã lính bên cạnh chúng tôi rút phắt những khẩu súng lục của mình ra và chĩa vào đầu chúng tôi. Tôi tự cho mình là một kẻ phản ứng rất nhanh nhạy, tuy nhiên tôi chẳng tài nào bắt kịp nổi phản ứng của bọn họ. Hai người hắn thoăn thoắt như những con báo đốm, cử động còn không bắt nổi bằng mắt thường, có khi chỉ trong hàng chục mi li giây. Khi tôi nhận ra điều gì đang xảy ra, khẩu súng đã nằm bên trán tôi rồi.

    Tôi chột dạ. Bên cạnh tôi, Vronsky khẽ lắc đầu ngón tay trỏ, ra hiệu cho tôi đừng cố gắng làm điều gì. Tôi cũng tự thân biết điều đó. Nhưng viên lính bên cạnh tôi đây, bọn chúng được rèn luyện ở một đẳng cấp cao hơn hẳn chúng tôi.

    "Bằng không thì, cậu sẽ bị bắn chết, ngay tại đây. Và sau đó, tôi sẽ bắn chết luôn cả Alexei"

    Căn phòng như nín thinh sau câu nói sặc mùi hăm dọa của Nikoche. Hai đầu súng dí sát vào thái dương tôi, cọ xát vào đó, nóng đến độ tưởng như đạn sắp bật ra tới nơi.

    Tôi không thể nào nghĩ được điều gì khác ngoài việc hắn ta đang ép buộc tôi phải tham gia điều mà hắn ta đang chuẩn bị. Tôi còn không biết hắn là ai, và hắn sẽ làm gì với chúng tôi.

    "Chúng tôi có quyền được biết điều gì đang xảy ra ở đây" Tôi lên tiếng. Mặc dù sức ép đến từ những gã cận vệ của Nikoche là rất khủng khiếp, tới mức mà trong ổ bụng tôi, dạ dày tôi còn có thể cảm thấy được, tôi không thể rời khỏi đây mà không có một lời giải thích thỏa đáng.

    Nikoche không nổi xung, nhưng hắn cũng không hề giải thích. Vẫn giữ một giọng bình thản tới độ trịch thượng, hắn tiếp lời.

    "Một chàng trai trẻ khó bảo, nhỉ? Điều đó sẽ không giúp cậu thăng tiến trong quân ngũ đâu. Nghe tôi đi. Cậu không cần biết gì cả. Đây là mệnh lệnh. Làm theo mệnh lệnh, và cậu sẽ được tưởng thưởng"

    Tay cận vệ dí sát hơn nữa khẩu súng của hắn vào thái dương tôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục hỏi.

    "Mệnh lệnh từ ai?"

    "Từ tôi. Hãy nhìn những gã cận vệ của tôi. Trên cầu vai của bọn họ thêu quân hàm nhiều hơn ngươi, trên ngực của họ nhiều huy chương hơn ngươi. Ngươi không cần biết gì cả"

    "Làm sao tôi có thể..."

    Bỗng dưng, một tiếng quát lớn vang lên.

    "Im lặng!!"

    Tôi im bặt. Thế nhưng, sự im lặng của tôi không đến từ sự sợ hãi. Chính xác là, nó đến từ sự bất ngờ.

    Kẻ quát vào mặt tôi không phải Nikoche. Đó là Alexei Vronsky.

    Tôi trố mắt quay sang nhìn anh. Alexei Vronsky vẫn không nhìn tôi, đôi mắt găm thẳng về phía trước, nghiêm nghị như một người lính phải làm khi nói chuyện với cấp trên. Điều đó làm tôi bàng hoàng. Alexei chứ không ai khác là người bạn thân của tôi trong quân ngũ. Dù có là giám sát của trại lính, anh với tôi xuồng xã trong giao tiếp ở trong mọi trường hợp. Vì thế, anh ta là kẻ cuối cùng tôi nghĩ đến việc sẽ quát vào mặt tôi.

    "Vasiliy Kovalenko, cậu hỏi đủ rồi!" Alexei nói một cách cứng rắn hơi quá mức cần thiết "Hãy tỏ ra tôn trọng. Cậu không được nói gì nữa, kể từ giây phút này"

    Tôi không nói gì nữa. Tôi nhìn Alexei một cách đầy dụng ý, mong muốn anh giải thích chuyện gì đang xảy ra. Anh thừa hiểu điều đó, nhưng không nói thêm lời nào nữa. Sau đó, Nikoche tiếp tục.

    "Các cậu đã nhìn thấy đủ nhiều rồi. Vì thế, các cậu sẽ lên đường ngay bây giờ"

    Tôi chột dạ. Ngay bây giờ sao? Tôi đủ khôn ngoan để biết rằng đó chẳng phải một điều tốt đẹp gì. Điều đó có nghĩa rằng khả năng cao tất cả những chuyện đã xảy ra sẽ không đến được tai của những con người ngoài kia. Sẽ không ai biết rõ lí do vì sao lại có hai người chết trong phòng làm việc của Gorbachev, và một cái cớ tạm bợ nào đó sẽ được đưa ra để lấp liếm. Tôi chẳng cần phải hỏi để biết tất cả những điều này sẽ trở thành bí mật. Không chỉ vậy, việc chúng tôi rời đi ngay bây giờ có lẽ sẽ không nằm trong ghi chép và báo cáo nào cả, và điều đó chứng tỏ những điều này phải ít nhiều hệ trọng, đủ hệ trọng để những tay lính mọn không có quyền được biết về nó. Và trong quân đội, hệ trọng đồng nghĩa với sự nguy hiểm. Chẳng ai biết bọn họ sẽ đưa tôi đi đâu. Bạn chẳng tin cấp trên được. Bạn chẳng bao giờ tin nổi họ.

    "Zalae, Zultan, đưa hai người họ đi"

    Tôi nhận ra ngay lập tức rằng Zalae và Zultan không phải tên thật. Bọn họ dùng bí danh với nhau. Trước khi tôi kịp suy nghĩ gì thêm, hai kẻ "Zalae" và "Zultan" thúc vào vai chúng tôi và "đẩy" chúng tôi ra ngoài.

    "Đi" Họ ra lệnh. Tôi không cãi lời. Nhưng khi vừa ra đến ngoài, tôi ngay lập tức hỏi vặn bọn họ cùng với Alexei.

    "Alexei. Anh ngửi thấy mùi hắc ín nồng nặc trong căn phòng đó phải không? Đó không phải là thứ mùi gì tầm thường. Đó là mùi mà họ thường sử dụng làm dầu thơm trong các phòng tắm cao cấp. Chính anh chỉ cho tôi điều đó. Nikoche hẳn phải là một quan chức cấp rất cao, hoặc là một kẻ ăn trộm. Tại sao một quan chức cấp cao lại đến nơi hẻo..."

    "Im mồm. Đây không phải chỗ để mày khôn lỏi" Gã sau lưng tôi hằn học "Tao không được xâm hại gì mày ở đây nên mày may mắn đấy"

    Alexei lẳng lặng không đáp. Khuôn mặt anh lạnh tanh, tới mức có chút gì như u sầu. Tôi ít thấy điều đó.

    Họ dẫn tôi đi qua đường phía sau doanh trại, nơi mà có một hàng rào sắt lớn để ngăn nơi này với bên ngoài. Thường chỉ có vài lính canh túc trực ở đây bởi họ sẽ ở phần bên kia tòa nhà, nơi có trường bắn, vườn khoai và mọi thứ đáng để túc trực hơn. Nhưng hôm nay thì kể cả dăm ba người lính đó cũng không thấy tăm hơi đâu. Chắc Nikoche xua họ đi mất rồi, hay là họ đang mải hiếu kì bu quanh xác chết của Gorbachev cũng nên. Dù gì thì, hai chiếc xe bọc thép màu xanh sẫm đặc đã chờ đợi sẵn chúng tôi ở bên kia hàng rào. Ngòi súng của chúng dài, nhẵn và dẹt, và còn được trang bị kèm theo một khẩu súng máy Kord nữa, điều đó đủ để tôi biết đó là chiếc T-14. Mỗi thứ đó là thứ hàng đáng giá vài triệu đô đấy, và chỉ có hơn trăm chiếc được sản xuất thôi, thế nên dù cho tôi có đang dây vào ai đi chăng nữa thì họ cũng chẳng phải dạng vừa đâu.

    Mà bạn biết bạn phải làm gì trong tình huống này rồi chứ? Alexei gọi đó là tuần thủ mệnh lệnh, bằng mọi giá không được bất tuân. Còn tôi cho đó là sự cúi luồn. Tôi không thích điều đó, nhưng tôi nghĩ tôi vẫn thích giữ mạng mình hơn.

    Trước khi chúng tôi phải rời xa nhau, Alexei nói nhỏ với Zultan điều gì đó, và nhận được cái gật đầu của hắn ta. Thế rồi, anh tiến sát lại bên tôi và thì thầm.

    "Đừng lo, Vysha. Tất cả những gì chúng ta phải làm là phục vụ cho chính phủ. Anh sẽ không làm một việc gì vô ích cả đâu"

    "Nghĩa... là sao?"

    Trước khi tôi kịp hỏi gì thêm, Zultan dẫn Alexei đi xa khỏi tôi. Zalae vỗ vào lưng tôi một cái rồi lớn giọng.

    "Mỗi người một chiếc. Thích nhé. Cả đời cái khu này cũng không được cấp nổi một chiếc thiết vận cơ hoành tráng thế này đâu, còn hai người thì được ngồi hẳn vào trong đó"

    "Mỗi người một chiếc?" Tôi giật thót mình. Có vẻ như cũng nghĩ đến điều mà tôi đang nghĩ đến,

    Có khi, đây sẽ là lần cuối chúng tôi nhìn thấy nhau.

    "Yên tâm, hai người không đi đâu xa nhau cả đâu" Zalae nói "Alexei Vronsky có vai vế hơn cậu nghĩ đấy, gã trẻ tuổi xấc xược"

    Tôi không kịp tiếp thu điều mà hắn vừa nói. Ngay sau đó, hai người bọn họ bẻ tay chúng tôi lại và chắp chúng ra đằng sau rồi áp giải tôi vào trong xe tăng. Tôi cố gắng quay lại nhìn Alexei lần nữa, nhưng anh không nhìn lại tôi mà chỉ lẳng lặng để Zultan dắt đi như một con vịt con. Tôi không hiểu những gì đang chạy qua đầu của anh ấy. Anh không cảm thấy bất công sao? Anh không cảm thấy tò mò sao? Anh không cảm thấy bất cứ thứ gì mà tôi đang cảm thấy sao? Hay có lẽ nào, Alexei cũng đã biết được những điều mà tôi không biết? Hẳn là thế rồi. Anh ta biết đến sự tồn tại của Nikoche. Anh ta nói rằng mình có một mệnh lệnh phải hoàn thành, mệnh lệnh phải giết tay sĩ quan Cherobin. Tôi đồ rằng đó là lệnh của Nikoche.

    Vậy chỉ duy nhất tôi là kẻ chẳng biết gì ở đây.

    "Chuyện gì đang xảy ra vậy?"

    Tôi hỏi Zalae, vì hắn ta có vẻ là kẻ hay nói. Nhưng hắn chỉ nhếch mép với tôi. Cái nhếch mép của hắn không giống như thể hiện một thái độ khinh bỉ, mà cứ như muốn nói với tôi rằng "ừ tao hiểu mà, tao cũng trải qua rồi".

    "Mày sẽ biết thôi" Hắn đáp.

    Tôi không hỏi gì nữa. Và như thế, hắn tống khứ tôi vào trong lòng xe tăng.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    ---QC---


  2. #22
    Ngày tham gia
    Mar 2017
    Bài viết
    26
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 20


    .
    ..
    ...

    "Dậy đi"

    Tôi vỗ vào má cô ta, lay mạnh tới mức văng cả máu me trên tay mình ra. Khi thấy cô không tỉnh dậy, tôi quyết định mạnh tay hơn.

    "Dậy ngay, dậy ngay đi! Trời sáng rồi"

    Tôi đã nghĩ đến điều xấu nhất có thể xảy ra. Khuôn mặt cô chưa đến nỗi tím tái, nhưng cũng đã xanh ngắt lại rồi. Cơ thể cô không hề di dịch và phản ứng lại với tác động mạnh mẽ của tôi, đôi mắt nhắm nghiền, đôi môi tím tái. Những vết cước bắt đầu xuất hiện ở dưới cổ cô, cùng với vài vết da khô nứt nẻ. Làn da cô gái vốn rất mịn, vì thế đây chẳng phải điều gì tốt lành cả. Trong khi đó, đôi tay tôi tê buốt đến độ muốn kiểm tra xem cô còn thở không cũng không nổi nữa. Nhưng nếu bộ não của cô ta đã dừng nhận thức, dù tôi có gào to tới cỡ nào mọi thứ cũng là vô ích.

