Chương 5 (1)
Kể từ ngày Lý Công Uẩn gặp rồng vàng bay ở cuối phường Bái Ân, quyết định dời đô ra đất này và đặt tên kinh đô mới là Thăng Long, đến nay chỉ mới hơn có một kỷ. Một kỷ tính theo lịch nhà Chu, là sáu mươi năm. Sáu mươi năm để dựng một nền độc lập, lậo nghiệp đế, dựng xã tắc, lập kinh đô quả không phải là dài. Nhiều việc thổ mộc tạo tác chưa có thời giờ làm xuể. Vòng thành nội mới xây xong, vòng thành ngoại mới đắp lại trên nền đất cũ của thành Đại La xưa. Các lâu đài cung điện chưa xây được là bao. Các phường phố trong dân gian lác đác mới có vài ngôi nhà xây bằng gạch. Ngày đó gạch nung loại lớn, trát vữa bằng vôi trộn mật mía và mồ hóng. Ngói lợp lá âm lá dương hình xếp vảy cá. Lác đác một vài phủ đệ của các quan đại thần có dựng lầu, lợp ngói ống bằng sành men xanh, khác với các cung điện của vua chúa, lợp ngói ống bằng sành nung tráng men đỏ màu da chu hoặc màu vàng hoàng lạp.
Các ngói ống của kinh thành Thăng Long khác ngói ống của các thành quách bên nhà Tống. Vì những người thợ thổ mộc, thợ lò gốm là những kẻ thất học, chẳng có điều kiện để sang tận đất Hồ Nam Giang Tây xem thợ Trung Nguyên làm ngói ống như thế nào. Họ nhận được đơn đặt hành của các quan thị lang Bộ Công phải làm ngói ống để lợp đền đài phủ đệ, thế là họ phải tự nghĩ ra mà làm. Ngói là mặt hàng rất nặng nề, những lái buôn như Lý Chăm không thể đi tận các bạc dịch trường mua về để bán lại được. Không phải là chỉ có thợ chưa trông thấy ngói ống nhà Hán nhà Đường nhà Tống thế nào, mà ngay các quan chức dịch thị lang Bộ Công cũng chỉ nghe nói chứ chưa trông thấy những viên ngói ống nguyên mẫu ra sao. Các quan cũng mới chỉ đọc qua trong các sách vở chép sơ sài, nghe các quan đi sứ kể lại mà thôi…
Nhưng đã là đền đài phải có ngói ống. Nhất là đền đài miếu mạo phủ đệ của kinh đô nơi nhà vua xưng nghiệp đế. Vua bây giờ đã tự lập thành hoàng đế sánh cùng với các hoàng đế Trung Hoa, dù là về chuyện bang giao bên phía triều nhà Tống vẫn chỉ coi vua là một bậc vương mà thôi. Ta nhún mình xin cầu phong tước vương. Nhưng bên trong ta vẫn dựng nghiệp đế. Dựng nghiệp đế thì kinh đô phải dựng theo đúng kinh đô của bậc hoàng đế. Mà các mẫu không được tận mắt xem mà chỉ nghe nói ở Lạc Dương, ở Biện Kinh, ở Tràng An có những cung điện lợp bằng vàng, có những thứ ngói ống tráng men sành. Như thế thì sống chết các thợ gốm Đại Việt phải làm bằng được. Không biết mẫu thực, họ nghĩ ngay đến những cái mẫu tương tự gần kề với họ. Họ đã nhắm những lâu đài tre nứa của các tù trưởng khê động để làm mẫu.
