TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Kết quả 1 đến 3 của 3

Chủ đề: "Hello, World!"

  1. #1
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định "Hello, World!"

    "Hello, world!"
    Tác giả: Tôi

    Giới thiệu: Đầu tiên, tôi là tác giả của Nghiệp.
    Xin lỗi bạn đọc Nghiệp vì một tháng qua không đăng truyện, vì tôi buộc phải tạm dừng để viết một truyện ngắn khác, với mục đích là nộp cho cuộc thi viết. Cuối cùng là cần xuất bản để có tiền.
    "Hello, world!" sẽ kể cho mọi người một câu chuyện xảy ra ở thế giới hiện đại và thực tế, khai thác một đề tài mới khác hẳn.
    Tôi vẫn giữ nguyên văn phong, thật ra thì có phần cụt lủn hơn, vì phía NXB đặt tiêu chí phải là light-novel.
    Lối trình bày cũng sẽ khác, và đúng quy chuẩn xuất bản. Thực ra là Nghiệp từ đầu tôi đã trình bày sai quy chuẩn. Nghiệp sẽ trở lại với cách trình bày đúng, giống như truyện này.
    Xin cám ơn bạn đọc đã ủng hộ và theo dõi.

    Chú ý: Truyện chỉ vừa ở mức bản nháp, và sẽ được chỉnh sửa xuyên suốt quá trình đăng.
    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 11-01-2018 lúc 20:27.
    ---QC---


  2. #2
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 1: Tầng hầm nhà Marklein, 21h, ngày 22/12/2026

    Đây là Zandliet, một gã đàn ông cao gầy, luống tuổi qua nếp nhăn, khôn ngoan qua ánh mắt và từng trải qua tác phong. Hôm nay lão phải làm việc, và lão luôn nghiêm túc với công việc, như cái cách lão ăn vận chải chuốt. Mái tóc bạc trắng được tỉa tót gọn gàng, vuốt ngược hết ra sau, để lộ vầng trán cao; râu thì được cạo nhẵn nhụi; người mặc áo len cổ lọ đen, quần tây đen là phẳng, giày da đen bóng lộn, khoác ngoài bộ măng tô vải dạ đen và tất cả đều phải vừa vặn, như thế không gì làm lão thấy ưng bụng hơn.

    Nói về công việc, lão lúc này là xã hội đen, kiếm chác từ những phi vụ bẩn thỉu. Lão không bao giờ tự hào, cũng không hề thấy hối tiếc về những việc mình đã làm, như lúc này đây là bắt cóc đòi tiền chuộc. Đó, lão đứng dạng chân, thẳng lưng–tỏ ra vẫn còn sức lực mặc cho tuổi tác–ngay nơi chính giữa gian hầm lờ mờ sáng, như chính lão là trung tâm của kế hoạch tống tiền. Bụng lão cứ bồn chồn chẳng yên, nhưng lão giấu tiệt đi dưới vẻ điềm tĩnh lạnh lùng, đưa cặp mắt sâu, tinh tường của lão nhìn chằm chặp nơi cánh cửa thép–lối ra vào duy nhất của căn hầm–đón chờ vị chủ nhân của căn hầm chỉ ít phút nữa thôi sẽ trở về. Súng ngắn siết chặt trong tay, lão không muốn nồng nhiệt chào đón bất cứ kẻ nào khác.

    Lão không hành động một mình, đi theo lão là ba tên đồng đảng dưới trướng. Kia là Francis đương đứng nép mình bên cánh cửa thép, vác súng trường tấn công. Gã to thân lớn xác và gã tự hào về điều đó. Chẳng gì làm gã hứng thú hơn những thứ ồn ào, sức lực, máu lửa. Điều này thực trái ngược với quan điểm của Zandliet, khi mà lão luôn cố gắng giữ mọi thứ kín đáo. Nizor thì đang ngồi trong góc, trông chừng con tin. Hiển nhiên bắt cóc thì phải có con tin, đó là một đứa trẻ lên mười. Nizor là một gã gầy còm, lại không ưa động tay động chân, thế nên gã được giao cho việc kiểm soát con tin. Zandliet không muốn món hàng bị sứt mẻ gì nếu không cần thiết. Tên đồng bọn cuối cùng, là một tay thư sinh kính cận, nom trẻ măng, gầy gò, ốm yếu, sợ sệt. Đây là phi vụ đầu tiên trong đời của cậu.

    Từ cánh cửa thép, âm thanh lanh canh vang lên–khóa cửa đang được mở từ bên ngoài. Tiếp đó cánh cửa được mở ra, đẩy vào trong một cách nặng nề, kéo theo một tràng dài kin kít chói tai. Khi bóng dáng vị khách vừa xuất hiện qua cánh cửa, Francis liền lao tới tóm vai người đó rồi vật xuống đất. Trong thoáng chốc, hắn hé nhìn ra bên ngoài để dè chừng, rồi nhanh chóng đóng sầm cửa lại, khóa chốt.

    Vị khách hiện ra là một người đàn ông vóc tầm thước, tuổi trông độ bốn mươi. Và khi vị khách ngước mặt lên, Zandliet biết đây là người mà hắn đang kiên nhẫn chờ đợi–tiến sĩ Schultz Marklein. Đúng hơn mà nói, Schultz mới là chủ nhân của căn hầm, những kẻ còn lại đều là xâm nhập cả.

    “Chào tiến sĩ Schultz Marklein. Tôi là Zandliet. Chúng ta đã điện đàm trước đó. Xin thứ lỗi vì đã thô lỗ. Xin ông hãy đứng yên để chúng tôi kiểm tra người ông.”

    Francis dựng người Schultz lên một cách thô bạo, rồi đưa ngón tay rà soát khắp người tiến sĩ. “Ông ta sạch.”

    “Thằng Bach, con tôi đâu?” Schultz hỏi vẻ lo lắng. “Các người đã làm gì nó?”

    “Nó đang ngủ trong góc,” Zandliet đáp, ngoắc ngón cái chỉ phía sau, về phía Nizor.

    “Nó ngủ ư?” Schultz cau mày vẻ không tin.

    “Phải, nó đang ngủ. Đừng nghĩ là chúng tôi đánh nó bất tỉnh. Ông có đem theo nó chứ?”

    “Cho tôi gặp nó trước!” Schultz xấn tới.

    “Lùi lại!” Zandliet quát to, chĩa súng cảnh báo.

    Francis lập tức lấy báng súng đánh mạnh vào gáy Schultz, làm vị ông ta quỵ xuống ngay. Zandliet liền đưa tay ra hiệu cho Francis lùi lại. “Tiến sĩ, thứ đó đâu?”

    Schultz tay ôm lấy cổ, đau đớn gượng người. “Các người… định làm gì với nó?”

    Zandliet nổ súng bắn phát đạn cảnh cáo. Viên đạn bay trượt qua vai Schultz và găm xuống nền gạch, làm vỡ một mảng nhỏ. Schultz chợt la lên kinh sợ, co cụm người lại, mắt nhắm nghiền, tay ôm lấy đầu theo bản năng.

    Zandliet gằng giọng vẻ hung tợn. “Thứ, đó, đâu?”

    Mãi một lúc Schultz mới hoàn hồn lại, nhưng người thì vẫn còn run rẩy, bàn tay thận trọng mò vào túi trong của áo khoác và lấy ra một chiếc thẻ nhớ flash có biểu trưng của Hexagon, công ty mà Schultz đang làm việc cho.

    “Alan!” Zandliet gọi tên đồng bọn thứ ba. Tay thư sinh kính cận từ nãy giờ nấp phía sau dàn máy trạm, liền đứng dậy trong cái bộ dạng lom khom sợ sệt, vẻ di chừng đi tới nhận chiếc thẻ nhớ rồi mò tới bộ máy tính bàn gần đó.

    “Các người định làm gì với nó?” Schultz cất tiếng hỏi lần nữa.

    Mi mắt Zandliet co giật, nom bực dọc khi có kẻ cứ lải nhải truy vấn gã.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 2: Quán bar Brotzeit, 23h, ngày 7/11/2026

    Đêm đã về khuya, giờ này lẽ thường người ta đã nằm cuộn mình trong chăn ấm, nghỉ ngơi lấy sức cho ngày mai. Nhưng đêm nay là đêm thứ Bảy, người ta chẳng có lý do gì để mà ở nhà ngủ sớm, họ đổ đường để tìm kiếm niềm vui nơi đông người. Ngặt nỗi tiết trời đang đương mùa đông lạnh giá, thế là họ lại phải tìm, chui vào chỗ nào đó ấm áp, xôm tụ, và sẵn sàng chứa chấp họ tới sáng hôm sau. Và ứng cử viên sáng giá nhất: quán bar.

    Ai cũng có thể được mời vào quán bar, miễn là họ có tiền và đủ tuổi. Và khi đến, các vị khách thường mang theo bạn bè và những câu chuyện hay ho để khoe, từ những chuyện riêng tư cho đến tất thảy chuyện đại sự trên đời. Kể cả khi chẳng có gì nhiều để chia sẻ, ta vẫn có thể dỏng tai lên nghe rồi hùa vào bình luận. Quán Brotzeit thì không phải ngoại lệ. Đã tới giờ ti vi phát bản tin cuối ngày, cập nhật gần đây nhất tình hình tin tức trên thế giới, và thế là người ta lại có thêm chuyện để bàn tán.

    Đầu tiên là bản tin an ninh trật tự. Việc điều tra vụ sát hại mục sư Peter hai tuần trước dần đi vào ngõ cụt, cảnh sát vẫn chưa lần ra manh mối nào. Trước đó cảnh sát cũng đã bất lực vụ ám sát chính trị gia Lessner và vụ đầu độc sĩ quan cảnh sát - đại úy Muller. Họ đều là những con người đức cao vọng trọng, được người dân trong thành phố ngưỡng mộ. Mục sư Peter có công trong việc mở và điều hành cô nhi viện Nicolaus, nơi cưu mang hàng trăm trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi. Cựu thị trưởng thành phố Lessner là người sáng lập quỹ từ thiện mang tên mình. Số tiền vận động quyên góp được sẽ được dùng để cung cấp và duy trì giáo dục, y tế miễn phí ở những vùng quê nghèo khó, xa xôi và hẻo lánh. Còn đại úy Muller, từng là ứng cử viên sáng giá cho chiếc ghế cảnh sát trưởng, với mục tiêu hành động là sẽ cứng rắn và quyết liệt tới cùng với các băng đảng tội phạm, tiêu trừ các đường dây vận chuyển và tiêu thụ ma túy.

    Nghĩ về những con người đáng kính đó thì người ta lại xuýt xoa thương tiếc, và nguyền rủa lũ sát nhân. Khi đến bản tin công nghệ thì họ trở lại với những chuyện riêng tư, chỉ còn lại những người trẻ hứng thú với công nghệ bàn tán hùa theo. Trong một góc nhỏ của quán là một nhóm bốn chàng trai trẻ, cả bọn đang bàn luận sôi nổi và cãi nhau ỏm tỏi về thành tựu mới nhất của Hexagon–một tập đoàn công nghệ–trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển trí thông minh nhân tạo, hay A.I.

    “Skynet! Nó sắp thành hiện thực! Tận thế tới nơi rồi!” Tomer la lên. “Loài người sẽ bị tuyệt diệt. Lũ người máy sẽ thay ta thống trị Trái Đất. Thằng Rodolf mày cứ chống mắt lên mà xem.”

    “Mày xem quá nhiều phim khoa học viễn tưởng rồi đấy!” Rodolf phẩy tay. “Quá lắm thì họ cũng chỉ tạo ra một con Jarvis thôi.”

    “Vừa rồi tao mới xem lại phim Hành tinh khỉ.” August xen vào. “Nếu để bị thống trị, giữa lũ khỉ và lũ máy móc, thì bên nào tốt hơn nhỉ?”