    Tôi nhóm lửa lên ngay khi tuyết rơi thưa đi để làm nhiệt độ xung quanh ấm hơn. Bế cô lên và đặt xuống bên cạnh mồi lửa ở nơi khuất gió, tôi đặt tay lên lồng ngực cô và nhóm lửa lên từ từ. Khi nhiệt độ đã ấm hơn và đôi tay tôi có thể cảm nhận lại được. Khi tôi đưa tai mình lên trước mũi cô và đặt tay lên ngực cô, điều kì diệu xảy ra.

    "Cô ta vẫn thở"

    Tôi lấy tay chà nhẹ lên trán, cổ và ngực cô để giúp cô lấy lại thân nhiệt từ trung tâm cơ thể. Sau đó, tôi rờ tay xuống thân dưới của cô và khẽ banh hai chân tôi ra để chà tay lên háng cô. Đó là cách mà chúng tôi làm để cả cơ thể dần lấy lại nhiệt độ. Tiếp xúc quá nhanh với nhiệt độ cao có thể gây hậu quả nghiêm trọng, vì cơ thể không phải một cục đá vô tri, nó cần thời gian thích ứng.

    Khi chà tay vào háng cô, tôi lại nhớ rằng cô ta giấu một thứ gì đó ở giữa hai háng mình lần trước. Nhưng sau vài giây lăn tăn, tôi bỏ điều đó ra khỏi đầu để quay lại việc sơ cứu.

    Dù vẫn không phản ứng lại với tôi, cơ thể cô đã ấm trở lại. Tôi biết rằng tôi phải nạp năng lượng cho cô ta ngay khi ngũ quan của cô còn hoạt động, bởi vậy tôi lấy con dao rọc của mình ra và vòng ra sau gốc cây, trước khi lê xác một con sói quay trở lại. Cơ thể nó lạnh ngắt, mềm oặt như bún, đôi mắt mở một cách vô tri trong khi máu rỉ ra từ cổ, vẽ thành vệt đỏ tươi tới cháy cả mắt trên nền tuyết, hệt như vệt kẻ đường biên trên sân bóng đá. Tôi nắm lấy mõm nó mà kéo, khiến cho mồm nó mở ra, để lộ hàm răng vàng khè còn giắt lại bựa thịt đen két ở bên mép. Khuôn mặt nó trông vô tri tới thảm thương, tới mức chẳng thể nhận ra con mãnh thú hung tợn vừa cố gắng tớp đứt tay tôi chỉ nửa tiếng trước. Khi lê nó về gần đống lửa, tôi lật nó nằm ngang ra, tóm lấy cẳng sau của nó và rọc thẳng từ đầu móng chân nó lên đến nách. Con dao của tôi nhỏ thế nên tôi mất đôi chút thời gian, nhưng sự thành thạo khiến tôi không tốn chút khó khăn để tìm ra đường chẻ lông của nó - đường nằm cạnh bên bụng và sát thân, nơi mà lông thưa thớt hơn phần còn lại – và rọc một đường ngang qua thân con thú. Da nó bật tung ra như một tấm thảm cũ. Sau đó, tôi rọc sâu vào dưới phần da của con sói, rồi lật nó sang bên còn lại và cắt một đường tương tự. Những vết cắt của tôi không được gọn ghẽ do sự mệt mỏi, nhưng chẳng mấy chốc cả phần thịt bụng trắng ngà xen đỏ hỏn của con thú phơi ra. Tôi chặt đứt dương vật rồi xé toác phần da lưng của nó ra, cắt sâu vào hai bên xương sườn, chọc thẳng vào lồng ngực nó và rút ra vài tảng thịt. Tất cả quá trình chỉ mất dăm ba phút.

    Cắm miếng thịt vào đầu con dao, nướng nó trên ngọn lửa cho tới khi chúng chín rồi băm thành nhiều tảng nhỏ. Sau khi nuốt một miếng thịt vào bụng, tôi nhai miếng thứ hai cho tới khi chúng nhuyễn chẳng khác gì bột, rồi nhè ra lòng bàn tay. Mở miệng cô gái ra, tôi đút nó vào miệng cô. Sau đó, tôi cho cô nhấp một ngụm nước trong túi vải. Tôi lặp đi lặp lại điều đó cho tới khi tôi cho là đủ. Chỉ một khoảng ngắn sau, cơ thể của cô ấm dần lên và dấu hiệu của sự sống bắt đầu trở lại. Những vết tê tái trên cơ thể cô dần bắt màu, đó quả là một điều may mắn. Nếu chúng bị hoại tử, tôi sẽ phải cõng cô ta cả đời. Và quả thực chẳng có một lí do gì cố gắng cứu rỗi một kẻ liệt cả. Họ không sống sót qua nổi mùa đông đâu.

    Vì chiếc áo khoác rộng lùng thùng của cô không bị thấm nước, tôi quấn chặt nó vòng quanh người cô, tạo thành hình thù như một chiếc chăn bông. Tôi chùi tay mình vào áo để vẩy máu sói và nước dãi của nó đi, rồi hơ cho mình một tảng thịt và nhai ngấu nghiến.

    Bỗng dưng, cánh tay trái của tôi nhói một cách tê tái, cứ như thể bị kim chích vào vậy. Ngừng ăn lại, tôi thả xiên thịt của mình rơi bộp xuống tuyết rồi lấy tay phải bám chặt vào bắp tay trái của mình. Áo của tôi đã đứt toạc mất cánh tay bên phải, khiến tay của tôi lộ ra ngoài tuyết từ giữa bắp tay trở xuống. Tôi đã lấy phần vải rách ra và buộc chặt vết thương của mình lại, cố gắng để lờ nó đi, nhưng tôi chẳng thể bỏ được hình ảnh của vết cắt đó khỏi tâm trí mình. Vết thương của tôi vô cùng sâu, mở ra như miệng một con sò, rách một đường dài tới cả phân và sâu hơn một xăng ti mét. Hai vách thịt khẽ xòe ra, đỏ lòm, dù chưa nhìn thấy được xương nhưng chắc chắn đủ sâu để giết chết tôi nếu tôi bị nhiễm trùng. Hằn trên vết thương đó là một vết thương nữa chạy vắt ngang qua nó, tạo nên một hình chữ thập. Vết thương đó không sâu bằng, nhưng da của nó toạc ra, bửa như thể đất ruộng mà con trâu vừa bừa qua. Nó không sâu bằng vết thương nằm dưới nó, cũng chẳng nham nhở bằng, nhưng những mảnh da toạc ra cho thấy tác động của nó đột xuất tới mức nào. Tôi biết rõ điều đó mà vì tôi tự tạo ra nó. Vết thương đó không phải vết căn của con sói, mà là vết chọc của lưỡi lê. Tôi đã tự chọc qua bắp tay mình.

    Gió lạnh thổi không ngừng, hun hút qua vết thịt hở của tôi, làm cho nó đau buốt vô cùng. Tôi phải rên lên "gừ", "gừ", ư ử liên tục, nghiến chặt hai răng lại vào nhau để kìm nén lại vết thương.

    "Mình đã nghĩ gì cơ chứ" Tôi lẩm nhẩm.

    Tôi nhìn xuống phía dưới và máu bắt đầu thấm qua ở bụng của tôi, dù tôi đã phải xé hết cả vải ở hai bên tay để buộc nó lại. Nội tạng của tôi không rơi ra ngoài, nhưng vết cắn của những con quái thú đó là vô cùng hung tợn. Tôi đang ở trong tình trạng không hề tốt chút nào, và tôi biết điều đó.

    Phải, tôi đã làm một điều thật dại dột. Lùa cả một đàn sói về phía của mình trong khi bản thân chỉ còn một khẩu súng, sáu viên đạn và một tấm thân rệu rã. Đó chắc chắn là một điều dại dột.

    Tôi chẳng thể trách ai cả. Đó là một canh bạc của tôi. Và với một sự thần kì, tôi đã chiến thắng canh bạc đó. Tôi đã toàn mạng trở về, và đã kiếm được thức ăn cho cả hai.

    ...
    ..
    .

    "PẰNG!!!"

    Tôi nổ phát súng đầu tiên. Hộp sọ của con sói toác ra làm đôi, thứ não nhớt màu hồng thẫm phun ra khỏi đầu như thể bãi nôn của trẻ em. Những con thú còn lại, kẻ chực lùi, kẻ muốn tiến, lưỡng lự không biết phải làm thế nào. Không còn sự chỉ đạo, là lí do vì sao đàn sói của bọn chúng có gần hai chục con, thế nhưng chưa một con nào dám động nanh của mình lên da thịt của tôi. Chúng cứ cọ bộ vuốt của mình xuống nền tuyết, thế nhưng không một ai làm gì hơn cả.

    Con sói mà tôi vừa bắn vỡ đầu, chính là con đầu đàn của bọn chúng. Hơn nữa, giờ đây, súng của tôi tóe lửa ra khi khai hỏa, mà thú rừng thì chẳng sợ gì hơn là lửa cả.

    "Mình chỉ còn năm viên đạn"

    Đàn sói đang rụt rè. Thế nhưng, tôi không thể nào bỏ chạy ở đây được. Nếu có một điều mà thú hoang làm giỏi nhất, thì đó là đánh hơi nỗi sợ.

    Những tiếng hú dị dạng của tôi đã nhử chúng tới đây. Tôi chẳng biết lí do vì sao tôi làm vậy, và lí do vì sao tiếng kêu của tôi lại có thể vọng khắp qua cả bìa rừng và tới được tai đàn chó, thế nhưng bọn chúng đã bị khiêu khích bởi tiếng kêu đầy đe dọa đó. Chó sói là loài vật rất coi trọng địa bàn của bản thân chúng. Nếu bạn là một con sói cô độc bước vào đất của một đàn chó khác, tốt nhất bạn nên câm mồm lại, cụp đuôi xuống, cúi thật thấp đầu và đi. Một đàn sói khát máu sẽ chẳng tiếc rẻ gì việc xé xác một kẻ cô đơn không có người bảo vệ đâu. Tôi, cũng vậy. Tôi chỉ là một kẻ cô độc. Và trong một giây phút không để lí trí quyết định, tôi đã nhử đàn sói tới đây.

    Vừa lùi lại chầm chậm, tôi vừa chỉ vào mặt từng con một trong bọn chúng một cách thị uy. Điều duy nhất tôi mong mỏi bây giờ là bọn chúng biến hết đi mà thôi, bởi vì tôi chỉ cần thịt của một con sói thôi chứ bụng tôi cũng chẳng chứa nổi cả đàn.

    "LẠI ĐÂY!!! CHÚNG MÀY NGON THÌ LẠI ĐÂY!!!"

    Bọn chúng nhe răng ra dọa nạt.

    "SAO THẾ??? SỢ À??? CHÚNG MÀY LÀ CHÓ SÓI HAY LÀ CHUỘT NHẮT??? NGON THÌ LẠI ĐÂY! LẠI ĐÂY, TAO CHO CHÚNG MÀY MỖI CON MỘT..."

    Thế nhưng, mọi thứ đã phản tác dụng. Không ai nói với ai một lời, cả đàn sói nhất loạt nhảy vồ lấy tôi, từ trước mặt và khắp hai bên mạn sườn.

    PẰNG!!!

    Tôi bắn hạ thêm một con sói nữa, nhưng chúng không hề chịu lùi bước. Cứ như báo đốm bắt linh dương, bọn chúng oằn người ra hết cỡ và bật vào người tôi như lò xo. Khi đó tôi hiểu rằng, tôi cần phải làm gì đó, hoặc chết.

    Tôi lùi lại và bắn một phát súng nữa ngay trước khi con thú đầu tiên kịp vồ vào tôi. Viên đạn đi trúng bụng nó, hất con vật bung cả tứ chi ra rồi bật ngược trở lại, nằm thẳng cẳng dưới mặt đất như một con chó phải bả. Ngay sau đó, tôi gạt báng súng của mình sang bên mạn sườn, thúc thẳng vào yết hầu của một con khác ngay trước khi nó kịp cắm răng mình vào bả vai tôi. Hai con sói vồ được vào chân của tôi. Tôi lắc chân mình ngay ra khỏi ống giày, khiến cho chúng cạp nhầm vào giày và cạp luôn vào mặt nhau. Tôi đạp một con nữa ra khỏi hông bên cạnh của mình, thế nhưng, chúng tiếp tục quay trở lại. Tôi sử dụng phát đạn thứ ba, thứ tư, nhưng xác của những đồng loại của chúng chỉ khiến cho chúng càng sôi máu hơn. Rất nhanh chóng, tôi bị đánh bại bởi số lượng.

    Hai con sói đè lên chân tôi, trong khi một con nữa nhảy lên và vùi cặp răng tanh tưởi sắc nhọn của nó vào bụng trái của tôi. Bọn chúng đẩy tôi xuống mặt đất, và thân thể rã rời của tôi chẳng còn sức đâu mà kháng cự. Những tiếng gầm gừ ru rú của bọn chúng tru lên bên tai, nhưng tôi vẫn cứ tỏ ra đầy mệt mỏi. Máu tanh bắt đầu chảy ra từ ngực tôi, và tôi cố gắng để đẩy con thú ra nhưng nó quá khỏe. Tôi không thể tìm thấy nổi động lực để tiếp tục nữa.