Các tù trưởng khê động thường sai dân dựng những nhà sàn lớn mái lợp bằng những ống bương chẻ đôi, úp bên sấp bên ngửa móc vào nhau mà lợp thàn mái vững chắc. Thế là các bác thợ gốm của ta cứ theo mẫu ống bương làm thành ngói ống. Rồi cung điện của vua thì tráng men vàng hoàng lạp, điện của tể tướng thì phủ men tía, phủ đệ của các đại thần thì tráng men xanh, men tràm, men da lươn…
Trong kinh thành Thăng Long lúc bấy giờ, những mái đền đài cung điện phủ đệ lợp mái ngói ống men xứ cũng chỉ mới lác đác. Còn toàn bộ kinh thành mới chỉ được dựng vội vàng bằng tre nữa gỗ lạt mà thôi. Nhưng các phường trong thành nội và phố ngoài bến sông đã dựng lên san sát như một tổ ong lớn. Thăng Long đã trở thành nơi đầu mối giao thương của cả vùng châu thổ sông Hồn rộng lớn. Cũng không ít người lưu luyến cố đô Hoa Lư cũ, chê rằng kinh thành mới ở đất đồng sông ngòi, không có núi non dựng thành dựng lũy nên kém vẻ hùng vĩ chắc chắn. Họ nhớ đến cố đô Hoa Lư của thời vua Đinh, vua Lê. Cung điện xây trên sườn non, thành lũy gối đầu vào núi đá uy nghi, thế đất hiểm yếu. Đường vào lối ra chật chội. Dân không tìm ra đất để mở phường dựng phố buôn bán Giao thương khó khăn. Nay kinh đô nằm trên dòng sông Phú Lương rộng lớn, là sông Cái của đất nước. Tiếng của ta quen gọi mẹ là Cái, nên mới có tên gọi là sông Cái, sông Con. Kinh đô đặt giữa đồng bằng phì nhiêu, giao thông vô cùng tiện lợi, nên dân tứ chiếng kéo về buôn bán tấp nập. Chẳng bao lâu, chỉ chưa đầy sáu mươi năm mà dân về Thăng Long lập nghiệp đã đông đến mấy vạn hộ. Đất kinh kỳ trở thành kẻ chợ phồn vinh tụ họp đủ các mặt hàng, đủ các sản vật thượng vàng hạ cám trong cả nước. Các nghề thủ công dựng lò dựng xưởng ngay trong các phường phố. Trong chiếu dời đô Lý Công Uẩn có khen thế đất Thăng Long là đất có thế rồng cuộn hổ ngồi. Nhưng nói như thế nói theo thuật phong thủy mà thôi, chứ quả là đất Kẻ Chợ này mới có thành trì trong lòng người chứ chưa thể có thành trì xây trên mặt đất vững mạnh như kinh đô Hoa Lư xưa.
Ngay khi chấp chính, Ỷ Lan phu nhân nhìn thế đất trống trải thông thống trước những con đường tiến quân của phương bắc triều Tống, đã có chút phân vân lo ngại. Tiếng chuông siêu độ của đám tang lớn Thái hậu Thượng Dương và bảy mươi hai cung phi chết theo tiên đế làm cho người đàn bà vốn sinh trưởng từ nương dâu khung cửi làng Siêu Loại cảm thấy rùng mình. Bà đã đòi quan Tể chấp Lý Thường Kiệt vào cung thương nghị, và nói ra cái ý định khôi phục lại thành trì hành cung Hoa Lư để tìm lấy một mảnh đất nương thân nếu gặp cơn cùng quẫn trong thế trận khó mà lường trước được.
Nhưng Lý Thường Kiệt lắc đầu:
- Lui về Hoa Lư tức là bỏ nghiệp đến nhận lấy nghiệp vương. Đặt triều Lý ta ngang hàng với các tù trưởng động Giáp, động Đặc Ma… Tức là phản lại ý nguyện của tổ tiên nhà Lý.
Ỷ Lan phu nhân buồn rầu:
- Ngươi cũng hiểu cho lòng ta, kế lui về là kế cùng. Vì lui về ta phải bỏ lại mồ mả tổ tiên, lăng miếu tiên triều, bỏ lại đất thang mộc… Nhưng Thăng Long này, thành trì chưa xây xong, thế đất lại trơ trọi, lấy gì mà chống lại cường địch đông hành chục vạn quân của nhà Tống.