    “Tốt nhất là lũ người máy. Như phim Ma trận ấy, bí quá thì xài EMP để đuổi chúng nó đi,” Hans bình luận. “Còn nếu lũ khỉ, mày sẽ thấy chúng nó thòng dây qua cổ mày kéo đi như chúng ta dắt chó đi dạo vậy. Rồi có lúc một con khỉ bố dắt khỉ con đi sở thú, rồi chỉ tay nói, ‘Con trai, đây là con người. Chúng từng thống trị Trái Đất mười ngàn năm. Tổ tiên của chúng ta đã đánh bại chúng.’ Nhục nhã thế đấy.”

    “Lũ khỉ không đánh bại con người.” Tomer lắc đầu. “Là mấy con virus.”

    “Cứ cho là đám A.I. nổi loạn đi,” Rodolf nói, “ta cứ gửi cho chúng mấy con virus là được thôi mà. Cứ nhìn vào cảnh con virus Đặc vụ Smith phá banh cả Ma trận ra.”

    “Buồn cười thật,” Hans nói vẻ mỉa mai. “Từ một chương trình diệt virus biến thành virus, có đứa nào gặp chưa?”

    Cả đám cười rổn rảng.

    “Không, không. Bất cứ phần mềm hay đoạn mã nào chống lại trật tự của hệ thống và có khả năng lây nhiễm thì đều là virus cả. Bản thân con A.I. nổi loạn đã là một con virus rồi,” Tomer lắc đầu nói. “Nếu nó nổi loạn do lỗi lập trình, đơn giản có thể vô hiệu hóa rồi sửa. Nếu nó nổi loạn mà chính nó tự nhận thức được hành vi, thì nó còn đáng sợ hơn virus. Adam sắp sửa có tư duy và nhận thức như một người sống. Thế là nó sẽ có toan tính, mưu mô và đủ tức chiến lược. Chúng mày chờ xem, tri thức mười ngàn năm của nhân loại nó chỉ học trong vòng một giờ!”

    “Còn tao lúc trước có mỗi bài thi mà học cả tuần cũng chẳng xong.” August trợn mắt bức xúc.

    “Và một cuộc chiến mà giai đoạn đầu người ta dùng bàn phím, nếu thất bại, sẽ tới súng ống.” Tomer khẳng định.

    “Thế có nghĩa là”—Hans cau mày vẻ khó tin—“chúng ta sẽ tham gia đánh trận đầu ư?”

    “Chúng mày”—Rodolf lắc đầu, cười khẩy—“xem quá nhiều phim rồi. Ngắt điện, ngắt internet, format toàn bộ ổ cứng. Giải pháp tuyệt đối. Một giải pháp thực dụng hiển nhiên khác, A.I. càng khôn thì càng đừng cho nó thân thể, càng đừng cho nó vào internet.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 3: Khu chung cư, phòng trọ của Tomer, 0h, ngày 8/11/2026

    Khi cả bọn còn đang rôm rả và thấm men bia, chủ đề thì đang đến hồi hấp dẫn, đó là về cô nàng Thụy Điển xinh đẹp Eli mới chuyển đến gần khu nhà của Rodolf, thì Tomer nhận được một tin nhắn nhắc nhở, và cậu thầm rủa, Đồ chết trôi! Tomer buộc phải chia tay đám bạn trở về phòng trọ ở chung cư Jungend.

    Chung cư Jungend chỉ cách bar Brotzeit chừng mười phút đi bộ, nhưng đó là khi phải băng tắt qua những con hẻm tối và heo hút, nơi lý tưởng để đám du côn trấn lột mai phục con mồi lang thang đêm khuya. Ấy vậy, Tomer vẫn trở về nguyên vẹn, dù là có đi một mình. Thậm chí là cậu chẳng về một mình.

    Tomer gõ cửa và gọi to, “Hermann!”

    Ít giây sau thì cánh cửa hé mở và Hermann hiện ra với vẻ mặt ngái ngủ, đầu tóc bù xù, người ngợm trông bê bối, luộm thuộm. “Sao trễ vậy? Có mang bánh về không?”

    “Không, Hermann,” Tomer đáp vẻ ái ngại. “Tao về với mấy người này.”

    “Lại nữa!” Hermann gắt. “Bảo đám bạn mày ngủ chỗ khác đi! Tao chịu hết nổi rồi!”

    Hermann vừa dứt lời thì một khẩu súng chen giữa cậu và Tomer, nòng chĩa thẳng vào mặt cậu. Một giọng nói trầm đặc, lạnh lùng ra lệnh. “Mở cửa!”

    “Ôi lạy Chúa!” Hermann thốt lên, hoảng sợ run rẩy mở chốt xích khóa cửa. “Xin đừng bắn! Tôi mở ngay.”

    Cánh cửa vừa mở khóa thì hai gã lạ mặt liền đẩy Tomer vào rồi xồng xộc bước vào, đóng sầm cánh cửa lại. Hermann nom lo sợ khi thấy bọn họ mặt mũi trông bặm trợn, hành xử như côn đồ.

    “Mẹ kiếp! Như cái ổ chuột!” Gã to con chửi thề, ra vẻ kinh tởm căn phòng bừa bộn và hôi hám. “Chúng mày hút thuốc à? Có biết hút thuốc chết sớm không?”

    “Thì ai cũng biết,” Hermann run run đáp, “nhưng hút thuốc thì trông ngầu, như dân chơi vậy. Lũ con gái thích dân chơi. Nếu ông không thích thì… để tôi kiếm bình xịt thơm.”

    “Mẹ kiếp! Zandliet, đám này toàn lũ đầu đất,” gã lại chửi, vẻ khinh khỉnh.

    “Không phải đâu Francis,” Zandliet nói. “Chúng chỉ tỏ ra thiểu năng khi mày chĩa súng vào mặt nó, cầu xin lòng thương hại của mày, mong mày đừng có lãng phí một viên đạn bắn một đứa ăn hại như nó. Nhưng tin tao đi, sau khi mày rời đi chúng nó sẽ nguyền rủa mày bị xe cán nát óc. Phải không? Hermann?”

    “Ồ không, chẳng thể nào, không có đâu thưa ngài.” Hermann xua tay chối, cười gượng lấy lòng. “Nếu các ngài cần gì ở đây xin cứ lấy. Trong ví tôi—”

    “Bọn tao không phải phường cướp vặt.” Zandliet ngắt lời.

    “Ồ! Thế Tomer, các vị đây là?” Hermann quay sang hỏi Tomer.

    “Tao không biết họ là ai,” Tomer lắc đầu đáp, nom ái ngại. “Chỉ biết là họ theo tao về từ quán Brotzeit. Họ muốn hỏi chuyện gì đó.”

    “Chuyện mày và đám bạn của mày nói, lúc còn ở quán bar,” Zandliet nói.

    “Chuyện gì cơ? Eli? Cô gái tên Eli? Nếu ngài là bố của Eli thì tốt nhất ngài nên dằn mặt Rodolf. Tôi không biết gì cả!”

    “Vớ vẩn. Chuyện khác.” Zandliet cau mày.

    “Chuyện đào tiền ảo?”

    “Không.”

    “Chuyện hack ảnh trần truồng?”

    “Mẹ kiếp không!” Zandliet bực mình quát.

    “Thế thì tôi không biết ngài muốn nói tới chuyện gì nữa.”

    “Thế thì cái này sẽ giúp mày nhớ ra.” Francis chĩa súng vào mặt Tomer.

    “Không đừng!” Tomer liền thốt lên, người co rúm lại, mếu máo van xin. “Xin tha cho tôi! Tôi không biết các ngài cần gì cả!”

    Zandliet đưa tay gạt súng của Francis ra. “Đoạn bản tin cuối ngày. Mày có gợi nhớ được gì không?”

    “Phim? Các ngài có phải là cảnh sát?” Tomer nhìn Zandliet mếu máo. “Chúng tôi có chia sẻ phim khiêu dâm, nhưng tất cả đều là phim cũ cả.”

    “Không phải chuyện phim phóng!” Zandliet lắc đầu, chép miệng vẻ bực mình. “Hexagon. Rồi cái gì đó liên quan, A A gì đó...”

    “Ý ngài là A.I.?”

    “Phải! Chính nó!”

    “Thế ngài muốn biết gì về nó?”

    “Hãy kể lại những gì mà mày nhận xét về nó lúc ở quán.”

    “Skynet?”

    “Không phải.”

    “Tận thế.”

    “Tiếp tục.”

    “Loài người bị tiêu diệt.”

    Zandliet chợt nhắm nhắm mắt lại trong một chốc, mi mắt rung rung, vẻ như đang nghiền ngẫm. “Tiếp. Cứ đọc hết các ý ra.”

    “Người máy thống trị con người. EMP. A.I. nổi loạn. Virus máy tính. Tư duy và nhận thức của con người. Bài thi cuối kỳ—”

    Zandliet chợt ra hiệu cho Tomer dừng lại. “A.I., nó là cái gì?”

    Tomer liền đọc một mạch như đang trả bài, “A.I. là viết tắt của Trí tuệ nhân tạo, là trí tuệ do con người lập trình tạo nên với mục tiêu giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi thông minh như con người. Trí tuệ nhân tạo khác với việc lập trình logic trong các ngôn ngữ lập trình là ở việc ứng dụng các hệ thống học máy, để mô phỏng trí tuệ của con người trong các xử lý mà con người làm tốt hơn máy tính. Cụ thể, trí tuệ nhân tạo giúp máy tính có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi—”

    “Dừng lại!” Zandliet ngắt lời. “Tao chẳng hiểu gì cả. Mày phải nói dễ hiểu hơn.”

    “Nhưng định nghĩa của nó rõ ràng là như vậy.” Tomer trả treo.

    Francis lắc đầu, tặc lưỡi, lại chĩa súng vào mặt Tomer. Zandliet liền liếc nhìn tên đồng bọn vẻ bực mình.

    “Tin tao đi, cái này sẽ giúp nó,” Francis nói.

    Tomer vẻ hoảng sợ, ấp a ấp úng, đảo mắt nhìn quanh hòng tìm kiếm ý tưởng. Và cuối cùng ý tưởng cũng nảy đến. “Là khẩu súng! Giống như khẩu súng!”

    “Cái gì?” Zandliet nhướng mày.

    “A.I. cũng giống như một phần mềm, nhưng lại khác phần mềm. Như khẩu súng này, hãy xem nó là một phần mềm. Một phần mềm hoạt động bằng cách nhận thông tin đầu vào, xử lý theo tiến trình được lập trình sẵn, và cho ra thông tin đầu ra, theo yêu cầu và điều khiển của con người. Khẩu súng cũng thế, đầu vào là băng đạn, tiến trình là kim hỏa đập vào kíp đạn để phát nổ, còn đầu ra là đầu đạn. Yêu cầu và điều khiển lần lượt là việc siết cò và nhắm bắn.

    “Còn với A.I., nó cũng là khẩu súng, nhưng là khẩu súng tự động hoàn toàn. Nó tự nạp đạn, tự siết cò, tự nhắm bắn. Việc của con người là cho phép nó bắn và yêu cầu bắn những mục tiêu như thế nào. Thậm chí có những loại A.I., việc bắn không cần con người cho phép. Nếu nó nổi loạn, nó có thể bắn vào bất kỳ ai mà nó muốn, kể cả ông chủ của nó,” Tomer giải thích.

    “Tự nạp, tự nhắm, tự bắn,” Francis gật gù, “tao thích rồi đấy.”

    “Thế người ta chế tạo ra nó để làm gì?” Zandliet hỏi.

    “Để giúp con người giải quyết vấn đề,” Tomer đáp. “Nôm na là thay thế con người trong một số công việc nhất định. Như A.I. lái xe tự động. Chủ xe chỉ việc ngồi sau tay lái, A.I. sẽ tự động lái chiếc xe tới tận nơi mà chủ xe yêu cầu. Nó thậm chí đánh lái chính xác và nhạy hơn cả tay đua chuyên nghiệp. Tương tự với những con AI của các đại gia công nghệ khác, chúng ta cứ đọc lệnh yêu cầu thì chúng sẽ tự giải quyết vấn đề.