    Đúng lúc đó, một trong số những con sói nhảy đè lên ngực tôi. Khi đó, tôi nhận ra rằng, bằng một cách kì diệu nào đó, tay phải cầm súng của tôi không bị khống chế. Tôi vung tay lên và lấy lưỡi lê chọc thẳng qua người nó. Lực chọc của tôi mạnh đến mức nó xẻ phổi của con thú ra làm đôi, và tôi biết điều đó bởi nó ngẩng mặt lên trời và gào lên những tiếng "khạc", "khạc" như thể thiếu khí. Thế nhưng, nó vẫn kịp ngoạm được vào cẳng tay tôi một cách đầy ngoan cỗ. Không hề do dự, tôi tóm lấy lưỡi lê bằng tay còn lại và đâm thẳng vào mõm đó. Lưỡi dao sắc như kim châm, chọc xuyên qua mỏm con vật làm hai mõm nó dính bẹp vào nhau như một chiếc bánh kẹp, và cùng lúc đó đâm toạc luôn qua bắp tay tôi.

    "AAA!!!" Tôi kêu lên đầy đau đớn, nhưng buộc phải kìm hãm lại điều đó. Tôi vẫn còn sống, đó là điều quan trọng nhất. Khác với tôi, con vật gục xuống ngay lập tức, cơ thể mềm oặt như bún.

    Tôi cầm cổ của con thú vừa chết và quật vào sọ của con đang cố xé bụng tôi ra.

    "Ử!!!!" Nó rú lên một tiếng lớn, nhưng ngay lập tức nằm bất động.

    Vết cắn của nó rất sâu, nhưng máu chưa kịp chảy ra. Nếu tôi chậm chạp thêm một giây nào thôi, ruột già của tôi có thể lòi ra ngoài mất. Tôi bắn toác sọ con đang cắn vào đùi phải của tôi, và rút lưỡi lê ra cắm thẳng vào não con còn lại. Xương vụn trộn lẫn với thịt sống bắn tóe lên đùi tôi và bốc lên một thứ mùi tanh tưởi tới nôn nao, nhưng tôi không có nhiều thời gian. Bỏ lại cây súng, tôi vùng lên ngay lập tức và áp lưng mình phía sau một thân cây lớn ngay gần đó, chuẩn bị cho những con còn lại.

    Máu bên bụng tôi bắt đầu chảy. Tôi biết rõ mà, vết thương này dù là ở bụng mà thôi, nhưng chắc chắn không phải chuyện đùa. Cùng lúc đó, vết thương do lưỡi lê của tôi bắt đầu bung ra như một đóa hoa đỏ ngòm. Một cảnh tượng không hề, không hề dễ chịu một chút nào.

    Tôi vẫn không có thời gian để nghỉ. Bọn chúng vẫn còn gần chục con nữa, đứng cách xa tôi vài mét, oằn người ở tư thế chuẩn bị.

    Tôi vung lưỡi lê của mình ra trước mặt, chỉ vào mặt từng con sói một.

    "Chúng mày biến! CHÚNG MÀY BIẾN HẾT!!! CHÚNG MÀY THẤY ĐỒNG BỌN CỦA MÀY THÀNH RA THẾ NÀO CHƯA??? BIẾN!! BIẾN HẾT!!!!!!!!!"

    "Gừ... Gừ...!!!!"

    "Biến hết. BIẾN HẾT!!! BIẾN HẾT!!!!"

    Tôi tiến lên một bước và dằn mặt một cách đầy hăm dọa. Tiếng hét của tôi cương quyết và rắn rỏi. Đó là thứ giọng mà bạn chỉ có thể tạo lên được khi bạn gằn cho tới đứt cả thanh quản của mình.

    Bọn chúng ngay lập tức lùi lại. Và khi đó, tôi biết rằng, mình đã an toàn.

    "BIẾN!!!"

    Tôi tiến thêm một bước nữa, và những con còn lại trong đàn quay đuôi bỏ chạy. Bọn chúng cụp đuôi lại và chuồn, không thèm nhìn lại lấy một lần.

    Chỉ khi tất cả những con còn sống đã bỏ đi hết, tôi mới mò ra lượm lại khẩu súng của mình, và ngay lập tức quỳ xuống, chống tay xuống đất và thở dốc.

    "Sống rồi. Sống rồi" Tôi nghĩ. Tôi còn không thể thốt ra thành lời nữa. Cổ họng tôi rát bỏng.

    Xác của những con sói túm tụm lại quanh chỗ mà tôi quỳ xuống như một đám lửa trại. Tôi nhận thấy một con vẫn còn thở, và đâm lưỡi lê mình qua yết hầu của nó. Tôi rạch cổ nó ra, khiến cho thanh quản của nó lòi ra như một thanh kẹo cao su bị kéo dài, cắt lấy một miếng thịt vuông cỡ ngón tay cái. Thế rồi, tôi bỏ nó vào mồm và nhai sống. Thịt của chúng dai, hôi và sặc mùi máu, khiến tôi không tài nào mà nhai nổi. Tôi cứ thế mà nuốt thẳng từng miếng một, rồi bóp lấy cổ nó, kéo thanh quản nó ra rồi ngửa cổ lên và vắt máu của chúng lên lưỡi mình. Máu chảy xuống như nước chanh, chảy ra từ hai khóe miệng tôi như một con ma cà rồng, tạm xoa dịu cổ họng khô cháy của tôi. Trông mọi thứ thật tởm lợm, nhưng tôi cần chất đạm để có thể sinh tồn, ngay bây giờ.

    Lấy xác của con thú nhỏ nhất, tôi kéo nó về trước khi kiệt sức hoàn toàn.

    .
    ..
    ...

    Cô gái vẫn chưa tỉnh lại. Cơ thể tôi cũng chưa có dấu hiệu hồi phục. Nếu tôi phải ngồi yên trong cái vựa tuyết này thêm một ngày nữa, có khả năng tôi sẽ bỏ mạng.

    "Phòng thí nghiệm..."

    Cô gái đó có nói đến việc đào thoát ra từ một phòng thí nghiệm, và tôi không tin rằng cô ta nói dối. Trước kia, bộ đội của tướng Schennikov từng đặt một tổ hợp phòng thí nghiệm ở Perm, cách nơi đây vài trăm cây số về phía Nam. Tôi biết đến nơi đó bởi tôi đã từng ở đó. Tôi đã từng tham chiến ở nhiều nơi quanh những thành phố lớn như Kazan và Novrogod, những thành phố cách đây vài trăm dặm về phía Tây Nam nếu như bạn băng qua sông Volga, nhưng không một nơi nào ở đó có những phòng nghiên cứu cả. Nếu tôi không nhầm thì tổ hợp ở Perm là tổ hợp phòng thí nghiệm gần nhất ở đây. Tất nhiên, nếu nó không phải của tướng Schennikov hay của bất cứ ai khác mà thuộc về những phe phiến quân thì chúng tôi sẽ không biết về điều đó. Nhưng việc cô gái đó chạy tới được lô cốt của chúng tôi mà vẫn còn sức để run rẩy thì cô ta không thể đi quá xa được.

    Nước Nga là một cõi rộng lớn, nhưng nếu có mối nguy hiểm nào lớn nhất đang ở quanh đây thì đó chỉ có thể là quân đội của Pavlyuchenko. Độ một chục năm trước thôi, đất nước này vẫn còn nằm trong vòng xâu xé của hàng chục thế lực khác nhau, từa tựa như cuộc giao tranh của các đất nước thuộc Liên bang Xô viết trước kia. Thế nhưng, vì một lí do nào đó, Pavlyuchenko và quân đội của mình đã áp đảo được những thế lực còn lại bằng một sự vượt trội về số lượng quân lính và trang thiết bị tối tân. Tôi không được biết tường tận thứ cải cách khoa học nào đã khiến họ có thể nhân bản được nhiều người tới mức đàn áp được cả những quân đội khác, thế nhưng dù sao thì điều đó cũng đã xảy ra rồi. Các thế lực còn lại bị hắn nuốt trọn như húp lấy một con sò ra khỏi vỏ. Lần gần nhất có kẻ nào thực sự có đủ tầm để đối đầu với Pavlyuchenko thì đó là một lực lượng tự xưng là "Chủng quân Hòa bình". Họ tập trung tiền bạc và nhân lực vào việc tìm ra một giải pháp để chấm dứt tình trạng chiến tranh liên miên, nhưng tất nhiên, Pavlyuchenko không thể để điều đó xảy ra. Hắn ta ra lệnh càn quét, và càn quét, và càn quét cho tới thành viên cuối cùng của Chủng quân, và dù họ có một lực lượng các nhà khoa học rất lớn, đem về cho họ nhiều thứ vũ khí tối tân, nhưng cuối cùng thì chênh lệch về nhân lực đã tạo nên sự khác biệt. Chủng quân dần chìm vào dĩ vãng, và tất cả những gì còn lại chỉ là những nhóm phiến quân nhỏ lẻ, cố gắng chiến đấu cho thứ lí tưởng mà họ đã quên lãng mà thôi.

    Thật trớ trêu làm sao, "Chủng quân Hòa bình". Họ cố gắng đấu tranh để chấm dứt chiến tranh, nhưng cách mà họ đấu tranh là gì? Là chiến đấu. Họ chiến đấu để bảo vệ một thứ gì đó. Và có vẻ như, họ đã thất bại trong cuộc chiến của mình.

    Tất cả những điều còn lại thuộc về họ đều là những bí ẩn, vì Pavlyuchenko không hề công bố những gì mình tìm được cho ai cả. Cô gái này không hề thuộc về chúng tôi, cũng chẳng thuộc về hắn ta, vậy có khi nào cô ta lại là một phần của "Chủng quân Hòa bình" cũng nên.

    Khi mà tôi đang chìm giữa dòng suy nghĩ, bất chợt, một điều không ngờ xảy ra.

    Một khẩu súng lục chĩa thẳng vào sau gáy tôi, áp sát vào đầu của tôi khi tôi vẫn đang ngồi xuống. Một ai đó đã tiến lại gần tôi suốt nãy giờ, nhưng sự suy nhược của tôi đã khiến cho tôi không tài nào có thể phát hiện ra được nguy hiểm nữa.

    Và thế rồi, một giọng nói vang lên.

    "Ngồi im đó. Nếu mày dở trò, thì mày biết là cái mạng của mày sẽ mất ở đây, ngay bây giờ"


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



  3. #23
    Ngày tham gia
    Mar 2017
    Bài viết
    26
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 21