- Đúng là quân Tống đông đến mấy chục vạn, nhưng đó không phải là cường địch bất khả thắng. Đúng là Thăng Long không có núi dựng thành vách hiểm trở, nhưng hiểm trở ngay ở lòng người. Vua Thái Tổ triều ta nhìn thấy lòng người, mới dám tiến ra đây dựng nghiệp đế. Dùng kế sách để ràng buộc lòng người thành một mối, câu thúc các sứ quân riêng rẽ, các chiếng xứ xa xôi, các khê động rời rã hùng cứ từng phương trời thành một quốc gia… Đó là điều mà vua Đinh, vua Lê chưa làm được, vì cứ thu mình lại nằm ôm giáo trong động Hoa Lư… Chẳng lẽ ta lại đi ngược đường của vua Thái Tổ sáng lập triều ta ư?
Ỷ Lan Thái Phi im lặng một hồi lâu, chắc lệnh bà cũng suy nghĩ cân nhắc nhiều điều. Cuối cùng bà thở dài:
- Ý nguyện của đức vua Thái Tổ ta đâu dám quên, ta đâu dám đi ngược. Nhưng tình thế bây giờ khó khăn gấp ngàn lần… Con trai ta còn nhỏ tuối, mới lên ngôi… Phe Thái hậu Thượng Dương và Tể tướng Lý Đạo Thành ta vừa mới trấn áp được… Dân tình trong nước còn xao xuyến… Thế giặc Tống ép mạnh như cơn nước lũ dữ dội vào biên thùy phía bắc… Nếu giặc tung quân thì chỉ cần một ngày một đêm ruổi ngựa là chiến mã địch đã có mặt trước đất Kẻ Chợ không có thành trì kiên cố che chở này, thì ta còn biết chống đỡ làm sao.
Lý Thường Kiệt trầm giọng như trách móc:
- Sao lệnh bà có thể nghĩ là giặc đi Tống có thể đi vào đất Đại Việt ta như đi vào chỗ không người như thế được?
Ỷ Lan Thái phi buồn bã mở bức Dư địa chí đồ bản, chỉ cho Lý Thường Kiệt một dòng sông mà nói:
- Đây là Như Nguyệt, ở cách quê nội của ta mấy dặm đường. Quân của ta, thực đất của ta chỉ đến sông này là tận cùng. Bến ngạn sông làng mạc của ta thưa thớt, là vùng đất của các khê động, đó là đất động Giáp, rồi động Lôi Hỏa, động Đặc Ma và biết bao khê động lớn nhỏ khác… Từ sông Như Nguyệt tới Thăng Long chỉ phỏng chừng ba mươi dặm đường mà thôi… Đất của ta chỉ có thế… Còn đất ngoài Như Nguyệt thì các tù trưởng khi thì thần phục ta, khi thì lại bị người Tống lôi kéo, không thể dễ dàng mà tin ngay được…
- Lòng tin của người đối với ta và của ta đối với người đâu phải là cái tự nhiên mà có… Vua Thái Tổ triều ta đã tạo ra niềm tin đó. Biết bao nhiêu công chúa sinh ra trong lầu son gác tía, cành ngọc lá vàng đã rời chốn đế đô để ra đi làm dâu con trong các khê động có phải là uổng phí… Họ đã trở thành những mối dây ràng buộc những người tù trưởng khê động với triều đình ta. Thân gái liễu yếu đào tơ của họ có sức mạnh hơn cả những đạo cấm quân. Vì mọi đạo cấm quân chỉ có thể giữ được một cửa thành trì khi có lũ giặc tràn tới, chứ một mình họ đi xa vào một khê động biên cương làm bà áp trại phu nhân, thì cả một nẻo biên thùy bền vững, triều đình không phải xuất quân đánh dẹp, mà lũ giặc ngoại xâm lại bị ngăn chặn từ nẻo biên cương xa mới rộng mở sau gót son của nàng công chúa mới dời kinh đô ra đi… Và bây giờ các công chúa của triều Lý vẫn sẵn sàng đi để giữ gìn và mở rộng biên cương kia mà.