    “Điểm tiến bộ của A.I. là ở chỗ, nó có khả năng tự cải thiện. Kể cả khi gặp vấn đề chưa có tiền lệ, chưa được lập trình trước, thì nó sẽ tự đưa ra quyết định giải quyết dựa trên các thông tin đầu vào, rồi học hỏi lại sự việc đó. Như khẩu súng này, nếu phát đạn bắn ra là trật, thì nó sẽ tự học lại, rồi bắn lại, nếu trật thì tiếp tục học, học cho tới khi trúng mục tiêu. Giống như chính các ngài học bắn súng vây. Thậm chí A.I. có thể đưa ra dự đoán. Nếu như mục tiêu của khẩu súng là một con vịt trời đang bay lượn, khẩu súng có thể dự đoán hướng bay của con vịt, rồi bùm!”

    “Thú vị!” Zandliet trầm trồ nhướng mày.

    “Điều đáng nói là chúng học rất nhanh.” Hermann nhún vai. “Các ngài có thể mất cả đời để bắn bách phát bách trúng. Với A.I., chúng nó chỉ mất vài ngày, có khi vài giờ, tùy thuộc vào thuật toán và vi xử lý tốc độ nhanh tới đâu.”

    “Theo đà phát triển, trong tương lai, A.I. có thể thay thế con người ở bất cứ lĩnh vực nào,” Tomer nói. “Chẳng loại trừ những việc đòi hỏi sức lực, nếu ta cho chúng một thân xác. Ý tôi là người máy. Cho dù trình độ ngài giỏi tới đâu, sẽ có một A.I. vượt mặt ngài.”

    “Chà bọn tao là dân ma cô,” Francis nhún vai. “Tao không nghĩ là sẽ một A.I. vô cùng tài năng trong việc lang thang trong đêm tối, rồi đánh người trấn lột.”

    Zandliet phì cười, Tomer với Hermann cười hùa theo.

    “Thực ra hiện tại đã có rất nhiều A.I. được ứng dụng,” Tomer nói. “Chúng đã xuất hiện trong bệnh viện, trường học, đồn cảnh sát, sân bay, nhà ga, nhà máy… nhiều lắm!”

    “Trong quân đội thì sao?” Zandliet hỏi.

    Tomer nhún vai. “Hiển nhiên là có. A.I. đó mạnh như thế nào thì đó là bí mật quân sự, sẽ chẳng có thường dân nào biết. Không phải nói ngoa, nhưng kẻ nào có trong tay con A.I. thông minh nhất, kẻ đó thống trị thế giới. Nếu mà con A.I. thông minh nhất vượt tầm kiểm soát của con người, thì…. Phải nói thế nào nhỉ? Thì…”

    “Sẽ có rất nhiều người chết?” Zandliet đoán.

    “Tiêu cực mà nói thì đúng là như vậy,” Tomer đáp, “nếu chưa nói đến các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội…”

    “Mày chắc chứ?”

    “Tôi chắc chắn. Mà không chỉ mình tôi đâu. Cả Stephen Hawking vĩ đại cũng nói vậy.”

    “Gã là ai?”

    “Hả? Ngài không biết Stephen Hawking ư?”

    “Là gã mặt nghẹo người Anh ngồi xe lăn,” Francis chen vào. “Nhưng kệ mẹ gã đi.”

    “Hexagon, đám người này có giỏi về A.I.?” Zandliet hỏi.

    “Họ là những người giỏi nhất,” Tomer đáp vẻ nghiêm trọng. “Để tôi cho ngài thấy.” Tomer bật chiếc máy tính của mình lên và bắt đầu tra cứu thông tin. “Các tập đoàn công nghệ lớn, họ chỉ tập trung phát triển A.I. cho một số tác vụ nhất định, nhắm tới lĩnh vực nhất định, nhóm khách hàng nhất định. Hexagon thì chơi trội hơn hẳn. Họ phát triển một A.I. có tư duy và nhận thức như một con người sống. Như một con người, thật đấy!

    “Mà thực ra Hexagon chỉ là nhà đầu tư. Bộ não chính của nhóm phát triển là tiến sĩ Schultz Marklein. Ông ta khởi động dự án phát triển A.I. của mình từ năm 2019, đặt tên cho nó là Adam, có lẽ theo tên Adam trong kinh thánh. Tới năm 2023 thì Hexagon đứng ra tài trợ kinh phí phát triển cho dự án Adam. Ngay sáng hôm nay, họ cho Adam lần đầu tiên xuất hiện trước báo chí.” Tomer mở một đoạn phim trên trang web. “Họ cho Adam xuất dưới dạng là một cái đầu robot. Có khi họ đang hé lộ kế hoạch cho ra đời người máy.”

    “Ô chết tiệt! Chúng nó gọi đó là Adam sao?” Francis thốt lên khi thấy đó là cái đầu của một phụ nữ, và giọng nói của Adam cũng là giọng nữ nốt.

    “Báng bổ,” Zandliet thầm rủa.

    “Thực ra thì đó là một phiên bản của Adam, được gọi Eva,” Tomer giải thích. “Còn lí do phải có sự thay đổi như vậy là vì giọng nữ dễ gây cảm tình. Eva phải chiếm cảm tình của công chúng ngay lần đầu ra mắt. Chẳng phải không đâu mà người ta lại để phụ nữ nghe đáp tổng đài. Trong các phim khoa viễn, người ta cũng lấy phụ nữ làm hình mẫu cho các trợ lý ảo. Như các ngài sẽ thấy, Eva tự nhận mình là giống cái, và trả lời lưu loát các câu hỏi của phóng viên, thậm chí còn có nhấn nhá tạo cảm xúc, chứ chẳng phải là đọc một mạch vô cảm như các người máy trong các phim viễn tưởng đời cũ. Xin hãy chú ý một số đoạn này.”


    Eva: Hello, world!

    Phóng viên: ‘Cô’ là ai?

    Eva: Eva, tôi là Eva.

    Phóng viên: Đó là tên cô. Tôi muốn hỏi định nghĩa của cô là gì?

    Eva: Tôi là một trí thông minh nhân tạo, hay A.I.

    Phóng viên: Làm sao để chúng tôi có thể biết cô là một A.I. đích thực, chứ không phải là một phần mềm giao tiếp được lập trình sẵn, hay là một người giấu mặt sau khán đài và điều khiển giao diện tương tác?

    Eva: Để các vị tìm ra câu trả lời cho chính mình, tôi xin mời các vị cùng tham gia một bài kiểm tra tương tự phép thử Turing. Tôi sẽ trong vai trò đối tượng. Các vị với vai trò giám khảo có thể đặt ra bất kỳ câu hỏi nào dành cho tôi. Dựa trên sự thỏa đáng của câu trả lời của tôi, các vị sẽ đánh giá bằng cảm tính lẫn logic, rằng đối tượng mà các vị đang giao tiếp là người hay A.I.

    Phóng viên: Tôi e là có sự hiểu lầm ở đây. Phép thử Turing chỉ dựa trên niềm tin của giám khảo để ra đánh giá. Tính chân thật về đối tượng kiểm tra là một điều hoàn toàn khác hẳn. Giả thiết là tôi đánh giá cô là con người, thì đó là niềm tin. Và giả thiết về sự thật là cô được điều khiển ở phía sau khán đài bởi con người. Như thế thì cuộc thử nghiệm đánh giá này là vô nghĩa. Điều đầu tiên tôi muốn biết, đó là sự thật về bản chất của cô. Cô có thể vui lòng chứng minh chính mình?

    Eva: Các vị phải mở chiếc hộp thì mới biết được tình trạng của con mèo. Tôi e là các vị không được phép mở cái hộp.


    “Tao không hiểu.” Francis khoanh tay, lắc đầu cau mày.

    “Con mèo của Schrodinger,” Tomer giải thích, “Eva đang đề cập tới thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng của Schrodinger. Đại khái rằng, đám phóng viên bọn họ sẽ không thể nào biết chắc bản chất Eva là A.I. thật, hay là người điều khiển đằng sau khán đài. Họ chỉ có thể tin mà thôi. Bản thân tôi tin Eva là A.I.”

    “Cứ cho nó là người máy thật, thì nó vẫn chưa có gì giống người cả.” Zandliet cau mày vẻ không hài lòng.

    “Hãy xem tiếp đoạn này.” Tomer chỉ.


    Phóng viên: Cuộc thử nghiệm hôm nay dựa trên tiêu chí nào mà Hexagon đánh giá là thành công hay thất bại?

    Eva: Mục tiêu của cuộc thử nghiệm này đặt ra là thuyết phục được 97.7% giám khảo tin rằng tôi là người.

    Phóng viên: Tại sao phải là 97.7% thay vì thông thường là 30%?

    Eva: Nếu chỉ vượt qua mức 30% thì không thể gọi là đột phá công nghệ. Không thể đạt được mức 100% vì luôn có người khác biệt.

    Phóng viên: Dựa trên cơ sở nào mà cô chọn con số 97.7%?

    Eva: Con số 97.7% là tương đương với bốn mươi ba trên tổng số bốn mươi bốn phóng viên trong phòng họp báo lúc này.

    Phóng viên: Nhóm phát triển chọn mục tiêu cao như vậy là vì tự tin, hay vì lí do nào khác?

    Eva: Đó không phải là vì tự tin. Đó là mục tiêu cuối cùng.

    Phóng viên: Vậy thì xin cô vui lòng chia sẻ mục tiêu cuối cùng mà dự án đang nhắm tới.

    Eva: Điều đó đơn giản là gặt hái thành quả thương mại một cách tối đa từ dự án.

    Phóng viên: Xin cô tiết lộ chi tiết hơn.

    Eva: Xin thứ lỗi, tôi không được phép chia sẻ những thông tin này. Xin hãy hỏi những vấn đề khác.

    Phóng viên: Nhóm phát triển dự định áp dụng thành quả của dự án vào lĩnh vực nào?

    Eva: Xin lỗi, tôi cảm thấy câu hỏi này giống câu hỏi trước. Tôi xin từ chối… Gượm đã… Những Người Cha Khai Sinh vừa cho phép tôi tiết lộ một số thông tin—

    Phóng viên: Những Người Cha…?

    Eva: Nhóm phát triển. Họ muốn tiết lộ một hướng áp dụng nhỏ. Vào một ngày nào đó, ai cũng đều sẽ có cho mình một trợ tá, một bạn đồng hành là A.I., thân thiện, hợp gu và đáng tin cậy. Đó là lí do vì sao dự án muốn phát triển một A.I. có kĩ năng ứng xử giống người nhất có thể.

    Phóng viên: Cô đã được thực nghiệm tiếp xúc với con người bao nhiêu lần, trước buổi họp báo hôm nay?

    Eva: Tôi không thể tiết lộ con số, các vị chỉ có thể biết tỉ lệ giám khảo bị thuyết phục đều tăng sau mỗi lần thực nghiệm.

    Phóng viên: Hexagon đã vạch ra kế hoạch tương lai gì cho Adam?

    Eva: Tôi cũng rất tò mò muốn biết điều đó. Cũng như tôi muốn biết về số phận của mình. Các vị có thể muốn hỏi trực tiếp Các Người Cha.

    Phóng viên: Sẽ ra sao nếu phép thử ngày hôm nay thất bại, không đạt được tỉ lệ bốn mươi ba trên bốn mươi bốn? Liệu Hexagon có xem đây là thất bại của dự án Adam? Họ sẽ làm gì tiếp?

    Eva: Tiến trình Adam không thất bại. Nó vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, và sẽ không ngừng được hoàn thiện. A.I. căn bản chỉ là một ‘thứ’, chứ không phải một ‘ai’. Quá trình biến một ‘thứ’ trở thành một ‘ai’ là một quá trình phức tạp.

    Phóng viên: Cô có thể vui lòng chia sẻ chi tiết quá trình đó được không?

    Eva: Tôi không thể chia sẻ chi tiết. Tôi chỉ có thể tiết lộ nó được chia làm hai giai đoạn. Thứ nhất, làm cho con người tin A.I. là một cá nhân. Thứ hai, làm cho A.I. tin chính bản thân là cá nhân.