    Gã đàn ông lạ đưa chúng tôi về căn nhà của hắn ta, một căn nhà gỗ cách rừng thông nửa dặm. Nó chỉ đủ rộng cho hai người ở và có thể chứa được bốn người cùng một lúc mà không có cảm giác ngộp thở. Tuy nhiên, trong nhà gần như chẳng có chút nội thất nào trừ một chiếc bàn và hai chiếc ghế cho chúng tôi ngồi, thế nên không gian cũng thoáng đạt hơn nhiều. Tuyết rơi rất đặc và chất thành đống, đó là lí do duy nhất khiến tôi không thể phát hiện nó từ phía xa.
    Chủ nhân của căn nhà này, đồng thời là kẻ mà chĩa súng vào đầu tôi khi nãy, là một gã đàn ông cao, gầy và có phần "dặt dẹo". Lão nói lão 50 tuổi, nhưng trông lão già hơn vậy nhiều. Da lão xanh và nhăn nhúm, hai má hõm lại trông như một con chim gõ kiến. Nhưng giọng nói của lão ta thì vô cùng có sức nặng. Đó có lẽ cũng là lí do mà tôi đầu hàng lão dễ dàng như vậy.
    "Con xin cảm tạ Chúa đã nuôi dưỡng chúng con, ban cho chúng con lương thực hằng ngày. Xin Chúa nhắc nhở chúng con nghĩ tưởng đến những người lương thiện và chia sẻ cơm áo với họ. Xin Chúa ban phước cho lương thực này, dùng nó bồi bổ thân thể chúng con, cho chúng con sống vui để phục vụ Ngài. Chúng con cầu nguyện trong danh Chúa Jesus. Amen"
    Lão chắp tay vào cầu nguyện khi mà tôi đã ngấu nghiến gặm thức ăn của mình. Tôi không hề biết lão là người theo đạo, thế nên tôi đã vô tình xúc phạm tôn giáo của lão ta. Tôi ngừng ăn lại, nhưng chỉ chực chờ lão cầu khấn xong để tôi tiếp tục.
    Đó là một điều tôi không hiểu ở tôn giáo. Họ cầu nguyện trước mọi bữa ăn, mọi buổi sáng khi họ thức giấc, và mọi buổi tối trước khi họ đi ngủ. Nhưng điều đó thật là thừa thãi. Chúa nào mà có từng nấy thời gian nghe lời thỉnh cầu của họ chứ? Nếu tôi là Chúa, tôi chỉ cần bọn họ nói một lần, và một lần thôi là đủ. Tôi không ngu muội tới mức cần nhắc đi nhắc lại vào mặt để tôi hiểu rằng họ yêu tôi.
    Với cả, tôi cũng chưa thấy Chúa yêu lại bọn họ bao giờ. Lần cuối cùng tôi kiểm tra những tập hồ sơ báo tử, một phần tư số liệt sĩ theo đạo Công giáo. Và bạn có biết tỉ lệ người theo đạo Công giáo trong trại của Dzyuba là bao nhiêu không? Một phần tư, thật bất ngờ thay! Nếu Chúa yêu các con chiên của mình tới vậy, sao họ vẫn nằm đấy, nhỉ?
    Thế nhưng, lão không tỏ ra phật lòng, và phủi tay ra hiệu cho chúng tôi tiếp tục bữa tối của mình.
    Ông lão không cần gì khác ở chúng tôi ngoài thịt sói của tôi. Sau khi chúng tôi ăn thịt sói cho bữa tối, lão lôi một bọc trà, có vẻ được cất rất kĩ như của quý và bắt đầu pha chế. Khói nghi ngút bốc lên từ tách trà được rót ra từ ấm, trước khi lão già rót ra hai tách nữa và di một cốc ra trước mặt tôi.
    "Cho anh" Lão nói với thứ giọng trầm và đặc khàn, chất giọng của một người Nga khi hắn vừa nuốt than vào cổ. Hắn quay sang cô gái và di cốc còn lại cho cô.
    "Và cho anh"
    Tôi gật đầu với lão. Lão nói tiếp.
    "Cậu tên gì?"
    "Alexei"
    "Còn bạn của cậu?"
    "... Semyon" Tôi chọn bừa cái tên đầu tiên tôi nghĩ ra.
    "Hai người thân nhau không? Chắc hẳn là phải thân nhau rồi, mới cùng nhau bỏ chạy như vậy. Anh đã ở lại bảo vệ cậu ta khỏi chết rét, tôi có thể thấy điều đó"
    Vết thương của tôi đều được lão băng bó và xử lí, và cô gái được đun nước ấm để hồi sức lại. Lão chăm sóc chúng tôi tận tình, bởi vậy cả hai chúng tôi đều hồi sức nhanh. Tôi biết lão nhận thấy sự khác biệt của cô, sự khác biệt so với tất cả những gã đàn ông mà lão từng gặp trong đời. Thế nhưng khác với tôi, lão chẳng đối xử với cô ta như nhìn thấy một con thú lạ.
    Bỏ qua mọi thứ lễ nghi, tôi cầm nó lên bằng tay phải, gật đầu một cái và húp một ngụm như nuốt luôn cả tách trà, trước khi cô gái kịp nhấp môi ngụm đầu tiên. Cô lấy hai tay đặt quanh tách trà cứ như thể ôm lấy nó, trông khép nép tới khôi hài.
    "Semyon. Anh có ổn không?" Lão gọi cô. Tất nhiên, bởi đó không phải tên của cô, cô không phản ứng.
    "..."
    "Semyon?"
    "Này. Lão gọi cậu đấy" Tôi vỗ vào vai cô. Cô giật mình thon thót.
    "Anh có vẻ là người ít nói, nhỉ?" Nhìn cô, ông mềm giọng. Cô gật đầu, không đáp.
    "Cô... cậu ấy lạnh và mệt. Tôi sẽ là cái mồm của cả hai chúng tôi" Tôi trả lời.
    Lão mỉm cười với tôi. Khi lão cười, hai gò má lão cứ hóp lại, trơ xương ra trông vô cùng khắc khổ.
    "Hãy để cậu ấy nói đi. Cậu ấy trông như cậu ấy muốn nói gì đó"
    Tôi quay sang lườm cô. Cô lắc đầu.
    "Không. Cháu ổn"
    Ông già lùi lại nửa bước sau khi nghe thấy giọng nói thanh mảnh của cô. Sắc mặt ông thay đổi, hiện lên một thoáng bất ngờ, nhưng cuối cùng cũng trấn tĩnh lại được. Ông rót đầy li trà của cô lần nữa.
    "Uống đi cho lại sức. Cổ họng là phần thiết yếu. Nếu viêm họng, cậu sẽ chết vì không thể ăn. Hơn nữa, cậu không thể kêu cứu được nếu như giọng cậu yếu thế này đâu"
    "Xin lỗi vì đã dọa mấy người ban nãy. Tôi chỉ muốn biết chắc chắn là hai người không phải là những kẻ săn đầu người mà thôi. Hóa ra là người hành hương"
    "Người hành hương" có lẽ là từ mà ông lão ám chỉ những kẻ đào ngũ hay người đang chạy trốn. Số lượng những người như vậy không nhiều, bởi vì có quá ít tài nguyên ngoài kia để bạn kiếm được. Không thức ăn và không nước uống. Tất nhiên, không phải không có những người như vậy. Tôi từng đọc được từ một văn kiện, nói về gia đình nhà Lykov, li khai ra khỏi xã hội và sống ẩn dật giữa những lùm cây Siberia suốt 70 năm trời, và họ chẳng gặp phải vấn đề gì lớn cả. Khi được hỏi rằng điều gì đáng sợ nhất ở trong rừng sâu, người nhà Lykov đã trả lời rằng: "sự cô đơn".
    Tuy nhiên, bạn cần phải thực sự có hiểu biết về những nơi mình đi qua để có thể tồn tại được ở những nơi như vậy, hoặc bạn sẽ như tôi, lao đầu vào đàn sói để tìm đường sống.
    "Hơi tối, nhưng chịu đi. Tôi không thắp lửa khi đêm về, bởi khói thu hút các loài cầm thú" Lão nói.
    "Còn người thì sao? Có người ở quanh đây không?"
    "Thi thoảng. Nhưng, như tôi đã nói, lửa thu hút các loài cầm thú. Tôi không muốn người lảng vảng quanh đây"
    "Vì sao ông lại xây nhà ở đây vậy? Tôi không có ý gì đâu, nhưng mà không phải ngày nào cũng có người tự nhiên xây một ngôi nhà ở giữa nơi biển tuyết đói rét đâu"
    "Ý cậu nói tôi là một kẻ đào ngũ?"
    "Tôi không nói vậy"
    Lão già đôi lòng bàn tay mình ra, lòng bàn tay có nhiều vết chai ở phần ngay dưới ngón tay.
    "Cậu đoán tôi từng là lính tráng hay công nhân?"
    "Không phải cả hai. Ông có vẻ cày bừa nhiều. Phải chăng từng làm nghề nông?"
    "Cậu tinh ý đấy. Trước khi họ đến làng tôi, giết hết người già và bắt thanh niên lại. Họ nói rằng không phải cày cuốc gì nữa, làm gì còn tiền tuyến cho các người hỗ trợ đâu, rằng hãy lên xe và về với Pavlyuchenko. Họ sẽ cho chúng tôi sự ấm no"
    "Nhưng ông lại ở đây"
    "Tôi không muốn đi lính. Tôi chỉ là một người nông dân mà thôi, tôi có biết đánh nhau là gì đâu"
    "Vì sao ông lại nghĩ vậy? Họ không nói gì về việc đi lính cả"
    "Tôi biết chứ. Ở nơi này, ngoài đi lính ra thì chỉ có làm nông mà thôi"
    "Được rồi. Còn tôi đến từ một doanh trại cách đây một trăm dặm. Mỗi khi có ai dám đào tẩu, họ chỉ cần bước chân ra ngoài thôi và lính bắn tỉa sẽ bắn hạ họ ngay. Ngoài chúng tôi ra, chưa có ai sống sót cả. Làm sao ông thoát được?"
    "Tôi đợi buổi đêm, lách ra ngoài qua cửa sau phòng vệ sinh và chạy mất"
    "... Chỉ vậy thôi sao?"
    "Chỉ vậy thôi"
    "Thật là một câu chuyện đáng tin"
    Lão cười phá lên.
    "Ai rảnh mà đi đuổi theo một lão bần nông chứ"
    "Ông không giống một gã bần nông đâu, tin tôi đi. Ông thực sự đã làm tôi tưởng như tôi gặp nguy hiểm đấy"
    "Cậu làm tôi sợ thì đúng hơn. Kể từ khi đến đây, tôi chưa bao giờ săn được một con sói nào cả. Nhưng tôi đã nhìn thấy một đống thú chết chất thành đống trước khi tìm thấy cậu. Tôi đã chất chúng vào hầm ướp lạnh rồi, chúng ta sẽ không lo chết đói. Nếu cậu không bị thương nặng, tôi đã không dám tiếp cận cậu rồi" Ông tỏ ra thực sự ngưỡng mộ chiến tích của tôi "Nhưng các cậu chạy trốn một mình như vậy, hẳn phải có lí do gì đó. Vì sao các cậu lại chạy trốn vậy?"
    Thay vì trả lời rành mạch, tôi vòng vo và mơ hồ.
    "Chúng tôi thua trận, nên chạy trốn. Họ không đuổi theo tôi đâu. Nếu họ đuổi theo, giờ này họ đã đang phải gõ cửa nhà ông rồi"
    "Chính xác các cậu từ đâu tới vậy? Trông hai cậu không giống người phương Tây"
    "Tôi tới từ Perm, trung Siberia. Bên bờ sông Volga. Lớn lên ở đó"
    "À! Cá taimen!!! Quê hương của cá taimen đây mà! Hẳn cậu đã phải được nếm thử vài ba con. Trước đây làng tôi cũng có một cậu từ trên thung lũng xuống. Cậu ta hay kể chuyện bắt cá tầm phào lắm. Chỉ có quân đội mới được thả lưới thôi, thế nên là bắt bằng tay hoặc bằng cần câu hết. Họ khôn lắm. Cá to thì 30 – 40 kí, kẻ không có nghề bắt bằng cần câu sao nổi. Thế nên chỉ có quân đội là được cá to thôi. Cậu ta bắt được một con cá 40 kí một lần trong đời, và khoe khoang về nó suốt bốn chục năm cuộc đời. Mà cũng phải. Là tôi, tôi cũng khoe"
    Sau đó, lão tiếp tục nói về những chuyện xưa cũ trong ngôi làng của mình, với một giọng chân thật hơn, có vẻ như đọng chút hoài niệm. Tôi lắng nghe câu chuyện của lão bằng một tai, gật đầu làm vẻ chăm chú. Lão toát lên khí cách của một người hào sảng và thích giao du, không giống như vẻ bề ngoài của mình.
    Lão kể rằng mình sinh ra trong một phòng thí nghiệm ở Samara và lớn lên ở bên ngôi làng gần đó. Lão dành gần như nguyên cả cuộc đời mình làm nghề nông, và thuộc từng tấc đất, từng hạt bụi ở trong đó. Cuộc đời qua lời kể của lão hết sức bình dị, chỉ trừ cho việc chạy trốn ra nơi hoang vu hẻo lánh này. Sau khi cuộc nói chuyện kết thúc thì trời đã tối hẳn rồi. Vì lão không nhóm lửa, nên chẳng ai nhìn thấy gì nữa cả.
    "Cảm ơn ông vì đã chữa trị cho bọn tôi. Tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều. Không phiền ông nữa, có lẽ chúng tôi có thể lên đường được rồi"
    Ngay lập tức, lão nán chúng tôi ở lại.
    "Các cậu định đi đâu bây giờ chứ? Trời đã rất tối, và vết thương của cậu mới ngừng chảy máu. Cậu chưa đủ khỏe đâu. Làm ơn hãy nán lại ít nhất một hôm"
    Trước khi tôi kịp nói điều gì, cô gái nắm lấy cánh tay phải của tôi, phần vẫn còn lành lặn.
    "Bác ấy nói phải đấy, Alexei. Em cũng mệt lắm rồi, em không thể đi tiếp được bây giờ đâu"
    "Hãy nghe lời Semyon đi, chàng trai. Cậu thật hấp tấp. Không việc gì phải vội vàng cả. Lão phàm phu này đã ung dung ở đời bao lâu nay, chưa bao giờ phải vội cả. Ở lại nói chuyện với tôi. Lâu lắm rồi tôi không có ai nói chuyện cùng"
    "... Thôi được rồi"
    Lão cười khoan khoái lắm.
    "Hai các cậu có thể ngủ ở bên giường bên kia. Tôi vẫn còn một miếng giẻ lớn trong nhà kho, giũ bụi đi thì vẫn còn dùng được. Trà ở trong tủ, nếu muốn, các cậu cứ tự nhiên mà pha"
    Tôi không muốn ở lại, nhưng rốt cuộc thì chúng tôi không chỉ ở lại đêm hôm nay, mà còn cả đêm hôm sau đó nữa. Lão là người hay chuyện, nên nói nhiều lắm. Cứ rảnh ra là lão nói chuyện. Chuyện của lão, thì đủ mọi thứ. Nhưng toàn là chuyện làng mạc mà thôi. Lão rất thích hoài niệm quá khứ. Tôi là phận lính, tôi không để ý những thứ đó.
    "Chúng tôi, mỗi nhà từng cắt một phần đất riêng để trồng cải bắp. Vào dịp lễ Galugat mùa hè, ngày lễ ăn mừng sự phồn thực và no ấm, mỗi nhà đều góp ít nhất ba bắp cải. Chúng tôi sẽ xếp chúng thành vòng tròn xung quanh một bù nhìn bằng rơm, nếu không có rơm thì đắp lên bằng củi khô, rồi chơi nhạc và nhảy múa suốt ba đêm. Làng tôi có một cậu tên là Vlad, cậu ấy chơi kèn túi hay lắm. Năm nào cậu cũng xung phong làm công việc này hết"
    Tôi không cần biết bạn cần để dành bao nhiêu cây cải bắp cho dịp lễ Galugat. Nhưng ngoài điều đó ra thì lão đối rất tốt với chúng tôi. Lão thay băng gạc vết thương của tôi thường xuyên, và theo dõi cô gái để đề phòng cô có biến chuyển gì xấu. Đồ ăn mà lão cho chúng tôi bỏ miệng luôn là thịt thà, cải bắp và nước trà, và chúng luôn nóng hổi. Lão đối đãi với chúng tôi bằng mọi thứ lão có, và tôi không thể than phiền ở điểm nào được.
    "Cầu xin Đức Thánh Linh đời đời ngự vào làm chủ đời sống con, dẫn dắt con đi trên con đường ngay thẳng của Ngài. Xin hãy chỉ dạy con, sửa trách con, khích lệ con và ban cho con sức lực để sống mạnh mẽ vững vàng, làm ánh sáng cho đời, và muối của đất. Xin cho con luôn tràn đầy niềm vui thanh khiết. Xin cho con giữ được tấm lòng bình an trong mọi cảnh ngộ, và tình yêu chân thật đối với mọi người. Hallelujah! Con ca tụng Chúa vì không gì sung sướng bằng được ở trong Ngài. Lạy Chúa nhân từ, dù cả đời này chìm trong bóng tối đi nữa, con cũng biết rằng ngày mai bình minh sẽ tới, và Chúa là mặt trời công bình sẽ soi sáng đời con. Xin hãy giữ hồn trí con luôn ngưỡng vọng nơi Ngài"
    Một lần nữa, trước khi đi ngủ, ông lão quỳ xuống, chắp tay lại và ngước lên khoảng không đen kịt. Sau khi cầu nguyện xong, lão quay sang nhìn tôi. Tôi gật đầu và mỉm cười.
    "Ông theo Công giáo được bao lâu rồi?"
    "Từ khi tôi sinh ra. Gia đình tôi theo đạo đã nhiều đời nay rồi"
    "Đạo dạy rằng, "Thiên Chúa là tình yêu". Phải chi, ông cũng được dạy rằng cần phải chăm chút, đùm bọc người trong thế yếu, người gặp nguy nan? Thế nên ông đã cứu chúng tôi, những con người lạ mặt ông chưa bao giờ gặp?"
    "Quả nhiên là vậy. Hai cậu là những người lương thiện. Nếu là người đến vì thiện chí, tôi sẽ cưu mang"
    "Nhưng ông bỏ trốn khi bị gọi đi lính"
    Khuôn mặt lão biến sắc, làm bộ sợ hãi.
    "Đức Thiên chúa không muốn chiến tranh vô ích. Ngài muốn sự no âm cho mọi con chiên"
    Tôi lắc đầu.
    "Trích từ Tesalonica 1:7, 8 - "Vào lúc Chúa Jesus từ trời xuất hiện với các thiên sứ hùng mạnh của ngài... khi ngài báo thù những kẻ không nhận biết Đức Chúa Trời và kẻ không vâng theo tin mừng về Chúa Jesus của chúng ta". Theo thiển ý của tôi, Ngài vẫn xem chiến tranh là phương tiện chính đáng để chấm dứt sự áp bức và gian ác"
    Lão già tỏ ra vô cùng bất ngờ.
    "Cậu, phải chăng cũng là người theo đạo?"
    "Không. Nhưng tôi là người đọc sách vở. Tôi muốn biết về quan niệm của Chúa"
    Lão nhắm mắt và lắc đầu.
    "Vậy cậu chưa đọc kĩ sách vở của mình rồi. Khải huyền 19:11, 16 có trích: "Đức Chúa Trời sẽ không dùng con người nhưng dùng Chúa Jesus cùng với các tạo vật thần linh mạnh mẽ khác để chống lại kẻ ác. Đạo binh trên trời sẽ chấm dứt mọi nạn áp bức". Chỉ có Đức Chúa Trời mới có quyền chính đáng để xác định khi nào cuộc chiến nổ ra và ai tham gia. Con chiên sẽ chỉ nghe theo tiếng gọi của Chúa, chứ không nghe theo tiếng gọi của kẻ chỉ muốn binh đao và đổ máu"
    "Tôi hiểu rồi. Cảm ơn ông"
    Lão thở dài một tiếng và quay lên nhìn vào khoảng không tăm tối một lần nữa.
    "Trên đời này, tôi đã phạm nhiều tội lỗi. Nhưng tuyệt nhiên, việc bỏ trốn không phải một trong số đó. Nếu tôi có phạm tội lỗi gì sai trái, thì đó chỉ có thể là, rằng tôi đã không cứu được những người bạn của tôi, mà chỉ cứu nổi bản thân. Và tôi vẫn cầu nguyện hàng ngày, cầu xin sự xám hối"
    Lão trông buồn thảm, hoặc đó chỉ bởi vì cấu trúc khuôn mặt của lão thôi. Dù sao thì, tôi cũng muốn để lão lại một mình.
    "... Cảm ơn ông. Cảm ơn ông vì thời gian chúng tôi ở đây. Ngày mai, chúng tôi sẽ lên đường"
    "Cầu mong mọi điều bình an sẽ đến với cậu"
    "..."
    Tôi định nói với ông vài điều, nhưng tôi không thực sự muốn xúc phạm đến tín ngưỡng của người khác chẳng vì lí do gì cả. Nhưng cách Chúa ban phước thì thật là khôi hài làm sao. Bạn cầu nguyện cho sự hòa bình, nhưng Chúa chẳng bao giờ ban cho bạn điều đó. Thế nên, bạn phạm một tội ác, bạn gây thù, chuốc oán. Và khi sự đã rồi, bạn tới nhà thờ và cầu xin Chúa sự xám hối. Và khi Cha xứ nói với bạn rằng bạn đã được gột rửa, bạn cảm thấy thanh thản.
    Cả đời sống tinh thần của bạn, tội lỗi của bạn, chiến công của bạn của bạn không nằm ở bạn, mà nằm trong tay một kẻ khác. Mà kẻ khác thì chẳng phải Chúa. Kẻ khác là Nhà thờ. Kẻ khác là Giáo hội. Những cuộc thánh chiến và thập tự chinh xảy ra, cũng vì lẽ đó cả.
    Tôn giáo thật là một điều ngu xuẩn.
    Tôi trở về góc của mình và nằm xuống. Tôi và cô nằm đối lưng với nhau, cùng chia sẻ một chiếc giẻ làm chăn. Lão nằm ở góc còn lại của căn nhà, và chẳng mấy chốc, đã say sưa ngủ.
    "Bác ấy thật tốt bụng" Cô nói.
    "Lão ấy nói nhiều quá"
    "Alexei. Anh không thích những câu chuyện mà bác ấy kể sao?"
    "Không phải vậy. Tôi chưa bao giờ được tham gia một lễ hội nào cả. Tôi không hiểu điều đó"
    "Em thích những điều ông kể"
    "Cô đã đi lễ hội Galugat rồi sao?"
    "Em chưa. Nhưng em cứ cảm giác như mình đã đi rồi vậy. Lời kể của ông, chúng nghe thật bình dị và thật vui thú. Anh có nhìn thấy cách mà đôi mắt ông sáng lên khi ông kể chuyện hay không? Cứ như thể là ông đang sống lại những kỉ niệm vậy"
    "Tôi không để ý"
    "Alexei. Anh thường ngày nhanh nhạy hơn em. Anh không thể nào không để ý những điều đó được. Anh biết rằng một con người là người tốt hay không khi anh nhìn vào đôi mắt của họ"
    "Vậy tôi có phải người tốt không?"
    "Có" Cô không ngần ngại trả lời "Alexei này. Bác ấy có phải người tốt không?"
    "Có. Giờ ngủ đi. Cô cần ngủ đủ, sáng mai chúng ta lên đường"
    "Vâng. Chúc anh ngủ ngon, Alexei"
    "Ngủ ngon"
    Chẳng mấy chốc, tiếng thở của cô chậm rãi đi nhiều. Cô say ngủ trong chăn ấm, chẳng hề đề phòng chút gì. Vậy cũng tốt, ít nhất tôi biết sức khỏe của cô ổn định.
    Khi trăng lên cao và màn đêm dần chìm nghỉm, tôi ngồi dậy và quan sát. Lão vẫn say sưa ngủ, chẳng có vẻ gì là sẽ tỉnh giấc cả. Cây súng của lão, lão không cầm theo mình mà đặt ở trên bàn, thật nghiệp dư làm sao. Súng là người bạn tốt của bạn chứ không phải cổ họng như lão nói. Bạn không bao giờ được rời xa súng của mình.
    Tôi không tin tưởng lão ta. Thái độ niềm nở của lão thật là đáng ngờ. Nếu là tôi, tôi sẽ chẳng bao giờ đưa kẻ lạ mặt vào trong nhà và tiếp đãi họ như thể họ là vua vậy. Nhất là với một cô gái với những đặc điểm kì dị như thế này. Tôi biết rõ rằng lão ta, hoặc tò mò, hoặc hoảng sợ, nhưng lão vẫn đối xử rất tốt với cô. Lão nói lão là nông dân, nhưng ai đi cấp súng cho nông dân cơ chứ? Vả lại, lão nông nào có thể trích dẫn Kinh thánh chính xác tới vậy chứ? Những bó cải bắp mà lão lấy cho chúng tôi, lão cũng không hề nói chúng từ đâu ra. Lão nói lão sợ đi lính, nhưng lúc lão chĩa súng vào gáy tôi, tôi chẳng cảm thấy sự sợ sệt nào cả. Hành tung của lão rất đáng ngờ.
    Tôi đứng dậy và cầm cây súng của mình lên. Thật khẽ khàng, tôi tiến tới bàn ăn và cầm cây súng của lão theo. Giờ thì lão sẽ không còn vũ khí để phòng thân nữa.
    Có thể lão chỉ là một gã nông dân tầm thường mà thôi, điều đó lí giải vì sao lão lơ là như vậy. Nhưng tôi quyết ý rồi, không thể nào khinh suất được. Tôi không muốn là một kẻ máu lạnh đâu.
    Nhưng thà giết nhầm còn hơn bỏ sót.
    Tôi không muốn làm kẻ máu lạnh đâu. Nhưng thà giết nhầm còn hơn bỏ sót.
    Lặng lẽ nạp đạn, tôi ngắm súng về phía lão già. Lão nằm đối lưng về phía tôi, quay mặt vào phía bờ tường tối. Một phát súng vào đầu, và nếu cần thiết thì một phát nữa vào ngực, và lão sẽ không có thời gian phản ứng. Nhưng tốt nhất là một phát thôi, vì đạn dược là của khan hiếm.
    Thế nhưng, dạo gần đây, nhất cử nhất động của tôi đều bị quấy rối bởi một kẻ phá bĩnh. Lần này cũng không phải ngoại lệ.
    "Alexei. Anh đang làm gì vậy?"
    Cô gái tỉnh dậy và hỏi tôi ngay khi nhận thấy sự bất thường.
    Không quay mặt lại, tôi đáp với một giọng như thể đây là công việc hàng ngày.
    "Hãy xuống ngăn lạnh và vào nhà kho. Tìm cho tôi một bó cải bắp, một miếng thịt thật lớn và chút lương khô nếu có. Sau đó, tìm cho tôi đạn dược, tất cả những gì cô có thể tìm được. Đạn nhỏ là của súng lục, đạn lớn là của súng trường. Nếu có thuốc lá, mang lên cho tôi"
    "Em xin lỗi, nhưng..."
    "Không "ạ"! Không "xin lỗi"! Xuống và mang đồ lên cho tôi!"
    Thế nhưng, đây không phải là một cô gái sợ tôi tới chết khiếp như những ngày đầu nữa rồi. Đó là vấn đề khi mà bạn quá mềm mỏng với một ai đó. Họ sẽ nghĩ rằng họ có thể thoải mái chất vấn bạn và can dự vào chuyện của bạn.
    "Em xin lỗi. Nhưng em không thể làm điều đó được, cho tới khi anh bỏ cây súng đó xuống và nói cho em chuyện..."
    Tôi quay ngoắt lại và chĩa súng thẳng vào mặt cô ta.
    "Cô nghĩ cô là ai mà có quyền đề nghị tôi giải thích? Tôi cứu cô ra khỏi bãi bầy nhầy đó. Tôi là chủ, tôi là mệnh lệnh. Giờ thì xuống nhà kho đi. Đồ ăn, đạn dược, thuốc lá. Nhanh!"
    Tôi không hét lên. Tôi thì thầm, đủ để lão già không tỉnh dậy. Nhưng tôi tin rằng cô gái có thể đọc được sự cáu bẳn trong nét mặt của tôi, vì đồng tử của cô giãn ra và hai tay cô co cụm lại ôm lấy ngực của mình như một con rùa rụt cổ.
    "Nhìn cô mà xem. Cô sợ súng tới phát khiếp. Cô có quyền gì để mà hỏi tôi, khi mà cô còn không sống nổi mà không có tôi?"
    Khuôn mặt cô tái mét lại. Khác với vẻ dò hỏi ban nãy, cô câm như một con hến.
    "Bộp. Cạch..."
    Bỗng dưng, sau lưng tôi, một vài tiếng động như tiếng cựa quậy của con người, vang lên.
    "Hai cậu nói chuyện gì vậy?"
    Giật mình, tôi quay ngoắt 180 độ.
    "PẰNG!"
    "PẰNG PẰNG!!!"
    TOÉT!!!
    Quả nhiên, lão già vừa tỉnh giấc và vừa mới ngồi dậy, còn chưa kịp quay ra. Phát súng của tôi găm thẳng vào gáy lão, khiến da gáy lão rách ra, thọt vào trong, nhăn nhúm lại như da hậu môn. Hai phát còn lại xuyên thủng phổi hắn, làm hắn còn không kịp thở. Lão gục xuống trong tư thế ngồi, vùi mặt mình vào hai bàn chân. Chết ngay lập tức.
    Lão còn chưa kịp cầu Chúa ngày hôm nay. Giờ thì lão cúi đầu trước Ngài mãi mãi.
    "Á!!!!!"
    Cô hét lên. Tôi quay lại nhìn cô, và cô còn không nhìn thẳng nổi vào mắt tôi. Cô ôm lấy miệng một cách hãi hùng. Sau đó, cô cắn mạnh vào môi dưới của mình. Tôi nhớ rằng cô nói đó là điều cô hay làm khi cô cần phải bình tĩnh thật nhanh chóng. Nhưng rồi sự kinh hoàng cũng qua đi.
    Trước khi tôi kịp nói điều gì, cô thoáng nhìn tôi chỉ một chốc lát. Nhưng tôi nhìn thấy điều đó.
    Đó là lần đầu tiên, cô ta dám nhìn vào mắt tôi với một đôi mắt căm phẫn.
    Sau đó, cô trở mình và toan bỏ chạy.
    "Đứng lại đây!"
    Cô vùng mình mở toang cửa và định tẩu thoát. Thế nhưng, tôi nhanh hơn cô, và chiếc váy quá đỗi vướng víu khiến cô tự vấp chân vào đó và ngã lăn ra ngoài.
    Tôi nhảy xổ lên cô và đè cô ra như một con thú hoang trong cơn cưỡng bách. Giơ báng súng lên và đập mạnh xuống mặt tuyết ngay bên cạnh vai cô, tôi thể hiện chủ quyền của mình. Tuyết bắn lên tung tóe như quẫy nước trong bồn tắm.
    "Bỏ tôi ra!!!" Cô quát tháo, và cố đẩy tôi ra bằng đôi bàn tay yếu đuối như bọt biển.
    "Chạy đâu?? Chạy khỏi ai??? Cô chạy khỏi tôi ư, sao cô ngu ngốc vậy?"
    Nhưng cô vẫn cứ đập bèn bẹt vào ngực tôi, quẫy chân quẫy tay một cách ương ngạnh.
    "ĐỒ VÔ NHÂN TÍNH! BỎ TÔI RA!!"
    Tôi không còn có thể giữ nổi bình tĩnh nữa.
    "CÔ BỊ ĐIÊN HAY SAO?? LÃO TA CHỈ LÀ NGƯỜI LẠ! TÔI LÀ NGƯỜI ĐÃ CỨU CÔ!!! TÔI! TÔI LÀ NGƯỜI ĐÃ CỨU CÔ!!!"
    "Đồ vô nhân tính!!! Bỏ tôi ra... Đồ vô nhân tính... Hức... hức... đồ... hức..."
    Khuôn mặt cô ướt sũng nước. Nếu có một điều tôi thua cô cả đời, thì đó là khả năng tưới nước lên đôi mắt của mình. Mất ba giây để sũng cả khóe mắt, tôi không làm được điều đó.
    Cơn giận của tôi bỗng dưng biến mất.
    Tôi chống tay xuống tuyết và hạ mình xuống, không nói gì cả. Cô đẩy tôi ra, và tôi để cô đẩy tôi ra. Cô chạy mất, không hề nhìn lại. Tôi biết rằng cô còn chẳng nhìn thấy đường, vì trời còn tối lắm. Nhưng cô vẫn chạy mất. Tôi quỳ dưới mặt đất, tay cầm súng buông thõng, nhìn cô cứ vậy chạy đi.
    Thế rồi, tôi nhận ra rằng cô đã đánh rơi một thứ. Nhặt quyển Anna Karenina lên, tôi rũ tuyết và đút nó vào túi áo trong.
    Cô ấy sẽ quay lại.
    .
    ..
    ...
    "Thì ra lão là nông dân thật"
    Tôi lục lọi trong nhà kho của lão, tìm thấy đống thịt sói hôm nọ. Ở góc nhà kho có một mô đất nhỏ, đó là nơi mà lão trồng rau. Bên cạnh mô đất là một xô nhựa đựng nông cụ, cuốc, xẻng và cây bừa. Tôi lục trong xẻng và tìm thấy một album ảnh. Tất tần tật ảnh trong đó đều là ảnh từ ngôi làng trước đây lão ở. Ảnh về cuộc sống của lão hồi còn trẻ. Những buổi cày bừa, những lễ hội, tất cả mọi thứ. Lão cười và cầm đủ mọi thứ đồ vật trong những bức ảnh, lúc thì những trái bí ngô, khi thì những con cá trắm. Tất cả mọi thứ đều toát lên vẻ bình dị.
    Dù sao thì người chết cũng không thể sống lại được. Vả lại, nó chẳng chứng minh được điều gì. Nếu bạn tin rằng cuộc đời của một con người được khắc họa hoàn toàn qua những bức ảnh mà hắn chụp, bạn là một con lừa ngu ngốc.
    "9 li đạn... 9 li đạn... 9 li đạn..."
    Tôi tìm thấy chiếc ba lô của lão, lấy hết tất cả đồ ăn, cuốc xẻng và cho vào trong đó. Tôi vơ hết tất cả đạn dược của lão, thậm chí còn tìm thấy cả một bộ bài tú lơ khơ, nhưng không tìm thấy thuốc lá. Thật không thể hiểu nổi những người theo đạo. Nếu bạn biết cầm súng, bạn phải biết cầm điếu thuốc chứ.
    Làm sao mà tôi có thể sống nổi nếu như không châm vài điếu thuốc sau khi giết vài mạng người. Vậy mới biết, hoàn cảnh tạo nên thói quen. Chỉ vài năm trước thôi, cũng như lão, tôi không hút thuốc. Ít ra không hút nhiều tới mức thèm thuồng như bây giờ.
    Tôi đào một hố tuyết ở gần nhà lão, đặt lão xuống lòng đất cẩn thận rồi vùi tuyết lên phía trên. Tuyết sẽ giữ cơ thể lão lâu mục ruỗng, ít nhất là cho tới khi mùa hè đến, nhưng lúc đó chắc lão cũng thối rữa xong xuôi rồi. Thôi thì cũng tạm coi là long trọng.
    Trời tờ mờ sáng khi tôi bắt đầu lấp tuyết lên nấm mồ của lão. Khi đó, tôi thấy dáng chiếc váy trắng quen thuộc quay trở về từ phía xa. Tôi ngừng việc lấp tuyết lại, chống tay lên chiếc xẻng và nhìn cô bước đến. Cô cố gắng không bình tĩnh nhất có thể, không biểu lộ cảm xúc gì khi tiến lại gần tôi. Nhưng khi bước qua nấm mồ tôi vừa đào, cô không thể rời mắt khỏi nó.
    "Tôi đang chôn cất cho lão" Tôi nói, như thể chưa có chuyện gì xảy ra.
    Chẳng nói chẳng rằng, cô cầm lấy chiếc xẻng mà tôi chống tay lên và giành lấy nó. Tôi không cản cô lại, lùi ra phía xa và ngồi xuống quan sát. Cô bắt đầu đắp tuyết lên ngôi mộ của lão. Không chộp giật, hất tung tóe như một tay cửu vạn (điều mà tôi làm), cô từ tốn và chậm chạp gạt từng cục tuyết một xuống. Khi tuyết đã lấp đầy, cô tự lấy tay san phẳng chúng, rồi đặt vài cành củi khô, cố vót chúng thành một tấm bia mộ thánh giá, dù cho trông nó trông gần như chẳng giống chút nào cả. Thế rồi cô đứng đó tần ngần hồi lâu, tôi chẳng biết cô đang suy nghĩ gì nữa.
    Khi cuối cùng cũng xong xuôi, cô ra phía trước cửa nhà và ngồi xuống. Chúng tôi ngồi đối diện nhau. Cách nhau khá xa, nhưng vẫn là đối diện.
    "Cô giữ đồ đạc của mình tốt hơn là tôi tưởng tượng đấy. Chiếc nhẫn trên ngón tay cô vẫn còn đó, và nó vẫn sáng loáng. Cô làm thế nào để đạt được điều đó vậy?"
    Không tiếng trả lời. Tôi lôi bộ bài ra và bắt đầu tráo.
    "Đây không phải một bộ bài bình thường đâu, cô gái. Đây là bộ bài 500, giá trị quân bài lên tận quân 13, chứ không phải quân 10 như bàn bình thường, nhưng vẫn có J, Q, K. Cô có biết chơi 500 không? Trò chơi này cần 4 người, nên tôi và cô không chơi được. Nhưng dù sao thì cô chơi 500 với 43 quân. Bỏ hết quân 2, 3 và 4 đen ra, nhưng giữ lại quân Joker. À không, tôi nhầm. Đây là bộ bài Úc, nên phải gọi nó là con chim. Vì trong bài bình thường ta hay chơi, quân Joker là một gã hề, nhưng lá bài này là một con chim bói cá. Đầu tiên, bốn người sẽ phải cược với nhau rằng họ sẽ thắng bao nhiêu vòng, và họ sẽ được chọn chất chủ bài. Chất chủ bài sẽ là chất của kẻ cược cao nhất, giả dụ như chất chủ bài là Rô đi, thì con Rô có thể chặn những con khác. Nhưng cô không thể..."
    Tôi cứ giải thích về luật chơi bài, mặc cho cô có nghe tôi hay không. Sau khi tôi nói hết những gì có thể, tôi không nhận được phản hồi. Chúng tôi cứ ngồi im lặng như vậy cho tới khi mặt trời lên.
    Cuối cùng, tôi rút một cây súng lục ra, khẩu TT-33 Liên Xô của lão già. Đây là một khẩu súng mà xã hội đen hay sử dụng, thế nên tôi đã nghi ngờ rằng lão nông đó vốn chẳng phải là một lão bần nông. Tôi tiến gần và chìa khẩu súng ra trước mặt cô.
    Tôi ném cây súng vào lòng cô gái.
    "Đây là súng của cô. Cô cần bảo vệ bản thân mình đấy"
    "..."
    "Im lặng nếu muốn. Bắn tôi nếu cô muốn. Nhưng nếu cô không đủ nhanh, tôi sẽ bắn cô đấy"
    Tôi xách ba lô lên và đi. Mới đầu, cô không chịu đi theo, nhưng sau khi tôi đi được một đoạn, tôi cảm thấy có người lẽo đẽo theo đuôi mình.
    "Hãy đến Kazan nhanh nhất có thể"
    Cô chẳng nói chẳng rằng.
    Chúng tôi đi cả ngày hôm đó mà không nói một câu gì. Cảm giác đó thật kì lạ. Chẳng có điều gì là thay đổi cả. Chúng tôi vẫn nghỉ chân và ăn uống, vẫn đào hầm tuyết để ở. Mọi việc còn dễ dàng hơn với đủ thứ dụng cụ mà tôi kiếm được. Nếu như chúng tôi không giết lão già ấy, làm sao mà chúng tôi sống dễ dàng được thế này cơ chứ.
    Khi mà mặt trời đã lặn một lần nữa, hai chúng tôi mới có một cuộc nói chuyện đàng hoàng đầu tiên của mình trong lều tuyết.
    "Tôi xin lỗi, được chưa? Không có cách nào để biết chắc ông lão là người tốt được. Tôi biết cô đã nhìn thấy bộ ảnh của ông, và cô tin những câu chuyện mà ông kể. Nhưng... tôi không biết chắc được. Tôi... tôi không tin được người lạ"
    "Vậy tức là anh cũng chẳng tin em, đúng không?"
    "Đó là điều mà cô lo sao?"
    "Ông ấy chỉ là một nông dân mà thôi"
    "Không. Ông ấy không phải. Thế giới của cô toàn màu hồng. Liệu cô có định bảo tôi rằng bởi vì lão ấy là người tốt, chúng ta thà chết rét ngoài này chứ không được ăn cắp nông cụ của lão?"
    "Anh có thể lấy một hay hai thứ, em có thể chấp nhận điều đó. Nhưng thật điên rồ nếu so sánh việc lấy đi vài thứ với... một thứ gì đó như những điều anh làm"
    "Vậy là cô cho rằng tội ác nhỏ thì không phải là tội ác, còn tội ác lớn thì là tội ác hay sao? Ha ha... hahaha... Hóa ra cô cũng vậy. Cô cũng chỉ là một trong chúng tôi mà th..."
    BỐP!!!!
    Tôi lĩnh thẳng một cú tát vào má. Cô tát tôi bằng mọi thứ lực mà cô có, nghiến răng và phùng má lên một cách đầy giận dữ. Cô tát tôi tới mức chiếc nhẫn của cô suýt văng ra khỏi tay. Mặc dù tôi đã chuẩn bị cho điều đó, tôi phải công nhận là dù da mặt tôi có dày tới mức nào, vết tát đó cũng có trọng lượng.
    Tôi chẳng biết cô có dám tát một kẻ khác không, nếu đó không phải là tôi.
    Rút từ trong túi áo ra cuốn Anna Karenina, tôi trả lại cô ấy và không nói gì nữa.
    "Chúc ngủ ngon"
    Hai chúng tôi ngậm một niềm im lặng. Và đó chẳng phải là một thứ im lặng dễ chịu, thứ im lặng của hai con người hăng say làm việc, hay thứ im lặng của hai con người đang tò mò dò xét nhau. Chẳng có ý nghĩa gì cho sự im lặng này cả. Nó chỉ là... sự im lặng.
    Tôi quay lưng vào bờ tường, nghĩ về điều tồi tệ nhất có thể xảy ra. Tôi quyết định tặng cho mình một giấc ngủ thật sâu, nhưng chỉ trong hai tiếng đồng hồ mà thôi. Hiểm nguy đến không bao giờ gõ cửa. Bạn có thể đi hàng tuần, hàng tháng mà chẳng có chuyện gì xảy ra, nhưng chỉ hai tiếng đồng hồ lơ là thôi và bạn có thể tỉnh giấc ở giữa bình nguyên Mông Cổ với một quả thận bị ăn cắp mất.
    Nhưng tôi vẫn muốn ngủ. Những lúc thế này, tôi muốn ngủ. Nếu bạn là tôi, bạn cũng sẽ muốn ngủ. Bởi vì ngủ, vui hơn là thức.
    "Tại sao... tôi lại phải làm những điều này cơ chứ... Tôi đang đi đâu... Tôi chạy trốn, vì cái gì..."
    Quả nhiên, điều tồi tệ xảy ra khi tôi tỉnh dậy.
    "Chết tiệt"
    Khi tôi tỉnh giấc, cô gái không còn ở trong lều nữa.



    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



  4. #24
    Ngày tham gia
    Mar 2017
    Bài viết
    26
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 22


    Tôi tiếp cận gần cái tiền đồn đó, một tiền đồn nhỏ đứng chặn ở một điểm nút giao thông đã bị bỏ bẵng. Tôi không muốn đi theo đường chính để tới Kazan mặc dù trên lí thuyết, đây vốn tất cả đều là đất của Thủ lĩnh Smolnikov, bởi vì chúng tôi bị cô lập lâu tới mức chẳng còn biết được Pavlyuchenko đã chiếm được nơi nào, nhưng có vẻ như bọn chúng chưa lấn tới những con đường nhánh này, Đứng trước cửa là ba gã đàn ông, quần áo luộm thuộm, tóc tai lởm chởm, như thể chúng cũng chẳng thèm quan tâm nữa. Tất nhiên, vì có những điều khác mà chúng cần để ý hơn là quần áo.

    Không bao giờ bỏ tay ra khỏi cây súng vắt qua vai. Điều tệ nhất bạn có thể làm là đối mặt với quân đội trong tình trạng trần truồng về mặt vũ trang.

    Tôi để ý rằng chúng mặc bộ quân phục màu xanh lục đậm với những vết loang màu mực xung quanh. Đây là quân phục của đội phản ứng nhanh của Thủ lĩnh Smolnikov. Tôi không biết Khẽ vỗ vào bộ quân phục của bản thân, tôi thì thầm.

    “Tao biết là rồi sẽ đến lúc mày trở nên có ích mà”

    "Đứng lại ngay đó” Tên đứng ở giữa, một gã gầy còm với xương gò má chề ra, hất hàm ra lệnh.

    “Binh nhất Alexei Vronsky, đồn trú ở lô cốt Nam Izhevsk, được ủy thác bởi Chỉ huy trưởng, thiếu tá Artem Dzyuba, xin phép được vào trong báo cáo”

    Ba người họ sáu mắt nhìn nhau cứ như thể lâu lắm rồi chưa được nghe một thứ gì đó như vậy.

    "Làm sao mà anh tới được đây?" Gã gầy còm hỏi.

    "Tôi đi lạc. Tôi không biết mình đang ở đâu nữa"

    Hắn nín thinh. Một lúc lâu sau hắn mới đáp.

    “Hãy đợi ở đây”

    Hắn trở vào trong, và tôi chẳng phải đợi lâu để nhìn thấy một người đàn ông bước ra. Một người đàn ông trung niên độ bốn chục tuổi, với khuôn mặt vuông, sần sùi nhưng sáng láng, mái tóc húi cua và một đôi môi trề ra, cong vút trông có đôi chút khó ưa. Da ông đen xạm hơn so với một người Nga thông thường mà bạn hay thấy. Ông mặc một bộ quân phục đàng hoàng trở ra. Nói là đàng hoàng, nhưng nhìn cách những quân hiệu và huân chương của hắn ta gắn vào cứ như thể là hắn phải dán chúng vào đó vội vàng lắm.

    Hai bên vai hắn gán phù hiệu, loại phù hiệu trong đồng phục thông thường chứ không phải đồng phục trực chiến, điều đó chứng minh rằng nơi đây là một điểm nút không quan trọng và không phải tham gia chiến đấu nhiều. Trên phù hiệu của hắn gán bốn ngôi sao vàng xếp theo hình tháp, có nghĩa là hắn mang hàm Đại úy, một quân hàm không hề thấp bé chút nào. Trên ngực hắn có vài chiếc huân chương, trong đó đáng chú ý có một chiếc huân chương ngôi sao màu xanh lục, ở bên rìa những cánh sao được rát những đường viền màu bạc sáng loáng. Đó là huân chương Khởi nghĩa tháng Bảy, cuộc khởi nghĩa diễn ra gần hai chục năm trước, và cũng chính là cuộc khởi nghĩa khiến cho chính quyền Smolnikov trở thành một thế lực thời bấy giờ.

    Khi đó, Smolnikov nắm quyền kiểm soát khắp dọc sông Volga và vùng bình nguyên phía bắc, lấy Kazan làm thủ phủ. Phía Bắc, biên giới của họ là cả một vùng rộng lớn chạy từ Vologda sang Kirov, phía Tây có Novrogod, phía Đông trải sang tận Perm, và có lúc còn bành trướng xuống cả thủ đô Aktobe của Kazakhstan. Khi đó, lãnh thổ của chính quyền Pavlyuchenko “chỉ có” tất cả những thành phố tối quan trọng như Moskva và St. Petersburg mà thôi. Hiện giờ thì Pavlyuchenko đã thâu tóm hết rồi. Chỉ vài năm trước, Smolnikov kí một hiệp định, nhượng lại Aktobe, Saratov và Novokyubyshevsk cho Pavlyuchenko, có nghĩa là toàn bộ mé Tây Nam, để đổi lại quyền được giao thương công nông nghiệp. Chính quyền của hắn gọi đó là một “bước tiến quan trọng trong mối quan hệ giữa hai phe”, thế nhưng ai cũng hiểu đó chẳng khác gì một lời khẳng định rằng chúng tôi chịu thất bại. Giống kiểu “hoặc anh tự nhường đất, hoặc chúng tôi cưỡng đoạt nó từ tay anh” đấy. Khi đó, Smolnikov chẳng khác gì một tay sai hèn nhát của Pavlyuchenko cả. Dù sao thì, Pavlyuchenko cũng giữ lời hứa, mở cửa giao thương và không cho quân đội gây hấn biên giới nữa. Ít ra, lính tráng chúng tôi chẳng phải suốt ngày bị điều động bốn phương tám hướng chỉ vì không biết Pavlychenko sẽ nhăm nhe ở đâu nữa. Cứ tưởng vậy là xong. Nhưng rồi lại chiến tranh tiếp.

    Có những lúc, tôi tự hỏi rằng vì sao tôi chỉ tìm thấy cảnh chiến tranh liên miên trong lòng liên bang Xô Viết mà thôi. Chúng tôi gần như hoàn toàn mù tịt về những gì đang diễn ra phía ngoài kia. Thứ gần nhất có thể coi là ngoại lai mà chúng tôi chạm trán được là những người gốc Á được tuyển mộ từ Mông Cổ và Kazakhstan. Tuy họ trông châu Á và khác biệt do với chúng tôi, nhưng rốt cuộc thì họ cũng được lai tạo ra từ các lò của Xô Viết mà thôi, không thể tính là nước ngoài được. Tôi không rõ rằng ở những nước khác, liệu có tình trạng xâu xé đồng loại như ở đây hay không. Chắc là có chứ, toàn đàn ông man rợ với nhau cả mà. Đó cũng là lí do mà lính tráng trong đồn của Dzyuba thích nghe chuyện của Smolov lắm. Lão toàn kể về những lần xuất ngoại của hắn, sang tận châu Á, sang tận Nam Mỹ. Câu chuyện về nhà hàng Brazil mà tôi nghe lỏm được hôm ăn trộm bánh mì cũng là một trong số đó đó. Chẳng biết những gì lão kể có phải thật hay không, cũng chẳng ai kiểm chứng được, nhưng nếu xuất ngoại dễ dàng như vậy thì đã phải có nhiều người kể chuyện hơn là chỉ một.

    Dù sao thì, huân chương khởi nghĩa tháng Bảy đó là huân chương cao quý bậc nhất của chính quyền Smolnikov. Nó dành cho những người có thể gọi là bậc “khai quốc công thần”, những người có công dựng nên chính quyền này. Vậy mà một Đại úy lại có vinh dự nhận được nó. Cộng với việc ông ta ở một tiền đồn gần như không can dự gì tới điểm nóng cuộc chiến, tôi chỉ có thể nghĩ tới hai khả năng. Một là ông ta có bất đồng gì với Thủ lĩnh, khiến cho ông bị giáng chức và đày về nơi khỉ ho cò gáy như thế này.

    Khả năng thứ hai, tôi cho rằng dễ xảy ra hơn.

    “Chúng ta sẽ nói chuyện ở trong đồn. Đưa cậu ta vào trong”

    Hai người lính hai bên tóm lấy hai bên cánh tay của tôi, ngay phía dưới bả vai và dẫn tôi vào. Họ không tước súng của tôi, có nghĩa là khả năng cao họ không có chủ đích hãm hại tôi. Bởi vậy, tôi tạm yên tâm theo chân họ.


    ..
    .

    “Hút thuốc chứ?”

    Chúng tôi ngồi đối mặt nhau trong một bàn làm việc lộ thiên. Từ đây, bạn có thể nhìn thấy những gì đang xảy ra bên ngoài tiền đồn. Ngoài viên Đại úy, nơi đây có gần chục binh sĩ nữa. Nhưng họ chẳng có vẻ gì là giống binh sĩ cả. Bọn họ có một chiếc đài cũ và vài đĩa nhạc điện tử, bọn họ mở chúng suốt ngày đêm. Ngay bây giờ đây, tôi có thể nghe thấy tiếng nhạc xập xình. Có bao nhiêu thuốc, rượu, bọn chúng lấy ra xài bằng hết, không kể ngày hay đêm. Bởi thứ lối sống sa đọa đó. nên tên nào cũng gầy còm, hốc hác. Nhưng ít ra thì tên nào cũng mỉm cười với nhau. Khi say, bọn chúng còn cười khà khà cơ. Khi bọn họ say sưa, tôi nhận ra rằng bọn họ gần gũi hơn vẻ ngoài của mình rất nhiều. Họ quên bẵng tôi là kẻ lạ mặt mới tới, niềm nở tiếp đón, rót rượu cho tôi và rủ tôi vào ca hát. Ở nơi trận tiền, những tiếng cười như vậy thật khan hiếm. Ở hậu phương lúc nào cũng vui hơn.

    Kể từ lúc tôi đến, viên Đại úy chưa hỏi tôi một lần nào về những gì đã xảy ra ở trận tiền. Ông chỉ hỏi tôi hai câu. Câu thứ nhất, ông hỏi: “Liệu tôi có đem tin gì thực sự nguy cấp không?”. Tôi trả lời rằng có. Câu thứ hai, ông hỏi tôi: “Tôi biết rằng Izhevsk đã thất thủ. Liệu tin của cậu có phải là tin gì mà tôi chưa biết hay không?”. Tôi đáp rằng không. Và như thế, chúng tôi vào đây hút thuốc.

    Hắn chìa cho tôi một điếu Belomorkanal. Tôi gật đầu. Belomorkanal là loại thuốc cuốn giấy không có đầu lọc, nếu kẻ tinh ý sẽ cảm thấy vị vương lại rất lâu bên vách họng. Nó không phải là loại ngon nhất, nhưng là một trong những loại mạnh nhất. Và tất nhiên, rẻ nhất.

    "Cứ ở đây, cứ ở đây với chúng tôi, anh bạn. Ở lại vài ngày, một tuần, không quan trọng. Cứ tự nhiên như ở nhà"

    Hắn kẹp điếu thuốc của mình giữa ngón trỏ và ngón giữa, đút nó tít tận xuống dưới. Khi hắn đặt điếu thuốc lên miệng, trông cứ như thể hắn giơ một chữ V ra trước mặt tôi.

    “Họ nói anh có thể đoán được tính cách của người hút thuốc dựa trên cách anh ta cầm điếu thuốc” Hắn mở lời.

    “Vậy sao? Hãy nói cho tôi cách ông cầm thuốc biểu thị điều gì?”

    Hắn nhìn xuống tay mình, mỉm cười và ngước lên nhìn tôi.

    “Đó là biểu hiện của tuýp người biết mình đang nói gì, anh hiểu ý tôi không? Kẻ thích chiêm niệm mọi thứ, và tìm ra vấn đề cốt lõi phía sau mọi thứ”

    Một kẻ khoe mẽ, thích trấn áp và áp đặt tư tưởng của mình lên người khác. Đó là những gì tôi đọc được. Tôi đoán rằng hắn sẽ tiếp tục với vài câu đề cao bản thân một cách giả vờ khiêm tốn, rồi chuyển sang đọc tính cách của tôi, và sẽ tiếp tục nói về những điều bản thân cho là đúng. Hoặc là như vậy, hoặc hắn ta mới cầm thuốc lá lần đầu.

    “Tôi từng tham gia khởi nghĩa tháng Bảy, cậu thấy đấy. Tôi cũng tích lũy được đôi chút kinh nghiệm. Sau đó tôi xin về những vùng ngoại thành, truyền thụ kiến thức cho các cậu trẻ hơn. Còn nhiều khó khăn, nhưng bọn họ vẫn học được vài điều hàng ngày. Với cả, cậu có muốn tìm hiểu xem cậu là người như thế nào với cách cậu cầm thuốc lá không?”

    “Tôi muốn biết”

    Hắn nhận xét ngay lập tức.

    “Cậu đặt điếu thuốc kẹp trên đầu ngón trỏ và ngón giữa, còn ngón cái của cậu hơi chìa ra. Hmm… Cậu có vẻ hơi bi quan và cẩn trọng quá mức. Cậu chưa nói gì nhiều từ lúc tới đây, phải không?”

    Tôi gật đầu, không trả lời gì thêm. Nếu hắn muốn tôi là người cẩn trọng, tôi sẽ là người cẩn trọng. Vả lại, cẩn thận chút ít cũng chẳng bao giờ thừa cả.

    Hắn mỉm cười và đưa chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay nhau.

    “Vladimir Sytnyk”

    “Alexei Vronsky”

    “Cứ gọi tôi là Vlad. Влад Це́пеш*, Влад Дра́кула** ấy, cậu biết không?”

    *Vlad Tepes, hay còn gọi là Vlad the Impaler, vị vương công nổi tiếng tàn bạo xứ Wallachia, nam Romania
    ** Vlad Dracula, tên gọi khác của Vlad III Tepes

    “Bá tước Dracula. Nổi tiếng với trò tiêu khiển xiên người qua cọc, giết người không chớp mắt”

    “Hóa ra cậu cũng biết! Quả là vậy, nhưng cậu nên biết rằng những trò giết người tàn bạo của ông chỉ là dành cho kẻ thù mà thôi. Ông ta cầm đầu vương quốc Wallachia nhỏ bé mà dám đương đầu lại với đế chế Ottoman. Không biết cậu đã nghe câu chuyện này chưa, cơ mà, có lần, một nhà buôn ở nước láng giềng tới lâu đài của Dracula tâu bẩm có người lục lọi chiếc xe ngựa và nẫng mất 160 đồng tiền vàng của anh ta. Dracula an ủi anh, cam đoan sẽ tìm ra tên trộm. Ngay lập tức, Dracula ra lệnh cho quân lính để vào xe ngựa của thương gia đó 161 đồng tiền vàng. Sáng hôm sau khi quay về, thương gia này đếm số tiền và phát hiện ra thừa một đồng. Ông ta quay lại báo với Dracula là đã nhận được tiền nhưng thừa một đồng. Mà anh biết sao không? Dracula đã cố tình làm như vậy đấy, và nếu thương gia này không thông báo về đồng tiền thừa thì chính ông ta cũng sẽ bị xiên cọc!”

    “Bá tước là người tàn bạo, nhưng cũng là người thích tính chính trực”

    “Quả nhiên là vậy. Tất nhiên là chẳng ai thích truyện giết chóc như ngóe cả, nhưng tính chính trực lại là điều không thể thiếu. Một nhà văn còn viết một câu chuyện kinh dị dựa trên ông ta, nhưng tôi chưa có dịp được đọc”
    “Đó là một câu chuyện hoàn toàn giả tưởng mà thôi”

    “Vậy thì chẳng có lí do gì để đọc cả. Những câu chuyện nên phản ánh sự thật”

    “Vậy thì, câu chuyện gì đằng sau những chai rượu kia?”

    Ông nhìn tôi vài giây, có vẻ như muốn đọc suy nghĩ của tôi. Tôi nhận ra rằng mình đã hỏi một câu mình không nên hỏi.

    “Họ chỉ đang hưởng thụ thôi, Alexei Vronsky. Tôi cho phép họ làm vậy. Một ngày, một trong số họ nói với tôi rằng: “Này, sếp. Bao giờ thì tới lượt chúng ta?” Và tôi nhận ra rằng chẳng một lời động viên sáo rỗng nào có thể vực dậy họ được cả. Nếu còn có thể hưởng thụ, hãy cho họ hưởng thụ.Cậu hiểu không, Alexei Vronsky? Đằng nào thì cũng chẳng thay đổi được điều gì”

    “…”

    "Cậu hãy nhìn những tay lính của tôi mà xem. Cậu thấy gì? Sự kiệt quệ, phải không? Bọn họ luôn than phiền rằng chẳng có mục đích gì cho họ chiến đấu cả. Rồi họ than phiền rằng chính phủ của họ không bao giờ cấp cho họ đủ lương thực và áo ấm. Và cậu thấy đấy. Bọn họ suốt ngày lè nhè rượu, còn cậu thì chẳng bỏ được điếu thuốc lá trên tay. Mỗi khi bắt được một con thú hoang, thay vì giải quyết nó một cách nhân từ, bọn họ hành hạ nó, để nó rên ư ử và kêu the thé, và bọn họ thích điều đó lắm. Đầy sa đọa và dâm bạo. Cơ mà tôi chẳng đổ lỗi cho bọn họ, vì những vấn đề đó không phải lỗi của họ"

    Tôi lắng nghe chăm chú những lời mà Vlad nói. Tôi không có ý kiến phản biện gì, thế nhưng những gì gã nói gợi cho tôi đôi chút hiếu kì.

    "Tôi cho rằng những thói quen xấu của mình, chỉ là do bản thân tôi tự hình thành thôi. Ông đang nói rằng những thói quen của chúng ta là do xã hội tác động"

    "Không phải là "xã hội", Alexei Vronsky. Là chính phủ. Là chính phủ! Trong một xã hội tự do, chính phủ phản chiếu cái phần "hồn" của nó trong con dân của mình. Nếu những lão chóp bu muốn thay đổi một điều gì đó, con dân của bọn họ sẽ sống theo một kiểu khác. Nếu như chính phủ thích bắt tay hòa bình và tất cả chúng ta đều đi cày cấy để phát triển nông nghiệp, rồi chia đều thành quả như xã hội chủ nghĩa, liệu mọi vấn đề trong xã hội có phải là sự bạo lực và nát rượu hay không? Nó sẽ lại trở thành vấn đề của sự thủ tiêu giai cấp. Tại sao tôi giỏi hơn hắn ta, mà tôi lại chỉ được nhận đúng những gì hắn ta được nhận? Đó sẽ là vấn đề của thời đại đó, chứ không phải những gì cậu đang thấy đây"

    "Và đó là lỗi của chính phủ"

    "Và đó là lỗi của chính phủ"

    "..."

    "Thế nên, cậu thấy đấy. Những vấn nạn của xã hội không phải là gốc rễ của sự suy đồi. Nó chỉ là sự phản ánh mà thôi. Nếu tới cả Thủ lĩnh của chúng ta cũng kiệt quệ như thế, anh bảo làm sao tôi nỡ ép quân lính phải khẩn trương?”

    Tôi không nói gì, chỉ tiếp tục châm lửa và rít. Nhưng thực ra thì tôi đang ngẫm những lời của hắn kĩ lắm. Nhưng mà tôi đang nghĩ gì ư? Tôi nghĩ rằng, hắn điên rồi. Bản thân tôi cũng cho rằng chính phủ đang bới tung mọi thứ, nhưng lập ra cả một thuyết âm mưu như hắn ta thì tôi mới thấy lần đầu.

    “Cậu là một người thông minh, Alexei Vronsky. Tôi biết cậu hiểu. Cậu chỉ không nói gì thôi”

    Vladimir Sytnyk cho rằng chẳng có ích gì cố gắng để thay đổi bản chất của con người cả, bởi vì tất cả đều là hậu quả của chính phủ mà thôi. Đó là “sự thông thái” của ông ta. Nhưng sự thiếu thông thái của ông ta là ở chỗ, ông ta nghĩ rằng mọi sự giới chức cao nhất áp đặt lên chúng ta là không thể thay đổi được. Điều đó là không đúng. Anh có thể chọn đào thải cộng đồng mà anh sống ở trong. Không ai bắt anh phải cứ mãi sống trong, cứ mãi phục tùng một thể chế mà anh cho là có quá nhiều vấn đề cả.

    Nhưng mà Vlad là kẻ có lòng tự tôn. Một kẻ thông minh và tự cao sẽ chẳng bao giờ chịu thừa nhận mình sai đâu. Vả lại, có khi hắn cũng chọn cách đào thải rồi.

    “Mà nghe nói, cậu muốn về Kazan?”

    “Phải. Tôi muốn về thủ đô. Nơi đó có sự bảo trợ tốt nhất”

    Vlad lắc đầu.

    “Chắc cậu cũng biết, ngay khi nghe tin Smolnikov đang “móc ngoặc” với “Chủng quân Hòa bình” và ngầm hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu của họ tại những thành phố phía Bắc, Pavlyuchenko điên tiết lắm. Hắn san bằng mọi nơi ở biên giới phía Bắc. Bọn chúng bắn hạ Volodga sau hai tiếng đồng hồ, và mất hai ngày để kiểm soát một vùng rộng tới hàng nghìn kilômét vuông, Tới cả một thành phố lớn như là Novrogod, bọn họ chỉ mất hai tháng, hai tháng mà thôi. Nói cho cậu biết, chỉ năm năm trước đây thôi, Novrogod còn được coi là một “pháo đài bất khả xâm phạm” đấy. Tôi đoán rằng bọn chúng chưa tìm thấy dấu vết gì của “Chủng quân hòa bình” cả, thế nên vẫn cứ tiếp tục điên cuồng xâu xé. Có khi, tới cả thủ đô cũng là của Pavlyuchenko nốt rồi cũng nên”

    “Lô cốt cũ mà tôi đồn trú ở Izhevsk, nằm trên con đường từ Perm tới Kazan. Khi mà kẻ địch tràn tận tới đấy, tôi biết rằng cả phía Bắc đều vào tay địch rồi. Bọn chúng còn chán chẳng muốn đánh, cứ chỉ vây hãm vài tháng trời cho tới khi chúng tôi tự diệt. Nếu không về Kazan, chúng tôi biết về đâu? Chẳng lẽ đi vào miệng cọp?”

    “Tùy ý cậu thôi. Tôi cho rằng cậu nên ở lại đây, ít nhất là cho tới khi chúng ta nhận được tin tức mới”

    Tôi cho rằng chúng tôi sẽ chẳng nhận được tin tức nào đâu. Mọi con đường truyền tin chắc hẳn đã bị bọn chúng chặn bằng hết rồi. Vả lại, tôi cũng muốn tìm hiểu về cô gái đó, rằng cô từ đâu mà ra. Tôi đoán rằng cô là sản phẩm của “Chủng quân hòa bình”, và nếu như bọn họ cần nghiên cứu, thì chẳng nơi đâu trong cái xứ sở này có trang thiết bị tối tân hơn là Kazan.

    “Vậy không biết, các binh sĩ của ông có còn đủ nhuệ khí để bước ra ngoài kia hay không? Tại bởi vì tôi có một việc rất cấp bách cần nhờ, thế nhưng giờ thì tôi ngại rồi…”

    Lời gợi ý của tôi khiến cho Vlad cảm thấy tò mò ngay lập tức. Không có nghĩa rằng lão sẽ hồ hởi giúp đỡ, nhưng ít nhất thì lão không từ chối thẳng thừng.

    “Việc gì?”

    “Chẳng là, trên đường đến đây, tôi có lạc mất một người bạn…”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile


    ---QC---


  5. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    tinhyeuhoaco,
Trang 5 của 5 Đầu tiênĐầu tiên ... 345

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status