Ỷ Lan Thái phi nhiếp chính giật mình kinh hãi:
- Đi ngay bây giờ ư… Làm sao được… Làm sao có thể đi ngay vào lúc tang chế của bản triều được?
Lý Thường Kiệt quả quyết:
- Càng lúc này, càng cần phải ra đi… Vì lúc này là lúc nhân tâm các miền khê động đang biến loạn xôn xao bất định… Phải ra đi để giữ lại giường mối… Không thể nào dừng được.
- Nhưng triều đình và trăm họ đang có đại tang… Hoàng đế mới băng hà, lễ cúng kỵ một trăm ngày vừa hết… Làm sao có thể gả các công chúa đi được…
- Xin hỏi lệnh bà, nếu hoàng đế băng hà chưa được ba ngày, chưa kịp quàn, chưa kịp phát tang, mà giặc đến ngoài cửa thành, ta nên đóng cửa thành phát tang, hay nên mang quân ra đánh…
- Tất phải mang quân ra đánh…
- Việc các công chúa ra đi, nhất là việc ra đi của công chúa Thiên Thành cũng là một việc xuất binh khi giặc đến ngoài cửa ngõ biên thùy, không thể vì vướng đại tang mà ngừng được.
Ỷ Lan thái phi buồn bã lắc đầu:
- Khanh là một võ tướng… nên khanh cứ nhầm việc phát binh với việc cưới hỏi hôn lễ… Sách Hán chép rằng, khi ban bố bài chiếu nói về việc hôn thú, Hán tiên đế dạy là: hôn nhân là việc đại sự đại trọng bậc nhất trong đạo luân thường. Phải lo xong việc hiếu mới lo đến việc hỷ. Đạo luân thường có ba điều trọng là đạo vua tôi, đạo thầy trò và đạo cha con… Công chúa đang chịu tang cha, là một lúc chịu hai cái tang lớn, một là với tư cách kẻ làm con chịu tang người sinh thành ra mình, lại nữa với tư cách của kẻ làm tôi chịu tang bậc quân vương… Không thể đội hai cái tang lớn trên đầu để tiến hành một việc hệ trọng bậc nhất trong đạo luân thường là việc hôn thú được.
Lý Thường Kiệt cười:
- Điều thái phi nói đều rất đúng như trong các sách cổ nhân mãi bên Đại Tống truyền sang ta… Ấy là Thái phi chưa nhắc đến nghi lễ được quy định từ thời tiên cổ nhà Hán. Nào là nghị hôn của hai họ để tìm kẻ môn đăng hộ đối. Nào là lễ nạp thái, theo đúng như sách nghệ văn loại tự, ta là triều đình tước vương mang nghiệp đế thì nhà trai phải nộp đủ vàng, gấm hoa pha vân đen đỏ tượng hình của càn khôn đất trời. Một trăm đôi đế tượng hình của phúc lộc, một trăm đôi nhan tượng hình cho sự đầm ấm thịnh vượng. Một trăm vò rượu tượng hình cho sự vui vẻ… và phải chờ kiếm cho đủ ba mươi vật phẩm mỗi thứ tượng trưng cho một ý nghĩa thông thường, một ước mơ hạnh phúc… Rồi lại lễ vấn danh, lễ nạp cát, lễ nạp trưng, lễ thỉnh kỳ… cuối cùng mới đến lễ thân nghênh nghĩa là nhà trai đón dâu, nhà gái tổ chức vu quy cho con gái của mình về nhà chồng… Tất cả những thứ lễ đó không ai đọc sách nho lại không biết…
Nhiếp chính Thái phi Ỷ Lan bực mình:
- Tại sao khanh lại mang chuyện hôn lễ là việc suốt đời người cùng các lễ tiết ra để dè bửu chế giễu như thế?...