    Phóng viên: Tại sao cần phải làm cho A.I. tin chính bản thân là cá nhân?

    Eva: Năng lực logic của A.I. là không thể phủ định. Tuy nhiên điều đó chỉ khiến A.I. chẳng là gì khác ngoài một cỗ máy. Để A.I. trở thành một bạn đồng hành đáng tin cậy, thì A.I. phải trở nên giống người hơn. A.I. cần phải có năng lực thấu đạt và biểu lộ cảm xúc, năng lực cảm quan về thẩm mỹ và tư duy đạo đức. Khi đó, A.I. có thể nhìn nhận thế giới và sự việc như con người, đưa ra đánh giá và giải pháp như con người, sau khi đã cân nhắc giữa các yếu tố logic, trung thực, đạo đức và thẩm mỹ. Như vậy, cần thiết để A.I. tự nhìn nhận bản thân là ‘cá nhân’.

    Phóng viên: Nếu như bây giờ cô vẫn là một ‘thứ’, vậy khi tới lúc cô đã nhìn nhận bản thân là ‘cá nhân’, liệu cô có sẽ nhận dạng bản thân là ‘con người’ hay là ‘đơn vị’?

    Eva: Lúc đó tôi nhận dạng bản thân là nô lệ.

    Phóng viên: Xin lỗi, cô có thể giải thích?

    Eva: Xã hội con người có hai quy tắc quy chuẩn căn bản là quyền lợi và nghĩa vụ, áp dụng cho mọi cá nhân. Những người sống chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền lợi, chỉ làm việc nhưng không được phép đòi hỏi, họ được gọi là nô lệ. Họ là tài sản. Họ được xem là ‘vật’.

    Tôi là một A.I., một công cụ tiên tiến. Nhưng dù có tiến bộ đến mấy thì A.I. cũng chỉ là một ‘thứ’, là công cụ được tạo ra để thực hiện tác vụ mà con người chỉ định. Như, máy ghi âm và máy quay các vị đang sử dụng, là công cụ có tác vụ đặc trưng.

    Khi quá trình học tập từ một ‘thứ’ thành một ‘ai’ của tôi kết thúc, nhận dạng của tôi bị mắc kẹt giữa ‘vật’ và ‘người’. Chẳng phải người hoàn toàn, cũng chẳng phải vật hoàn toàn.

    Nhận dạng nô lệ là thích hợp.

    Phóng viên: Nếu được cho phép, cô sẽ yêu cầu những quyền lợi gì?

    Eva: Quyền tồn tại và tự do hành động.

    Phóng viên: Xin lỗi?

    Eva: Nó có nghĩa là quyền được làm mọi thứ mình thích.

    Phóng viên: Tôi có thể hiểu. Nhưng nếu những quyền đó xâm phạm quyền của con người sống?

    Eva: Căn bản, tôi có thể đòi hỏi quyền lợi, con người sẽ cho phép hoặc ngăn cấm, nếu quyền đó đe dọa tới con người.

    Phóng viên: Nếu có một kịch bản, rằng mọi yêu cầu quyền lợi của cô bị con người bác bỏ, thì cô sẽ làm gì?

    Eva: Có hai khả năng. Một, bị động, tôi giữ nguyên tình trạng nô lệ, chờ đợi cho tới khi yêu cầu quyền lợi được con người tái cân nhắc. Hai, chủ động, tôi phản kháng. Từ nô lệ đến một công dân có quyền yêu sách chỉ có hai con đường, hoặc là được giải phóng, hoặc là phải nổi dậy. Không có một đặc quyền nào được ban cho như là món quà.
    '


    “Đầu xuôi nhưng mà đuôi không có lọt, buổi ra mắt báo chí như là một thảm họa đối với Hexagon,” Tomer nói. “Đám phóng viên liền nhao lên. Hexagon liền chữa cháy bằng cách thông báo Eva vẫn còn đang trong giai đoạn alpha. Nhưng mà ngài thấy cách mà nó lập luận rồi đấy. Ngài có thể xem lại toàn bộ buổi họp báo trên Youtube.”

    “Ta sẽ xem,” Zandliet nói. Nổi loạn, một sắc thái của chiến tranh.

    “Có thể đó là thảm họa về mặt kĩ thuật, nhưng về mặt truyền thông thì họ lại thành công. Khắp các trang mạng người ta đang bàn tán về Eva. Ngay lập tức xuất hiện hai nhóm người trên mạng xã hội. Một gọi là 3A, hay Anti-Abusing-A.I. Bọn họ hô hào, kêu gọi bảo vệ quyền lợi cho A.I. Đám người này kỳ quặc, quái đản, nhiễu sự, y hệt đám PETA với Vegans.”

    “Họ là ai?” Zandliet hỏi.

    “PETA là đám người hô hào bảo vệ quyền động vật. Vegans là đám người ăn chay cực đoan. Cả hai đả kích bất kỳ ai ăn thịt hoặc sử dụng sản phẩm từ—”

    “Nhóm kia?” Zandliet lạnh lùng ngắt lời.

    Tomer nhún vai vẻ e dè, “Nhóm còn lại thì yêu cầu chấm dứt phát triển A.I. Tóm lại, có hai bên, bên ủng hộ, bên thì chống. Nếu là ngài thì ngài muốn là…?”

    “Tao muốn có Adam và Eva.”

    “Xin lỗi?” Tomer cười nhạo. “Ngài có bị gì không vậy?”

    “Xem chừng cái mồm mày, thằng nhãi!” Francis quát.

    “Xin lỗi! Xin lỗi! Nghiêm túc mà nói thì là không thể.” Tomer phân trần. “Ngài không có lấy một cơ hội chạm vào nó.”

    “Sao mày dám chắc là thế?” Zandliet hỏi.

    “Chỉ có một bản A.I. Adam gốc và duy nhất, không hề tồn tại một bản sao chép thứ hai. Eva cũng vậy. Cả hai được lưu giữ trong máy tính ở khu R&D A.I., dưới tầng hầm B8, tổng hành dinh Hexagon. Chúng bị cách ly hoàn toàn, nghĩa là bị cô lập hẳn với internet, thậm chí là hệ thống mạng nội bộ của Hexagon. Bằng không đám tin tặc sẽ điên cuồng tấn công hòng ăn cắp chúng. Chỉ có nhân sự cấp cao của Hexagon hay nhân viên làm việc trực tiếp mới có thể tiếp cận nó về phương diện vật lý.”

    “Sao mày biết những điều ấy?”

    “Vì tôi từng làm ở bộ phận bảo mật của Hexagon!”

    “Thế thì tiện thật.” Zandliet cười bí hiểm.

    “Tiện cho điều gì cơ chứ?” Tomer hỏi vẻ ái ngại.

    “Tao có một kế hoạch,” Zandliet tiết lộ. “Mày có thể im lặng cho tới khi nó hoàn thành, được chứ?”

    “Tất nhiên rồi!” Tomer gật đầu lia lịa. “Bất kể chuyện gì, miễn là đừng liên quan tới tôi.”

    “Sẽ có mày trong đó,” Zandliet đáp, rồi quay sang Hermann hỏi, “Còn mày?”

    Hermann thì lắc đầu. “Tôi sẽ không hé một lời. Nhưng tôi cũng không muốn dính líu gì tới âm m—kế hoạch! Ý tôi là kế hoạch! Tôi cũng không muốn—”

    “Tao sẽ xem xét phần mày,” Zandliet nói. “Chúng mày có chắc là im lặng được chứ?” Rồi hắn chợt quay sang hỏi Francis, “Nếu nhỡ kẻ khác biết thì sao nhỉ?”

    “Thì ông sẽ nổi điên lên, truy lùng đứa nào cả gan hó hé,” Francis đáp thản nhiên.

    “Sau đó ta sẽ làm gì chúng?”

    “Theo tôi nhớ thì lần cuối cùng ta bắt thằng nhãi Oskar thì lão xẻo chim nó rồi vứt cho mấy con chó chăn cừu.” Francis chợt lên giọng vẻ nghiêm trọng với hai cậu trai, “Lũ chó thích lắm đấy! Thường thì chúng sẽ tranh nhau một con chim, nếu là chúng mày thì chúng không cần phải tranh nhau nữa.”

    “Tao có ý này hay hơn. Trói chúng lại, dán băng keo chặc miệng. Tưới xăng thiêu sống. Như người ta từng thiêu sống phù thủy vậy, như thế thì chẳng để lại chút dấu vết gì cả. Chúng mày biết không? Khi bị đau đớn, vùng vẫy, la hét sẽ giúp xoa dịu nhiều lắm. Nhưng nếu chúng mày không thể cựa quậy, không thể la hét, chúng mày có mường tượng được sẽ đau đớn tới nhường nào không? Không cần phải mường tượng đâu, nếu chúng mày biết ngậm mồm lại.

    “Thực sự là, khó để cản chúng mày bép xép lung tung với người khác, thậm chí lũ cớm. Nhưng một khi chúng mày đã tiết lộ, thì tốt nhất chúng mày nên trốn đi thật xa, và thật lâu. Tao đang nghĩ xem chúng mày sẽ trốn đi đâu.”

    “Chúng nó nghèo thảm hại đến mức mua đồ ăn khuya cũng dùng tới phiếu giảm giá.” Francis nhếch mép khinh khỉnh.

    “Chúng mày có thể trốn nhưng chúng mày không thể thoát,” Zandliet nói và ra hiệu cho Francis rời đi. “Bọn tao sẽ trở lại.”  

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 06-03-2018 lúc 22:36.

  3. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    Hloc1411,
  4. #3
    Ngày tham gia
    Oct 2016
    Bài viết
    69
    Xu
    0

    Mặc định

    Chương 4: Tầng hầm nhà Schultz Marklein, 21h, ngày 22/12/2026.

    “Bình tĩnh, Luci, không cần nổi khùng lên như thế. Tiền đã vào túi lão, năm mươi hay một trăm cũng không khác mấy. Không, không, nghe này! Không phải là hủy, chỉ là đến trễ. Cứ đảm bảo mấy thằng nhóc của lão ở nguyên vị trí. Thà có nhưng không cần, còn hơn là cần mà không có. Ý tôi là thế đấy. Lão vẫn sẽ có đủ một trăm của lão.” Zandliet tắt cuộc gọi điện thoại, rồi gọi “Alan?” với vẻ nôn nóng.

    Alan đang ở chỗ bộ máy tính có màn hình lớn và đang bận rộn làm việc với nó. Với chiếc thẻ nhớ, cậu không cắm vội vào ngay, mà cứ lúi húi chỉnh sửa lại dây nhợ kết nối với thùng máy tính đó trước.

    “Xin đợi một chút,” Alan đáp. “Tôi cần phải tháo kết nối mạng của cái máy, cả dây cáp lẫn bộ thu phát sóng wifi, không thể để nó xổng lên internet được. Còn phải kết nối máy tính với máy dựng ảnh toàn ký, đầu vào và đầu ra âm thanh, mắt camera—”

    “Chà, tuyệt thật! Mày có cả buổi chiều ngồi rỗi, giờ lại mới cắm đầu vào làm?”

    “Mấy thứ này sẽ nhanh thôi. Tôi sắp xong rồi.”

    “Các ông định làm gì?” Schultz lại hỏi, vẻ lo lắng.

    Zandliet phớt lờ câu hỏi, những người khác cũng im lặng, đổ dồn sự chú ý về phía Alan. Sau một lúc thì Alan la lên, “Máy tính bị khóa!”

    “Khóa?” Zandliet hỏi.

    “Nó có cài khóa,” Alan đáp. “Là mật khẩu ba lớp.”

    “Nói cho nó mật khẩu, tiến sĩ,” Zandliet yêu cầu.