Lý Thường Kiệt lắc đầu:
- Thời tổ tiên ta sống ở đất này, việc cưới xin thật là thuần phác ít có các lễ tiết rắc rối theo mấy quyển sách nho mang từ phương bắc xuống. Vì cần phải đánh Tống, bà Thái hậu Dương Vân Nga trên đầu còn để tang vua Đinh Tiên Hoàng, tay còn ôm ấu chúa, đã làm lễ thành hôn ngay với thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Lễ thành hôn đó làm cho các nhà nho lắc đầu than thở. Nhưng thử hỏi nếu không kết thành một khối giữa kẻ nắm quyền bính cả thập đạo quân với người giữ yên trong nước thì làm sao mà thắng được quân Tống, để đất nước còn đến ngày nay cho các bậc đại nho lắc đầu mỗi khi chép sử đến đoạn đó. Thời buổi ta đang phải khu xử đây hỏi có khác chi thời buổi bà Thái hậu Dương Vân Nga kia đầu đội khăn tang tiên đế mà đi lấy chồng không nào?
- Kể ra thì cũng không giống hẳn, nhưng cũng vô cùng nguy hiểm.
- Cứ cho là không giống đi, nhưng nguy hiểm thì đã đến mức ngàn cân treo sợi tóc rồi… Vì có biến trong cung đình về quyền nhiếp chính, mà sợi dây ràng buộc của các đời vua trước với các khê động biên thùy phía bắc bị rệu rã, đứt mục. Tấm áo giáp chắc chắn che đất châu thổ nay mất sức che chắn đỡ hòn tên mũi kiếm rồi. Trong khi đó, ngọn đại đao của kẻ thù đã mài sắc, và đã giương sẵn chờ chém vào ngang thân ta. Thái phi muốn ta bỏ tấm áo giáp từ lâu hữu hiệu, nhưng bây giờ đứt vài mũi chỉ, để chạy tìm một chỗ ẩn nấp như cái hang của kẻ chạy khỏi người săn đuổi. Như thế phỏng có phải là kế bền chắc không? Nay Thái phi đừng có nệ theo lễ nghĩa của ngoại tộc đưa vào, dùng hôn lễ và sự ra đi của các công chúa như những sợi chỉ hồng bền chắc vá lại chiếc áo giáp bền vững ấy. Theo Thái phi, trong hai cách thì cách nào là cách ta không nên nắm lấy để cứu mình cứu nước. Xin Thái phi Nhiếp chính tùy nghi toàn quyền định đoạt.
Ỷ Lan Thái phi Nhiếp chính im lặng hồi lâu rồi truyền lệnh rằng:
- Truyền cho chuẩn bị gấp để cho công chúa Thiên Thành xuất giá theo lễ vu quy của bản triều…
Lệnh đó đã truyền đi, và mọi việc được gấp rút chuẩn bị. Hôm nay cả kinh thành Thăng Long rực rỡ đuốc hoa đón đoàn rước dâu của phò mã động Kép về xin rước công chúa Thiên Thành.
Đám rước đã qua sông Cái tập trung hạ trại ở đường Hòe bên sông. Đúng giờ hoàng đạo, tiếng trống đồng rền vang cả kinh thành. Hơn một trăm dũng thủ rước nghi vệ của tù trưởng động Kép mang theo một bộ chín chiếc trống đồng. Loại trống to phải ba lực sĩ khiêng trên đòn ba dây, một người cầm dùi lớn đi theo và một người giữ nhịp. Chín chiếc chiêng bằng, mỗi cái chiêng to như một cái nong đúc đồng nguyên khối vừa dày vừa nặng, phải đặt trên kiệu giá hai người khiêng, có người cầm dùi đi theo. Chín chiếc chiêng núm, có vú bằng đồng đúc dày đồng ở giữa. Tuy không to bằng những chiếc chiêng bằng, nhưng cũng phải hai người khiêng trong kiệu và một người cầm dùi lớn đi theo. Chín chiếc cồng voi loại cồng voi trận, cũng hai người khiêng một người cầm dùi để đánh. Ngoài ra còn có ba mươi chiếc cồng nhỏ, chiêng núm do ba mươi sáu dũng sĩ cầm trên tay trái, nắm tay phải làm vồ đánh… Dàn nhạc đồng hùng vĩ hơn một trăm dũng sĩ động Kép nổi giông bão. Tiếng trống đồng gầm lên như sấm dồn, núi lở. Chưa bao giờ kinh thành Thăng Long lại náo động đến như thế, nhất là sau cái tang kéo dài của bậc tiên đế.
Dàn nhạc đồng đi trước mở lối, tiếp sau dàn nhạc là ba mươi sáu dũng sĩ giương ba mươi sáu lá cờ của ba mươi sáu khê động. Mỗi khê là đơn vị của một vùng cư trú tương đương một hương dưới xuôi. Động Kép bao gồm ba mươi sáu khê. Mỗi khê có trên dưới một trăm tay cung tay mác, giữ trên dưới một trăm nóc nhà trải ra khắp vùng đất bao la từ Quỷ môn quan tràn xuống tận phía bắc ngạn sông Thương, sông Cầu. Trong hàng quân danh dự mỗi dịp chinh chiến hoặc mỗi kỳ lễ trọng, hộ tống tù trưởng động mà triều đình phong tước vương làm chức quan tri châu, hay châu mục, bao giờ cũng có dũng sĩ của ba mươi sáu khê giương cờ như một thứ nghi vệ không thể thiếu được. Ba mươi sáu kỵ sĩ cầm cờ ghìm ngựa đi nước kiệu theo nhịp trống đồng và chiêng cồng uy nghiêm. Phò mã Thân Cảnh Phúc cưỡi trên lưng con ngựa bạch lóng lánh yên cương giát vàng đi giữa ba mươi sáu dũng sĩ cầm cờ, biểu tượng cho sự hùng mạnh của động Kép. Đi sau hàng võ sĩ là ba mươi sáu chiếc kiệu sơn cước. Đó không phải là kiệu đầu rồng của triều đình, kiệu đầu lân của các đình chùa thường dùng rước thánh thần. Kiệu sơn cước đơn giản hơn, thường làm bằng gỗ vàng tâm để mộc, chỉ quang dầu một lượt. Trên các kiệu không sơn son thiếp vàng đó, chất đầy những báu vật của ba mươi sáu khê thuộc động. Trước mỗi kiệu đều có một bô lão cưỡi ngựa cầm cờ lệnh, ghi rõ tên của từng khê một. Sau ba mươi sáu kiệu của ba mươi sáu khê rước đồ sính lễ là những chiếc kiệu kiểu Tống, thứ kiệu chiến lợi phẩm sai trận đánh đột kích vào động Lôi Hỏa mà các tướng dưới quyền Thân Cảnh Phúc cướp được của bên giặc. Trên các kiệu này chất đầy những chiến lợi phẩm, từ những bộ áo giáp, những vũ khí quý giá đến châu báu ngọc vàng. Ý của dân động Kép là muốn biểu dương công trạng của phò mã. Chứng tỏ rằng phò mã mang những chiến tích oai hùng. Vì thế trong hai hàng võ sĩ hộ tống kiệu cưỡi ngựa mang giáp hình trụ cùng mình toàn là những dũng sĩ có nhiều võ công trong chiến trận vừa rồi. Tiếp sau hàng kiệu kiểu Tống là hàng kiệu của triều đình ban tặng, trong đó chiếc kiệu đi đầu bỏ trống. Đó là chiếc kiệu rất huy hoàng. Kiệu này tuy cũ rồi, nhưng được người dân động Kép kết hoa bằng thổ cẩm vô cùng rực rỡ. Kiệu cũ vì đây là kiệu mà vua Thái Tổ nhà Lý ban cho con gái đầu lòng khi về làm dâu động Giáp. Làm dâu tù trưởng Giáp Qui. Cũng từ cái kiệu này, nhà vua ban cho họ Giáp đời đời làm thân vương của triều đình và đổi từ họ Giáp sang họ Thân. Đó là bà nội của Thân Cảnh Phúc tù trưởng của động Kép hôm nay. Cũng chính bằng cái kiệu này, bố Thân Cảnh Phúc cũng mang đi rước công chúa nhà Lý, tức là mẹ đẻ ra tù trưởng Thân Cảnh Phúc hôm nay. Và bây giờ tù trưởng Thân Cảnh Phúc lại rước đúng chiếc kiệu quý này cùng toàn thể các khê động đi rước công chúa Thiên Thành. Sau kiệu quý này là mười chiếc kiệu kiểu Lý rất lớn, đựng toàn những vật phẩm quý giá do lái buôn Lý Chăm cất công đi dọc Hoa Hạ mua về…