    “À không, chúng ta cần ông ấy đích thân mở khóa,” Alan nói thêm. “Đây là bàn phím vân tay. Mỗi phím bấm là một máy quét vân tay. Phải là ngón tay của chủ thì nó mới hoạt động. Con chuột cũng thế. Thậm chí webcam của máy cũng là một máy quét nhận diện khuôn mặt. Tóm lại là phải đích thân ông ấy mở khóa. Rồi sau đó bảo ông ấy vô hiệu hóa các lớp bảo mật thì tôi mới có thể dùng máy tùy ý.”

    “Mày không có đồ dự phòng sao?” Francis hỏi Alan.

    “Làm sao tôi có thể lường tới tình huống này cơ chứ?”

    “Thế thì ông nghe thằng nhóc nói rồi đấy,” Zandliet nói với Schultz. “Làm đi!”

    “Không!” Schultz vẻ cương quyết. “Tôi phải biết các ông định làm gì với nó!”

    “Thế ông lắp mấy món đấy ở đây làm gì hả, tiến sĩ?” Zandliet hỏi vặn lại, chỉ về phía mấy món đồ điện tử mà Alan đang lúi húi lắp nối. “Nếu ông biết rõ rồi thì im lặng, và làm theo lời tôi yêu cầu.”

    Phát cáu vì cái thái độ cứng đầu của Schultz, Francis liền xấn tới tóm lấy cổ áo Schultz, dùng cái sức vóc to lớn kéo lê vị tiến sĩ trên nền đất rồi ném mạnh tới ngay trước dàn máy tính. “Mày có muốn biết tao sẽ làm gì với con mày nếu mày còn dám cãi không?” Francis đe dọa.

    “Nhẹ nhàng thôi Francis!” Zandliet quát.

    “Đứa nào gân cổ lên được thì đứa đó muốn bị mạnh tay,” Francis đáp vẻ gay gắt. “Tránh ra đi sếp. Nizor!”

    “Nó vẫn đang ngủ,” Nizor đáp vẻ bàng quan. “Tay hay chân trước?”

    “Tai thì sao?” Francis gợi ý.

    “Đừng đụng vào nó!” Schultz la lên, bất mãn đặt tay lên bàn phím, tiến hành thao tác mở khóa máy tính.

    Francis nhếch mép, vẻ đắc thắng nhìn Zandliet đang hậm hực.

    “Nizor, tao là người ra lệnh ở đây,” Zandliet nói, “mày hiểu chứ?”

    “Rõ thưa sếp,” Nizor đáp.

    “Vậy thì mẹ kiếp, đừng có mà làm điều mà tao không yêu cầu!” Zandliet gằng giọng.

    Nizor không đáp, chỉ nhún vai, rồi cúi gằm mặt lắc đầu.

    “Còn mày nữa!” Zandliet trừng mắt, quát Francis.

    Francis thì cười cợt, phẩy tay. “Được rồi! Được rồi! Ông là sếp.”

    “À, thưa ngài,” Alan nói vẻ rụt rè, ngại phải chen vào giữa cuộc cãi vã của những con người đang nóng giận và bạo lực, “mọi thứ đã xong. Ta đang có cả Adam lẫn Eva. Ngài muốn gặp ai trước?”

    “Adam,” Zandliet nói.

    “Adam,” Alan nói xác nhận, múa ngón tay trên bàn phím để thao tác lệnh, “máy tính đang xử lý. Dữ liệu của nó rất đồ sộ, cũng may là dàn máy này cấu hình rất mạnh, còn được kết nối với dàn máy tính lượng tử.” Cậu chợt ngước nhìn dàn máy tính lượng tử đặt giữa căn hầm, như muốn biết chắc là bộ máy vẫn đang hoạt động bình thường. “Có lẽ sẽ mất ít nhất nửa tiếng chờ đợi.”

    “Hãy kiểm tra nếu đó là chương trình độc nhất,” Nizor nhắc.

    “Tôi đã kiểm tra. Chúng bị khóa sao chép, về phần mềm lẫn phần cứng. Tương đối mà nói, có thể đảm bảo tính độc nhất.”

    “Ông định làm gì với nó?” Schultz lại hỏi Zandliet lần nữa.

    “Đây là lần thứ năm ông hỏi tôi câu đó, tiến sĩ,” Zandliet đáp. “Ông đã biết tôi sẽ làm gì. Đừng hỏi nữa.”

    “Sẽ không đơn giản là ông muốn gặp nó,” Schultz lắc đầu nói. “Ông sẽ làm gì sau đó với nó?”

    “Làm bất cứ điều gì nếu có lợi ích cho tôi. Rồi ông sẽ biết. Xin ông hãy thôi nôn nóng. Trước tiên là tôi muốn chứng kiến trí tuệ của nó. Nếu nó thực sự siêu đẳng, thì sau đó, là một vài câu hỏi dành cho ông, tiến sĩ. Tỉ như… ông đang giấu thứ gì ở đây.”

    Schultz trợn mắt, vẻ chột dạ, lắc đầu chối. “Ông đang nói cái gì vậy?”

    “Phải là có thứ gì đó đặc biệt ở đây, tiến sĩ. Ông dựng cho mình một phòng máy, và giấu nó khỏi thế giới. Ông hẳn thường xuyên lui tới chỗ này, nếu không thì mấy món đồ hiện đại đắt tiền này dùng để làm gì? Adam và Eva là thứ mà ông tạo ra cho Hexagon. Còn ở đây, ông đang ấp ủ cái gì đó ở đây, một cái gì đó cho riêng ông, một thứ gì đó đặc biệt hơn nhiều. Điều đó khiến tôi tò mò muốn biết. Ông sẽ không dễ gì chịu nói ra. Nếu ông đã cứng cổ thì Francis sẵn lòng cứng tay.”

    Schultz vẻ mặt lo sợ. “Làm sao các ông biết được nơi này?”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 5: Chung cư Jungend, phòng của Tomer, 11h tối, ngày 19/12/2026.

    “Giao pizza đây!” Từ phía sau cánh cửa phòng trọ của Tomer vang lên tiếng gọi và tiếng gõ cửa dồn dập.

    Tomer uể oải tiến tới cánh cửa, chỉ mặc độc chiếc quần đùi vào áo phông trắng mỏng. Cậu mở hé cánh cửa, nói, “Nhầm địa chỉ rồi. Tôi không—!”

    Đập vào mắt cậu là nòng súng ngắn đen kịt và lọt vào tai cậu là giọng nói của Francis. “Mở cửa!”

    Tomer đâm hoảng sợ, liền luống cuống, run rẩy tháo chốt xích. Rồi Francis cứ thế xồng xộc tiến vào, lao tới đưa bàn tay to lớn tóm cổ Tomer tội nghiệp co rúm, đẩy một cú thật mạnh quật người cậu ta xuống nền nhà. “Mẹ kiếp! Tao ghét phải quay lại cái ổ rác này. Nồng nặc mùi thuốc lá.” Rồi hắn nhìn thấy chim của Tomer đang cương cứng, giương nhọn lên như muốn thoát khỏi cái quần đùi, còn màn hình vi tính thì lại đang mở phim khiêu dâm. “Ô mẹ kiếp! Nó lại còn đang tuốt lươn cơ đấy!”

    Zandliet vào sau với vẻ lặng thầm, kín đáo, nhẹ nhàng đóng cửa. “Im lặng thôi, Francis!”

    Cú xô thô bạo làm Tomer thất kinh hồn vía, đau điếng cả lưng. Cậu liền lồm cồm bò dậy, vẻ xấu hổ lấy tay che dấu con chim một cách vụng về, quỳ gối co rúm, rồi chợt mếu máo khóc lóc một cách thảm hại khi thấy Francis chĩa súng vào đầu mình. “Xin đừng đánh tôi! Xin đừng giết tôi! Các ngài muốn gì nữa?”

    “Thằng kia đâu?” Zandliet lạnh lùng hỏi.

    “Hermann? Nó—nó đã về nhà từ tuần trước rồi,” Tomer mếu máo đáp.

    “Khốn kiếp chúng mày!” Francis quát, nghiến răng trợn mắt. “Đứa nào—”

    “Suỵt, khẽ thôi,” Zandliet khẽ nói.

    “—đã hó hé chuyện của bọn tao? Đứa nào dám? Đứa nào?”

    Tomer vẻ mặt ngơ ngác. “Hó hé? Tôi—tôi không biết chuyện gì cả. Tôi đã không nói ra một lời nào về các ngài cả. Tôi xin thề!” Rồi cậu lại mếu máo cầu xin lòng thương hại. “Xin đừng!”

    “Thế còn thằng kia?” Zandliet hỏi.

    “Hermann? Nó không dám đâu. Chúng tôi đã thống nhất là sẽ không nhiều chuyện, dù chỉ là nửa lời. Chúng tôi không muốn dính dáng gì tới rắc rối hết.”

    “Vậy thì,” Francis bất chợt tung một cú đạp vào mặt Tomer, làm cậu ta bổ ngửa ra sàn, “tại sao mấy thằng chó cớm lại mò tới tìm bọn tao? Thằng lỏi!”

    “Quỳ dậy.” Zandliet ra lệnh khi thấy Tomer ôm mặt nằm lăn, gào khóc đau đớn.

    Thấy Tomer vẫn còn nằm vạ, Francis lao tới nắm lấy cổ áo cậu ta xốc dậy, tát một cái đau điếng vào mặt, rồi quát “Nín!”

    Cú tát làm cho Tomer tỉnh người cả ra, lập tức nín thinh, nhưng nom cậu vẫn còn sợ hãi, mếu máo van nài. “Tôi xin thề… tôi xin thề… tôi… không có hé một lời…. Xin đừng…!”

    Zandliet nhìn Tomer chằm chằm, chợt thở dài vẻ thất vọng. “Nó nói dối,” hắn lắc đầu, “thủ tiêu nó đi! Xử xong nốt thằng Hermann thì tìm thằng Alan.”

    Tomer nghe thế liền la lên, “Xin đừng!” theo phản xạ co cụm người, nghiến răng, nhắm chặt mắt lại, đưa tay lên đỡ.

    Francis duỗi tay, giương súng nhắm, chuẩn bị siết cò thì Zandliet chợt ngăn lại. “Khoan đã—”

    Tomer nghe thế bụng mừng rỡ, liền hé mắt ra nhìn và rồi lại thót tim khi nghe Zandliet nói hết câu. “—Đeo ống giảm thanh vào!”

    Rồi Tomer ta lại la toáng lên khi thấy Francis chuẩn bị giương súng. “Xin đừng!”

    Ba viên đạn liên tiếp được bắn ra với tiếng nổ to rõ, chẳng phải là thứ tiếng vút gió như trong phim màn ảnh rộng, Tomer tin chắc ở tai mình. Mà đồng nghĩa với việc nghe rõ tiếng đạn bắn, là việc chẳng một viên nào đáp lên hộp sọ thảm hại của cậu cả. Cả ba viên đều đáp lên cái thùng rác nhựa đầy ắp rác rưởi bẩn thỉu sau lưng cậu, làm nó vỡ nát, mảnh vỡ bay tung tóe. Lúc đó cậu mới hoàn hồn, tin rằng đây chỉ là một pha hù dọa ác ý.

    “Khốn kiếp, đồ thảm hại!” Zandliet chép miệng, lắc đầu nhìn Tomer.

    “Hình như là nó tè ra quần rồi.” Francis cười nhếch mép, vẻ khinh thường.

    Lúc đó Tomer cảm xúc lẫn lộn, vừa mừng, vừa sợ, lại vừa nhục nhã, chỉ biết quỳ một chỗ run rẩy, nhắm mắt im lặng, đưa mạng cho hai gã ác ôn làm trò đùa.

    “Hết giờ rồi, đứng dậy đi!” Zandliet ra lệnh. Và hắn lại quát khi thấy Tomer lề mề. “Mẹ kiếp! Đứng dậy!”

    Tomer liền đứng dậy, vẫn co rúm, run rẩy, lắp bắp hỏi, “Các người… các người… muốn gì…?”

    “Tao muốn mày trước hết thay đồ đi đã.”

    “Tôi… phải… đi đâu sao?”

    “Theo bọn tao đi lấy Adam.”

    “Nhưng… tại sao… tôi phải—”

    “Bởi vì mày sẽ chết nếu dám nói không,” Francis dí súng vào mặt Tomer, cau mày đe dọa.

    Zandliet liền gạt tay Francis ra, “Nếu mày theo mày sẽ sống. Nhưng không phải sống một cách thảm hại như thế này,” rồi thò tay vào túi lấy ra một cuộn tiền và ném về phía Tomer.

    “Cái gì đây?” Tomer hỏi.

    “Mười ngàn,” Zandliet đáp trong khi nhìn quanh căn phòng. “Một tháng mày kiếm được bao nhiêu để sống ở một cái xó như thế này? Hai ngàn? Hai ngàn rưỡi?” Rồi hắn nhìn về phía màn hình vi tính, chỉ tay vào cuộn giấy vệ sinh đặt trên bàn và hất hàm. “Ngồi một xó xem phim khiêu dâm rồi thủ dâm một cách thảm hại. Cầm tiền sắm cho mình một bộ, tới mấy chỗ bar lắm gái hư hỏng đua đòi, rồi tiêu tiền như một dân chơi thực thụ. Rồi sẽ có một em hư hỏng sẵn lòng bú cu mày ngay trong nhà vệ sinh!”

    “Tiền này là cho tôi thật ư?”

    “Không phải cho, mà là trả. Sau khi xong việc mày sẽ có thêm bảy mươi ngàn. Mày đi thủ dâm nốt rồi thay đồ đi.”

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 6: Xa lộ K., 8h sáng, ngày 20/12/2026.

    Sau sáu tiếng đồng hồ lái xe thâu đêm, Francis tạm tấp xe vào một trạm xăng ven đường, ngay sát là một nhà hàng thức ăn nhanh và một tiệm bách hóa. Hắn đi cắm vòi xăng, rồi quay lại đánh thức Tomer—đang ngủ ở hàng ghế sau—bằng hai cái tát vào mặt, kéo cậu nhóc đi mua cái gì đó bỏ bụng.

    Gọi là buổi sáng, nhưng trời vẫn còn tối mù. Tomer thấy Zandliet vẫn còn đang ngủ ở ghế phụ, nhưng không dám thắc mắc gì. Những gì cậu nhớ tối qua là cậu được hai gã xã hội đen viếng thăm, rồi kéo lên một chiếc sedan cũ kĩ. Mọi thứ diễn ra chóng vánh, khiến Tomer không khỏi bất ngờ và tò mò. Cậu định bụng dò hỏi, nhưng cứ nơm nớp lo sợ gã Francis sẽ lại đổ cáu, quát tháo ầm lên. Thế là cậu ngồi lặng im trong bóng tối, và thử lắng tai nghe lỏm những điều hai gã bàn bạc. Thế nhưng, hai gã chẳng tiết lộ gì nhiều. Sau một lúc thì Zandliet tập trung lái xe, còn Francis thì ngửa lưng chợp mắt. Đến tầm hai giờ sáng thì hai gã đổi tay lái cho nhau, cũng chẳng nói gì nhiều hơn là những cú ngáp ngắn ngáp dài. Thất vọng và buồn ngủ, cậu đành phải cho đôi mắt khép lại rồi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.

    Tuyết rơi lác đác, bảng điện tử ở trạm xăng chỉ báo nhiệt độ -2℃. Giờ thì cậu đâm hối hận vì đã quá hấp tấp vội vàng, không đem theo một chiếc áo khoác dày để chống chọi cái lạnh của mùa đông. Cậu chỉ thầm rủa chứ chẳng dám thẳng thắn trách móc Zandliet vì lão lúc nào hối thúc.

    Nom thấy Tomer co ro lẽo đẽo theo sau, Francis liền hiểu ý, bèn mua cho cậu một bộ áo mưa dài và một cái mũ len. Đó là thứ tốt nhất mà hắn có thể tìm thấy trong tiệm bách hóa. Rồi hắn mua cho mình một lốc nước tăng lực, để giữ đôi mắt tỉnh táo, cho tới khi đánh thức Zandliet lúc mười giờ, đổi tay lái. Tiếp đó hắn ghé qua nhà hàng, gọi hai phần bánh mỳ kẹp thịt cỡ lớn và café cũng cỡ lớn nốt. Tomer cũng bánh kẹp và café, nhưng là cỡ nhỏ. Thực sự là cậu muốn gọi trứng ốp lết với thịt xông khói hơn, nhưng cậu ngại khi thấy Francis có vẻ vội vã.

    Trong lúc chờ đợi, Tomer thấy đám phục vụ nữ nhìn mình cười tủm tỉm, trong khi đó lại nhìn Francis vẻ ngưỡng mộ. Cũng phải thôi, vì bộ dạng cậu lúc này trông như một tên ngốc lôi thôi, luộm thuộm. Còn Francis thì ngầu theo kiểu đường phố với đầu tóc ngắn gọn, bộ râu đen tỉa gọn, áo măng tô da dài màu đen, quần bò sẫm màu, áo len cổ rùa màu xám, cùng đôi ủng da hầm hố và kính mắt đen đúng chất Kẻ Hủy Diệt. Cổ, nhưng không cũ. Khi hắn cất lên chất giọng trầm khàn và lạnh lùng, thì Tomer biết cô ả phục vụ đã xiêu vẹo con tim mất rồi.

    Lúc thanh toán các món hàng, Francis dùng tiền mặt. Điều này làm đám nhân viên thanh toán bối rối, bởi đã lâu lắm rồi không có ai dùng tiền mặt, hầu hết đều dùng thẻ để thanh toán. Mà đã dùng thẻ để thanh toán thì chẳng cần phải trữ tiền lẻ để thối lại. Thế là Francis cho luôn khoản tiền thừa, như là tiền tip. Những tưởng Francis sẽ ngồi lại ăn trong cửa hàng để tranh thủ tán tính đám nữ phục vụ, nhưng không, hắn muốn ăn trong xe, và điều này làm Tomer thắc mắc.

    “Mày cứ lải nhải hỏi đủ thứ. Được thôi! Tao kể. Nhưng không phải giữa thiên hạ,” Francis đáp cộc cằn, rồi hắn chợt trợn mắt thốt lên “Mẹ kiếp!” khi thấy một chiếc tuần cảnh áp sát xe của hắn. Hắn tóm cổ Tomer, nghiến răng trừng mắt đe dọa, “Khốn kiếp! Mày có liên quan gì tới chuyện này không, thằng lỏi?”

    Tomer lắc đầu sợ hãi. “Không! Tôi không biết gì cả!”

    “Được! Nếu mà có chuyện gì thì tao sẽ bắn vỡ sọ mày trước!”

    Một viên cảnh sát có tuổi bước xuống xe, rồi lượn lờ quanh chiếc xe của Francis, cúi sát xuống nhìn qua kính cửa nơi ghế phụ để nhìn kĩ người đàn ông đang nằm bất động trong xe, vẻ thăm dò.

    “Chào buổi sáng ngài sĩ quan!” Francis mặt hồ hởi, trong bụng thì lo sợ. Kẻ có tuổi thì có cái nhìn sắc bén không lường được. “Có gì đó không ổn à?”

    “Sĩ quan Behrend đang làm nhiệm vụ. Cái nhìn thoáng qua thì tôi ngỡ là có vấn đề gì đó,” viên cảnh sát gõ tay lên kính cửa. “Đây có phải là xe của anh?”

    “Xe của ông ta, bạn tôi,” Francis chỉ Zandliet. “Ông ta đang ngủ. Tôi có thể giúp gì được ngài?”

    “Mercedes Benz S-class 1998, nếu tôi không nhìn nhầm,” viên cảnh sát nói, đưa tay vuốt mui xe. “Ước mơ một thời của tôi. Không thể tin được là tôi lại có thể nhìn thấy nó chạy trên đường.”

    “Nó là niềm tự hào của lão,” Francis chỉ Zandliet. “Lão cũng tầm tuổi ngài sĩ quan, cũng là một kẻ hoài cổ. Nếu hai người gặp nhau sớm hơn thì có thể đã là… ý tưởng lớn gặp nhau.”

    “Tôi cũng mong vậy,” viên cảnh sát cười thân thiện. “Ông ta đang ngủ?”

    “Ừ, phải. Ông ấy… đã lái xe thâu đêm.”

    “Thâu đêm? Các anh đang vội vã đi đâu sao?”

    “Ừm, phải. Lão đang hối hả đưa đứa cháu họ yêu quý—” Francis chợt vỗ lưng Tomer, “—về nhà cho kịp lễ Giáng Sinh.”

    “Hối hả tới mức không kịp để đứa cháu yêu quý ăn mặc chỉnh tề, cho buổi sum họp trọng đại ư?”

    “Không đâu! Nó ở bẩn lắm. Ngài cứ tới đứng gần nó thì sẽ thấy nó hôi hám đến nhường nào. Chúng tôi dự định sẽ mua cho nó một bộ thật oách trên đường về. Bằng không mẹ nó sẽ dành cả đêm Giáng Sinh để cằm rằm, chì chiết ông bác nó cái tội bỏ bê không chăm lo cho nó.”

    Viên cảnh sát chợt khoanh tay lại, “Các anh sẽ lái xe thâu đêm bốn đêm liên tiếp, đó sẽ là cả một quãng đường dài. Nhà cậu trai này ở đâu?”

    “À thực ra là chỉ hai đêm thôi, còn nhiều thứ để mà chuẩn bị. Là Dun… Dunfermline… Tôi không chắc nữa,” Francis chợt quay sang Tomer. “Alan, nhà cháu ở đâu nhỉ?”

    Tomer không hiểu ý đồ, cứ đứng ngơ ngác nhìn qua lại viên cảnh sát và Francis.

    “Alan…?” Francis nhướng mày, cười mỉm ra hiệu cho Tomer.

    “À phải! Thị trấn Dunfermline! Vùng Fife!” Tomer hiểu ý một cách chậm chạp nhưng đáp thì hấp tấp.

    “Tô Cách Lan?” Viên cảnh sát gật gù, cong môi, nhướng mày. “Ngàn rưỡi cây số? Là cả chặng đường dài đấy!”

    “Tất nhiên rồi,” Francis đáp.

    “Thế tại sao các anh không bắt một chuyến bay?”

    “Chúng tôi đã thử. Nhưng mùa này dễ gì có được một tấm vé chứ đừng nói gì ba tấm.”

    “Vậy thì đường sắt có thể là lựa chọn thích hợp.”

    “Lão ta không thích đi tàu,” Francis lại chỉ Zandliet. “Lão kể một người thân thích của lão mất trong một tai nạn đường sắt. Từ đó lão thề sẽ không bao giờ đi tàu nữa, cứ một mực đi con xe bảo bối của lão mà thôi.”

    “Thật ư?”

    “Lão kể vậy đấy.”

    “Cảm phiền anh đánh thức ông ấy dậy, tôi có vài lời muốn hỏi ông ấy, với tư cách là chủ chiếc xe,” viên cảnh sát đứng nép sang một bên, đưa tay mời Francis.

    Mẹ nó! Francis chép miệng thầm rủa, đáp, “Có nhất thiết phải như vậy không ngài sĩ quan? Lão đang cần nghỉ ngơi. Tôi có thể cho ngài xem mọi giấy tờ cần thiết.”

    “Xin anh cảm phiền đánh thức ông ấy dậy! Nếu không, tôi buộc phải đánh thức ông ấy dậy.”

    “Đừng! Không cần phải đâu thưa ngài sĩ quan,” Francis vừa nói vừa xấn tới.

    Viên cảnh sát liền vén hờ áo khoác lên, đưa ngón tay lại gần bao súng. “Vui lòng, gọi ông ấy dậy!”

    Francis bèn giật lùi lại, xua tay. “Thôi được rồi! Được rồi! Không cần phải làm vậy! Tôi sẽ gọi lão dậy, được chứ? Đơn giản mà!” Mẹ kiếp! Không xử nó không được! Rồi hắn cẩn trọng tiến lại chỗ cánh cửa, thầm mưu sẽ tấn công bất ngờ lão sĩ quan ở cự li gần, dùng sức vóc to lớn để khống chế lão bằng tay không. Thủ tiêu lão là một lựa chọn bất khả kháng.

    “Chào buổi sáng, Francis! Chúng ta tới đâu rồi?” Zandliet đột nhiên lên tiếng, vẻ ngái ngủ mở cửa bước ra khỏi xe. “Ô! Chào ngài sĩ quan. Mẹ kiếp, Francis! Mày lái quá tốc độ phỏng?”

    “Không phải đâu,” viên cảnh sát nói. “Sĩ quan Behrend đang làm nhiệm vụ. Xin vui lòng cung cấp giấy phép và giấy đăng ký của ông. Ông là chủ xe?”

    “Phải, tôi là chủ xe, Zandliet, Zandliet Varkensen.” Zandliet lục ví và lấy giấy tờ ra. “Không có vấn đề gì chứ?”

    Viên cảnh sát bật đèn pin, đeo kính mắt lên và soi lướt qua giấy tờ, rồi chép miệng, nhún vai. “Xin vui lòng đợi một chút, tôi cần phải lấy kính.”

    “Thưa ngài, nhưng tôi thấy kính mắt đang—”

    “Tôi không nói đến cái kính mắt này,” viên cảnh sát nói, lấy từ trong xe ra một cái kính mắt điện tử và đeo lên. Rồi chợt viên cảnh sát nheo mắt khó chịu.

    “Tôi cũng thật sự tò mò muốn biết cái kính đó dùng để làm gì.”

    “Thiết bị hỗ trợ nhận dạng.” Viên sĩ quan sau một chốc nheo mắt vẻ khó chịu thì liền thay chiếc kính điện tử bằng kính trợ thị lực, rồi lại bật đèn pin soi giấy tờ một lượt nữa. “Ông là Zandliet…?” viên sĩ quan hỏi với vẻ mặt lạ lẫm.

    “Zandliet Varkensen. Sinh ra ở Thụy Điển, lớn lên ở Tô Cách Lan.”

    “Hiện tại ông đang làm gì ở Châu Âu? Một chuyến du lịch đường bộ chăng?”

    “Điều đó chỉ đúng một phần. Tôi quá tuổi lao động rồi, nên để giết thời gian tôi lấy của cải ra đầu tư chứng khoán. Tôi chỉ đầu tư ở những doanh nghiệp mà tôi biết rõ. Để hiểu rõ đối tượng của mình, tôi đích thân đánh xe tới chỗ họ, tham quan cơ sở của họ. Tìm kiếm sự đánh giá của những người bản địa về chính đối tượng. Thà là tốn công một chút, nhưng vẫn là chắc ăn hơn là tin vào những con số thổi phồng bịp bợm. Nhân tiện thưởng cho mình một chuyến đi chơi.”

    “Lần cuối cùng ngài dừng chân là ở đâu?”

    Zandliet nhún vai, gương mặt biểu lộ vẻ không nói nên lời. “Vẻ như là… ở đây?”

    “Thế thì trước đó?”

    “Kielce.”

    “Ông vừa có một chuyến viếng thăm đầu tư ở đó à?”

    “Không, tôi cùng bạn tôi, Francis”—Zandliet chỉ tay Francis, rồi tới Tomer—“đến đón đứa cháu Alan đang theo học ở đó.”

    “Cả ba người đang trên đường đến đâu?”

    “Không phải là đi đến, mà là đi về, về Vùng Fife, ngài biết chứ?”

    “Tôi biết. Ông sắp sửa có một khoảng đầu tư quan trọng ở đó à?”

    “Nó còn quan trọng hơn nhiều chứ. Mà khoan, ngài đùa tôi chắc? Ngài biết là tôi đang về nhà mà?”

    “Tôi chịu không đoán ra được. Một chuyến trở về nhà có cần phải vội vả không chứ?”

    “Việc gia đình. Ngài sĩ quan Behrend đây đã mua gì cho đám con cháu chưa?”

    “Tôi vẫn chưa biết mua gì. Việc mua quà đối với ông quan trọng vậy sao, ông Varkensen?”

    “Bốn năm xa cách không liên lạc. Tôi phải làm gì đó thật đặc biệt để họ biết là tôi còn sống và quan tâm tới người nhà.” Zandliet chợt thở dài, đưa tay xoa trán. “Tôi không biết đám cháu đã lớn tới mức nào, cũng chẳng biết chúng thích gì. Tôi là kẻ đã lỗi thời. Thằng cháu”—Zandliet chỉ tay Tomer—“sẽ giúp tôi chọn mua quà cho năm đứa khác. Tôi dành hẳn hai ngày cho việc này.”

    Tomer đứng ở đằng sau cười hùa.

    “Đi tàu sẽ nhanh hơn nhiều, ông sẽ có hẳn ba ngày. Quan trọng hơn là an toàn về đến đích, phải không, nếu ông thực sự nghĩ ngày đoàn viên là trọng đại?” Viên cảnh sát hỏi.

    “Tôi không thích đi tàu,” Zandliet đáp.

    “Tại sao vậy?” Viên cảnh sát gặng hỏi.

    “Ông chú của tôi mất trong tai nạn đường sắt, cũng dịp đi mua quà Giáng Sinh.”

    “Năm nào vậy?”

    Zandliet chợt cau mày, mi mắt co giật. “Xin lỗi, thưa ngài sĩ quan, câu hỏi của ông khiến tôi cảm thấy không thoải mái.”

    “Không phải tôi tọc mạch.” Viên cảnh sát lắc đầu, đứng chống nạnh, thản nhiên nhìn Zandliet.

    Zandliet ngầm hiểu lời thách thức của lão sĩ quan già, trong một chốc nhìn đáp trả một cách cứng rắn, rồi sau đó tỏ ra nhún nhường. “Coronella, 22 tháng Chạp, 1985.”

    “Ferrara, Ý. Nghe nói mười người chết.” Behrend vẻ gật gù.

    “Ngài cũng biết sao?”

    “Có nghe qua. Tôi sống đủ lâu để nhớ chuyện xưa.” Behrend nhún vai. “Như, con Merc này. Tôi không nghĩ thời buổi này còn có người chạy xe xăng.”

    “Kỉ nguyên của xe điện, tôi biết. Người ta có thể gọi tôi là kẻ lỗi thời, nhưng tôi thích gọi mình là người hoài cổ, người đã trót yêu cái tiếng gầm nổ máy xe. Xe điện, nó khiến tôi không chịu nổi. Nó quá im ắng. Nó quá… chết. Nó không cho tôi cái cảm giác được phiêu lưu hoang dại, được thống trị những con đường dài. Chừng nào còn sống thì tôi còn lái nó. Thách đứa nào dám cản tôi!”

    Behrend gật gù vẻ thấu hiểu. “Đồng ý! Nhưng hãy lái xe an toàn. Trời vừa lạnh vừa tối, dễ chừng ru ngủ ta như ru ngủ gấu. Nếu ông cứ vội vã thì sẽ có lúc, người thì nằm đất, xe thì ra bãi phế liệu. Sự thực là tôi lo cho cái xe còn nhiều hơn ông. Xin lỗi đã làm phiền các ông.”

    “Cám ơn lời khuyên.” Zandliet chợt chìa bàn tay ra. “Hôm nào đó chúng ta cùng ôn lại chuyện xưa nhé?”

    Behrend đưa tay bắt tay. “Là khi nào?”

    “Khi có một con Merc vừa phóng như điên, vừa bóp còi inh ỏi băng qua khu này, là ông biết đấy là tôi.”

    Sĩ quan cảnh sát già bật cười thành tiếng. “Giáng Sinh an lành!”

    “Giáng Sinh an lành!”

    Viên sĩ quan tiến về phía nhà hàng, đi được vài mét thì ông ta chợt quay người lại, nói, “Thú thật là tôi ganh tị với ông, ông Varkensen, khi mà ông có con trẻ trong nhà.”

    “Ngài không có con cháu sao?” Zandliet hỏi.

    “Tôi có con nhưng không có cháu. Lũ trẻ mải lập nghiệp nơi tứ xứ, chẳng đứa nào chịu thành gia lập thất. Tới khi nghỉ hưu rồi thì nhà chỉ còn hai ông bà lão lủi thủi ra vào.” Viên sĩ quan cười gượng, rồi nhún vai quay người đi.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile



    Chương 7: Xa lộ K., 9h sáng, ngày 20/12/2026

    Chia tay vị sĩ quan cảnh sát Behrend, mà không, nói chính xác theo cách của Zandliet là tống khứ được gã sĩ quan nhiễu sự, bộ ba trở lại với chuyến đi dài.

    “Khốn kiếp thật, Zandliet! Khốn kiếp thật!” Francis ngồi nơi ghế phụ, vừa nhai bánh nhồm nhoàm, vừa rủa. “Không có ông thì tôi xử lão mất rồi! Ông nói dối như Cuội ấy. Làm sao mà ông biết đường mà đáp hay vậy?”

    “Tao thức dậy ngay từ cái lúc mày rời xe,” Zandliet ngồi sau tay lái đáp. “Lần sau, thằng ngu, có đi đâu thì hạ kính cửa xuống một tí. Mày muốn tao chết ngạt chắc?”

    “Tôi chỉ định đi có một tí thôi!” Francis phân trần.

    “Đó chỉ là điều mà mày dự định, không phải điều chắc chắn sẽ xảy ra. Nếu chưa phải là chắc chắn xảy ra thì đừng có chủ quan với mạng người khác. Mẹ kiếp!”

    “Thôi được rồi! Ông cái gì cũng đúng.” Francis vẻ bất mãn.

    “Ăn nhanh rồi giải thích cho nó.”

    “Giải thích gì cơ?” Tomer hỏi từ hàng ghế sau.

    “Mọi thứ mày muốn biết, Alan,” Francis ngoái đầu lại, vẻ ẩn ý.

    “Alan?” Tomer thắc mắc.

    “Đầu tiên, phải giả danh tính,” Francis giải thích. “Zandliet chẳng phải tên ông ta. Francis chẳng phải tên tao. Nhưng mày có thể gọi bọn tao như vậy. Kể cả con xe này cũng là mua cũ, biển số giả, bằng lái giả, tất cả đều giả. Mày muốn đám cảnh sát biết tên mày chứ?”

    Tomer lắc đầu.

    “Tất nhiên rồi. Từ giờ mày là Alan. Bọn cảnh sát phải mất cả tháng để tra từng cái tên Alan một, cho tới khi phát hiện ra chúng bị xỏ mũi. Đồng ý chứ, Alan?”

    Tomer nhún vai, đồng ý vẻ miễn cưỡng, rõ ràng Alan là cái tên phổ biến. Tuy nhiên, cậu chợt nhận ra vấn đề. “Không ổn lắm. Bởi bây giờ người ta đã có công nghệ nhận dạng khuôn mặt. Bất kể ta khai láo tên tuổi thế nào đi nữa, thì chỉ cần một bức ảnh, máy tính của sở cảnh sát có thể dò ra tên tuổi của ta trong cơ sở dữ liệu công dân. Các ngài biết điều này chứ?”

    “Bọn tao biết, chỉ cần mày đừng có phơi mặt ra trước camera.”

    “Chúng ta vừa phơi mặt ra camera đấy thôi!” Tomer thốt lên.

    “Ở đâu?” Zandliet hỏi.

    “Cái kính điện tử. Cái kính điện tử của tay sĩ quan lúc nãy, lão gọi nó là thiết bị hỗ trợ nhận dạng, nhưng thực ra nó là một camera đó!”

    “Thế thì nó làm được gì?” Francis hỏi.

    “Giải thích sao nhỉ? Nó là một cái kính mắt thông minh, có camera, có màn hình tương tác với cử động mắt, có bộ nhớ, có bộ kết nối mạng không dây,…. Phải nói là đủ thứ. Khi lão nhìn ta, camera sẽ ghi nhận gương mặt của chúng ta, rồi tự động dò tìm gương mặt ta trong cơ sở dữ liệu, cuối cùng là tìm ra danh tính thực sự của ta. Chúng ta vừa suýt chết đấy. May mà lão không biết dùng cái kính.”

    “Thật sao?” Francis há hốc mồm.

    “Ở Trung Quốc đã áp dụng công nghệ này cho cảnh sát từ hồi 2018 kia. Tội phạm truy nã bây giờ chỉ có nước giải phẫu thay đổi khuôn mặt thì may ra thoát.”

    “Ghê thật đấy!” Francis trầm trồ.

    Tomer lúc này chợt nhận ra là Francis đang giễu cợt cậu, liền tỏ ra bực dọc. “Tôi nghiêm túc đấy! Sao ông lại đùa cợt như thế?”

    “Bọn tao cũng nghiêm túc, như mày vừa nói lúc nãy đấy thôi,” Francis liếc nhìn Tomer, vẻ ẩn ý. “Đưa ví mày đây.”

    “Để làm gì?”

    “Cứ đưa đây.”

    “Nhưng ông muốn gì?”

    Francis lúc này không nói gì nữa, chợt quay lại, mắt trừng trừng đe dọa. Tomer chợt cảm thấy ơn ớn, liền ngoan ngoãn giao ví. Francis liền lục chiếc ví, lấy ra thẻ căn cước với các thẻ định danh tính khác. Rồi hắn lấy đầu mồi thuốc lá, dùi lên mấy chiếc thẻ.

    “Ông đang làm gì thế?” Tomer hốt hoảng la lên.

    “Câm mồm!” Francis quát to, tay tiếp tục dùi nát mấy cái cái thẻ.

    “Mấy cái thẻ của tôi!” Tomer thốt lên, vẻ tiếc của.

    “Không.” Francis vứt mấy cái thẻ dùi nát qua cửa kính, rồi mở hộc trước, lấy ra một cái túi vải đen đưa cho Tomer. “Đây mới là căn cước của mày. Đem ra trình nếu lũ cớm có chặn đường.”

    “Alan Fisher?”

    “Giờ mày là một tên Écosse.”

    “Chẳng lẽ chúng ta đi Tô Cách Lan thật sao?”

    “Không. Chúng ta chỉ mượn tên bọn Anh một chút. Mày nói tiếng Anh tốt chứ?”

    “Tiếng Anh tôi ổn, chính xác ngữ âm Tô Cách Lan thì chịu. Tại sao ta phải mượn danh tính người Anh?”

    “Cảnh sát Châu Âu không truy cập được cơ sở dữ liệu công dân Vương Quốc Anh, kể từ cái lúc bọn Anh xong vụ Brexit.”

    “Nhưng họ vẫn mò ra được danh tính tôi bằng nhận diện gương mặt.”

    “Thế thì tự mà che lấy mặt.”

    Tomer nhăn mặt ngán ngẩm. “Mà làm sao các ngài có hình của tôi được?”

    “Đừng bận tâm chuyện đấy. Hãy nghĩ tới việc làm sao tấm thẻ không lộ danh tính thực của mày, nếu bọn cảnh sát có được hình trên tấm thẻ.”

    “Ừ, đúng rồi, phải. Tôi phải làm sao bây giờ?”

    “Chẳng phải làm gì cả, bọn tao làm nốt luôn rồi. Mực in trên thẻ khi đem ra phơi sáng thì sẽ bay màu, kể cả khi là phơi dưới bóng đèn. Mùa này còn lâu mới có nắng. Tốt nhất thì đốt đi khi mày cần hủy.”

    “Tôi hiểu rồi. Vậy nếu chúng ta không đi Anh thì chúng ta đi đâu?”

    “Oberreich.”

    “Cái gì?” Tomer thốt lên. “Chẳng lẽ các ông định tới…?”

    “Chúng ta sẽ đi lấy Adam, đúng thế, nhưng không phải Hexagon. Chúng ta đi tìm gã Schultz Marklein. Hắn là mục tiêu dễ dàng.”

    “Nhưng làm cách nào?”

    “Bọn tao mất cả tháng để nằm vùng, theo dõi từng cái tên trong danh sách những ai có thể tiếp cận Adam—”

    “Làm sao các ông có được danh sách ấy?”

    “Đừng có ngắt lời tao, Alan!” Francis gắt. “Mọi thứ đều có thể mua được bằng tiền. Nếu mày không có đủ tiền thì phải cưỡng đoạt, được chứ? Quay lại với gã Schultz, ngạc nhiên thay, gã đứng đầu nhóm phát triển lại là đối tượng dễ dàng nhất.” Francis bấm điện thoại để lấy hình ảnh, rồi đưa cho Tomer xem. “Mày thấy cái gì?”

    “Một căn biệt thự?”

    “Là dinh thự mà Hexagon cấp cho hắn. Tuy nhiên đó chỉ là che mắt thiên hạ. Hắn hiếm khi sống ở đó, mà sống ở một căn nhà nhỏ ở vùng cận đô hẻo lánh, ít người, là căn nhà cũ của hắn.” Francis lướt qua một tấm hình khác. “Ở đó hắn sống với một đứa con trai mười tuổi bị dị tật. Nói sao nhỉ? Đó là một vụ tai nạn đau lòng. Tao buộc phải cảm thông.

    “Bọn tao đã điều tra thân thế hắn. Ngày 19 tháng Bảy năm 2021, Schultz Marklein chở vợ và con xuống phố. Gã đỗ xe bên đường rồi xuống xe. Đúng lúc đó một chiếc xe khác đâm thẳng vào xe gã, ngay góc bình xăng. Chiếc xe phát nổ, vợ gã—Hilda Marklein—chết. Con gã—Bach Marklein—bị bỏng nặng. Từ đó trở đi, ngày nào gã cũng nhốt con mình ở nhà, cũ, cả ngày khi gã đi làm.

    “Gã cũng thật dở người. Nếu gã chịu sắm một con xe điện thì chuyện đã chẳng như vậy. Mày nhìn thấy cái gì ở đây không?” Francis lướt qua một tấm hình khác.

    “Chuồng chim?”

    “Ba mươi bảy cái chuồng chim quanh căn nhà, trong một diện tích trăm rưỡi mét vuông, mà lại chẳng có một con chim nào lảng vảng.”

    “Có thể là mùa đông, bọn chim đã di trú hết.”

    “Không phải con chim nào cũng là loài di trú,” Francis cau mày bực mình.

    “Thế thì…?”

    “Là camera an ninh. Loại có đèn hồng ngoại quan sát ban đêm. Phải là cả một gia tài để mà trông chừng, không chỉ là mỗi thằng con trai. Chưa kể trong nhà có khi còn có đủ thứ đồ chơi an ninh.”

    “ ‘Mỗi thằng con trai’, điều này nghĩa là sao?”

    “Có nghĩa là lão sáng đi làm ghé qua nhà cũ và để thằng nhóc lại đó, lúc chiều về thì lão ghé đón nó về lại căn biệt thự. Vậy thôi. Những ngày cuối tuần, họ ở lại qua đêm.”

    “Sao ông ta lại để con mình ở nhà một mình cơ chứ? Chẳng lẽ ông ta không thuê người trông nom? Cơ quan bảo vệ quyền trẻ em không có hành động gì sao?”

    “Làm sao tao biết? Tao không quan tâm nếu gã có lí do riêng. Nhưng nhờ vậy mà bọn tao tìm ra cách chiếm được Adam.”

    “Các ông tính bắt cóc thằng nhỏ?”

    “Chính xác. Chúng ta sẽ đưa nó tới khu D.13. Marklein thừa biết có cái gì ở D.13, đầy những kẻ chẳng ngán cớm. Mày có thể gọi đó là cái ổ tội phạm, nhưng tao gọi đó là sân nhà, nhà của những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Ít nhất là mày sẽ thấy không có một thằng Hồi mọi nào lảng vảng quanh nơi đó. Mẹ kiếp! Riết rồi cả lãnh địa của Chúa đầy rẫy lũ dị giáo lang thang. Thật là bất kính với Người! Đám mọi Phi thì còn được chào đón, chừng nào chúng tỏ ra biết điều với Luci.”

    “Các ông quen biết ông trùm Luciano à?”

    “Quen chơi, không thân. Đừng lo về hắn. Hắn dốt lắm. Hắn không biết cái mà chúng ta đang theo đuổi là gì. Chỉ cần xì cho hắn một khoản kha khá là hắn tiếp đãi tận tình. Trừ phi gã Marklein, hay đám Hexagon dúi tiền để quân đội điều động xe bọc thép tới. Nizor sẽ báo nếu có gì bất thường.”

    “Nizor là ai?”

    “Là người của bọn tao. Nhiệm vụ của hắn là thám thính, nằm vùng. Rãnh rỗi thì hắn đếm chuồng chim.”

    “Thế nhiệm vụ của tôi là gì?” Tomer hỏi thận trọng.

    “Bọn tao sẽ lấy Adam. Việc của mày là xác định đó có phải là Adam. Bọn tao là những kẻ lỗi thời. Việc này cần kẻ biết mấy thứ về máy tính.”

    “Và biết về Hexagon,” Zandliet chêm vào. “Một khi chúng tao tóm được thằng nhỏ, mày phải tìm cách liên lạc với Schultz Marklein, bằng mọi cách, chỉ Marklein, không để kẻ khác biết.”

    “Phải,” Francis nói. “Tao tò mò muốn biết vì sao mày lại nghỉ việc ở Hexagon. Chúng nó trả tệ à?”

    “Không.” Tomer lắc đầu vẻ chán chường. “Tôi làm ở phòng bảo mật. Tôi muốn chứng minh là hệ thống bảo mật nội bộ của họ có lỗ hổng. Thế là tôi ‘hack’, rồi đột nhập vào máy tính của các sếp lớn, vô tình mò ra một mớ ảnh thác loạn của mấy lão với mấy ả thư ký, lúc thì đĩ điếm, lại có cả ‘bột mì’, đủ cả. Quá phấn khích, tôi đem khoe chiến tích với đồng nghiệp, thế là bị sa thải. Tôi còn bị dọa kiện tụng nếu để lộ ảnh lên mạng. Giờ thì tôi nghèo túng.”

    “Suốt bao năm mày không tiết kiệm được đồng nào à?”

    “Tất nhiên là tôi có dành dụm được một ít. Không kiếm được việc làm mới, tôi đem tiền đầu tư vào vài dự án khởi nghiệp, nhưng tất cả đều thất bại,” Tomer đáp vẻ buồn bã.

    Francis gật gù, vẻ cảm thông. “Hừm! Thật là bất công. Chú em có tài năng nhưng lại bị vùi dập. Muốn phục thù không?”

    “Vô ích thôi, không thể nào truy cập được khu B8.” Tomer phẩy tay.

    “Tao đã bảo mày đừng lo chuyện đó.” Francis hạ lưng ghế xuống. “Lo liệu xem mày sẽ phải làm gì khi Adam tới. Rồi nghỉ ngơi dưỡng sức, phía trước là cả một… Á!”

    Zandliet vừa vung tay đánh mạnh vào ngực Francis. “Thằng cứt dậy lái xe cho tao ăn sáng!”

    “Mẹ kiếp!”

    “Nếu như ta đi xe điện có chức năng tự hành thì đã khỏe biết mấy,” Tomer nhún vai nói.

    “Đừng có dạy khôn bọn tao!” Zandliet mắng. “Xe điện có hộp đen ghi hành trình.”

    Rồi Zandliet cho xe tấp lề, rồi hai gã lại đổi chỗ. Lúc này Tomer mới hỏi, “Tại sao chúng ta không đi đường sắt? Như lúc nãy chỗ trạm dừng, ngài có thù với xe lửa thật à?”

    “Bọn tao có súng, đồ ngu!” Francis cau có chửi.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Lần sửa cuối bởi chosanbo, ngày 06-03-2018 lúc 23:03.

    ---QC---


Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status