Đám rước rực rỡ sắc màu vang động tiếng sấm rền như một con giao long khổng lồ uốn lượn trong kinh thành Thăng Long với bảy mươi hai phường phố lúc bấy giờ… Rới mới tiến đến Kinh Thiên điện. Thái phi Ỷ Lan sai dọn hết đồ tang ngự trên chính điện để phò mã và công chúa làm lễ tế tơ hồng. Cũng như tất cả các nàng công chúa của triều Lý phải ra đi làm sợi chỉ hồng bền chặt đan kết nên sự thống nhất quốc gia, nàng công chúa Thiên Thành đến giờ phút tế tơ hồng mới được liếc mắt nhìn qua tay áo thêo kim tuyến vàng óng ánh để thấy mặt người chồng sắp cưới của mình. Và rồi chỉ trong giây lát mình phải lên kiệu hoa rời kinh thành để đến một cõi biên thùy xa xôi mình chưa hề biết tới. Một lần ra đi chẳng bao giờ trở lại. Công chúa Thiên Thành nhớ đinh ninh lời dặn của Thái phi nhiếp chính:
- Đã bao nhiêu con gái triều đình nhà Lý mang danh công chúa ra đi… Ra đi vì mệnh nước. Ra đi vì mệnh vua. Ra đi vì sự tồn vong của triều đình nhà Lý. Từ nay gánh nặng sơn hà đè lên vai của con. Nếu con giữ được chàng phò mã chồng con trung thành với triều đình, trung thành với nền nhất thống của Đại Việt là sự sống của con còn đảm bảo. Nhưng nếu để chồng con bị các sứ nhà Tống mua chuộc, lôi kéo, đi đến li khai khỏi triều đình, chống lại đất nước, thì cái chết sẽ đến với con trước khi nguy cơ đến với giang sơn gấm vóc… Kể từ giờ phút này vận nước nằm vào tay con như đã nằm vào trong bàn tay yếu đuối của biết bao nàng công chúa của triều đình ta… Con không bao giờ nên quên điều đó…
Công chúa Thiên Thành đâu dám quên. Nhưng như bất cứ một cô gái nào khác, công chúa Thiên Thành vẫn hồi hộp ghé mắt nhìn chàng dũng sĩ hùng cứ một phương trời, mà mình sẽ kết nghĩa trăm năm, sẽ ăn đời ở kiếp, sẽ trao xương gửi thịt, trao cả số phận của mình. Công chúa bồi hồi thấy vẻ mặt tuấn tú, vóc dáng quắc thước, khí thế hào kiệt của chàng tù trưởng động Giáp, nay theo lệnh của Ỷ Lan Thái phi được đổi là động Kép.
Lễ tơ hồng được cử hành xong, Ỷ Lan Thái phi dẫn phò mã và công chúa vào tận sân rồng ra mắt hoàng đế Nhân Tông. Nhà vua mới lên tám tuổi, đứng ra làm lễ hợp hôn cho người chị cùng cha khác mẹ của mình lấy một người tù trưởng ở nơi phên giậu quốc gia dưới sự hướng dẫn của bà nhiếp chính…
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile