TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 1 của 3 123 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 5 của 15

Chủ đề: [Việt Nam] Sừng Rượu Thề - Nghiêm Đa Văn

  1. #1
    Ngày tham gia
    Aug 2014
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    11,219
    Xu
    29,733

    Mặc định [Việt Nam] Sừng Rượu Thề - Nghiêm Đa Văn



    Sừng rượu thề

    Tác giả: Nghiêm Đa Văn
    "Sừng rượu thề" đã dựng lại một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc khi triều đình nhà Lý bắt đầu dựng nghiệp xây dựng một vương quốc Đại Việt thống nhất cường thịnh sau một ngàn năm Bắc thuộc. Cuốn tiểu thuyết đặc biệt thành công và để lại dấu ấn sâu đậm khi dựng lại một cách sắc nét hình tượng người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt vừa anh dũng vừa bi tráng, dựng lại cuộc tấn công duy nhất trong lịch sử của nước Việt vào đất Trung Hoa, với 42 ngày đêm ngoan cường chiến đấu, san bằng 3 căn cứ quân sự lớn của nhà Tống ở châu Ung, châu Khâm và châu Liêm, tiêu diệt bộ phận quan trọng trong tiềm năng xâm lược của nhà Tống...

    Trong Sừng rượu thề, hình tượng người anh hùng Lý Thường Kiệt được khắc họa với tất cả những bi kịch của số phận khắc nghiệt, với những thử thách cay đắng dám chấp nhận sự hy sinh tột cùng vì vận mệnh Tổ quốc...

    Thảo luận truyện Tại đây.

    Văn bản nguồn từ: http://vietmessenger.com/books/?title=sungruouthe
    ---QC---
    Nhân sinh vô hối nhập Touhou
    Kiếp sau nguyện sinh Gensokyo


  2. #2
    Ngày tham gia
    Aug 2014
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    11,219
    Xu
    29,733

    Mặc định


    Chương 1



    Tên lính thám mã rạp người trên bờm ngựa phi như bay. Móng ngựa đóng gót sắt, bổ vào đá cuội rải đường thượng đạo tóe lửa. Tiếng nhạc ngựa réo gắt, không còn giữ nhịp gì nữa. Ngựa lao như gió lốc. Vó sắt vang đến đâu, người ngựa ở đó đều tránh giạt sang vệ đường. Không tránh sao được. Vì từ xa, người ta đã nhìn thấy lá cờ đuôi nheo bằng vóc đỏ bay bập bùng như một ngọn đuốc. Không nhận rõ chữ thêu trên cờ, nhưng ở đây không ai không biết rõ rằng lá cờ trên đầu ngựa thêu hai chữ hỏa tốc…Từ mấy năm nay, dân chúng ở đông Cổ Vạn này đã hiểu cái lệ của triều đình nhà Tống do tể tướng Vương An Thạch định ra cho toàn cõi Trung Nguyên: Hễ có lính thám mã tốc đạt việc quan quân thì gặp người, người tránh, gặp xe, xe dẹp, gặp thuyền, thuyền gác mái, gặp chợ, chợ phải tan…ngựa thám mã đạp chết người, không những người kỵ sĩ không bị tội, mà thân nhân của kẻ xấu số còn có thể bị rầy rà vì tội cản việc triều đình. Thám mã cắm cờ hỏa tốc gặp sông gọi đò, đò chỉ cần trùng trình không chở, lính thám mã có quyền vỗ bao kiếm đe dọa. Nếu kẻ chở đò có ý chống lại, thì lính thám mã có quyền tuốt gươm “tiền trảm hậu tấu”.

    Vì thế con ngựa của tên lính thám mã đổ như cơn bão trên đèo Cổ Vạn xuống đã làm náo động cả một khúc đường đông đúc trước lối vào chợ phiên. Người ta xô đẩy nhau để chạy giạt ra bên đường tránh cơn gió chết chóc này.

    Kỵ sĩ phóng thẳng đến trước ngôi quán xá trước cửa có treo lá cờ đô giáp Cổ Vạn thì gò cương. Con ngựa đang đà phi, bị ghìm bất ngờ, chồm hai vó trước lên trời. Vó ngựa đạp cả đám tua ngũ sắc của lá cờ treo lơ lửng trên cành cây ngô đồng.

    Vó ngựa chưa kịp chạm đất thì kỵ sĩ đã tung mình nhảy phắt xuống, và cắm đầu chạy ngay vào trong quán xá. Hắn phủ phục trước một án thư sơn son thiếp vàng, thở hổn hển:

    - Cấp báo… cấp báo…có một đoàn người ngựa đang đổ đèo Cổ Vạn, theo đường quan lộ Hàng Châu tiến về phía chúng ta.

    Chiếc án thư rung lên dưới sức nặng của một bàn tay võ tướng và tiếng gầm vang lên:

    - Vọng gác đỉnh đèo đâu? Sao không giữ chúng lại?

    - Dạ, quan giáp trưởng giữ đèo đã chặn chúng lại để xét tín bài.

    - Tín bài do ai cấp?

    - Bẩm, tín bài do quan châu mục Vĩnh Bình cấp và có đóng dấu của quan tham tri biên ải cửa Tư Minh phê chuẩn.

    - Trong tín bài ghi những gì?

    - Cứ theo như tín bài thì đây là một đoàn ngựa thồ của lái buôn người Man Giao xin sang ta buôn bán.

    Người ngồi sau án thư im lặng trong giây lát, rồi cất tiếng nói như không để ra lệnh và quát nạt mà tự hỏi mình:

    - Quái lạ…lái buôn Man Giao sao lại đi đường bộ đến tận vùng này… Thế nhà người có thấy bọn người mà chúng thuê áp tải hàng mang sắc cờ gì không?

    - Bẩm, chúng không thuê bảo tiêu người Tống mà thuê bảo tiêu đám võ sĩ thuộc động Giáp bên vùng đất của Man Giao ạ…

    - Thế càng phiền…càng phiền…quan đề đốc Quảng Tây kinh lược sứ vừa xuống lệnh, hạn chế việc đám dân Man Giao vùng ngoại biên phương nam này vào buôn nội địa. Chỉ cho phép ta mở tiếp tục hai cửa giao thương lại bạc dịch trường ở Vĩnh Bình và bạc dịch trường ở Khâm Châu. Ngoài ra không cho một kẻ nào từ ngoài biên vào sâu trong nội địa của ta.

    Tên lính thám mã vội nói ngay:

    - Dạ, con có nghe rõ đọc tín bài xin vào buôn bán ở bạc dịch trường Giang Đông ngoại vi thành Khâm ạ.

    - Đi Khâm Châu sao lại đi lối này… Lệnh ở trên mở hai bạc dịch trường buôn bán giữa hai biên thùy để tiện việc đi lại. Dân các man động đến bạc dịch trường Vĩnh Bình thì đi đường bộ. Còn các lái đi lại buôn bán đến bạc dịch trường châu Khâm thì đi đường thủy, vì bạc dịch trường châu Khâm của ta đây, bên cửa sông Tây Giang…Xưa nay ta chưa thấy những kẻ đi mua đường thế này bao giờ…Lạ thật…

    Tên thám mã vẫn phủ phục và thưa rằng:

    - Điều này thì quan quản coi vọng gác không thể nào luận rõ được, nên sai con phóng ngựa về đây phi báo trước. Xin tướng quân định đoạt…

    Trên đài phong hỏa đặt trước quán đại bảo cạnh đường quan bốc cao ngọn lửa. Lập tức những ngọn lửa từ các động núi xa xôi cũng bốc cao. Cả một vùng núi quanh thung lũng Cổ Vạn như rung động. Tiếng vó ngựa khua vang trên các lối mòn. Đó là những con ngựa được nuôi theo phép bảo mã của tể tướng Vương An Thạch. Viên phòng bên tuần sứ Khâm Châu chia cho các thổ đinh, động đinh ở vùng Cổ Vạn vừa đi cày vừa làm lính chăm sóc ngựa gọi là bảo mã. Ngựa chiến được chia về nuôi tại nhà với đầy đủ yên cương do triều đình cấp. Nếu triều đình không cấp ngựa được đầy đủ thì cấp tiền cho các nhà tự mua sắm lấy yên cương vũ khí. Ngựa được nuôi trong tàu tại nhà các thổ đinh và động đinh, do các giáp trưởng trông coi. Hàng tháng cứ vào tuần trăng giữa tháng, các giáp trưởng cắt ngày tập binh mã và khám nghiệm ngựa chiến. Sau mùa cấy cày gặt hái các đô giáp trưởng phải tập trung thổ đinh và động đinh có tên ở sổ cùng ngựa lại rèn tập võ nghệ chinh chiến liền trong một hai tuần trăng cho thành thục. Và khi có động thì viên tướng trông coi chỉ cần phóng lửa lên đài phong hỏa như thế này, là các thổ đinh, động đinh dù đang cày ruộng, đang gặt lúa, đang đi săn, đang hái củi cũng phải bỏ việc dở dang đấy để nhảy lên yên ngựa phóng như bay về hội quân…

    Quân của đô giáp Cổ Vạn ùa ra hai bên đường cái quan đúng vào lúc đoàn ngựa thồ chở hàng của khách thương Giao Chỉ đang đổ dốc thủng thỉnh đi về phía quán đường của viên quan đô bảo.

    Thời bấy giờ việc thông thương buôn bán đã rộng khắp các vùng thuộc đất Trung Nguyên và các nước lân bang. Buôn bán gần có các chợ họp thường phiên tại các động, các châu, các huyện. Buôn bán xa có các lái buôn cất hàng đi suốt từ tỉnh này sang tỉnh khác, từ nước này sang nước khác. Những khách thương cất hàng đi buôn bán xa ngoài vạn dặm đường đó là những lái buôn lớn. Hàng của các lái buôn này thường được chở trên các thuyền đinh nếu đi buôn đường sông đường biển. Còn nếu đi đường thượng đạo thì hàng được thồ trên lưng ngựa. Thời bấy giờ dân các khê động cát cứ từng khúc đường mòn, quân ăn cướp lâu la thường lẩn khuất khắp các nơi rừng núi hiểm yếu, vì thế mà các khách thương muốn chuyển hàng đi xa thường phải nhờ các tiêu cục lo việc bảo vệ hàng hóa gọi là bảo tiêu. Công việc của các tiêu cục này là đứng ra nhận của các lái buôn một món tiền lớn, rồi cử những gia nhân giỏi võ được trang bị những thứ vũ khí mà triều đình cho phép để đi cũng khách thương và hàng hóa từ nơi này qua nơi khác. Vì dọc đường thiên lý giặc cướp như rươi, nên bảo tiêu đã thành một thứ nghề kiếm ăn đặc biệt của giới thượng võ khắp vùng lãnh thổ này, và lá cờ phấp phới mang tên những tiêu cục nổi tiếng đã quá quen thuộc đối với quan quân nhà Tống. Không những thế, ngay cả hàng của nhà vua, đôi khi không đủ quân lính áp tải cũng phải nhờ cậy đến các tiêu cục.

    Vì thế việc một đoàn khách thương có đến gần một trăm con ngựa vừa chở hàng, vừa yên cương mang theo những kỵ sĩ mà lại không có lá cờ phấp phới của một tiêu cục quen thuộc làm cho viên đô giáp Cổ Vạn cảm thấy lạ lùng. Và lạ lùng nhất là người lái buôn đi đầu cả đoàn người ngựa. Người đó ngồi trên lưng một con ngựa Chàm rất lớn. Thứ ngựa Chàm mua tận đồng cỏ mênh mông vùng thượng lưu của vương quốc Chăm-pa. Loại ngựa này bốn vó cao lênh khênh chẳng khác gì vó ngựa xích thố trong các đền thờ đức thánh quan. Mông của ngựa Chàm nở. Ức của ngựa Chàm rộng. Lưng của ngựa Chàm phẳng. Con ngựa đầu đàn của người lái buôn Giao Chỉ này có đủ tất cả các thứ tướng tốt của loại ngựa Chàm nòi. Đã từ lâu người ta đồn đại về cách cưỡi ngựa lạ lùng của dân Chàm thượng đạo. Cưỡi ngựa không cần yên cương. Không quặp hai chân chặt vào mình con ngựa, mà cứ ngồi vắt chân một bên như ngồi trên tràng kỷ, với cây lao bất hủ đặt ngang trong lòng.

    Người lái buôn này, tuy cưỡi ngựa Chàm, và cũng cưỡi không có yên như kiểu dân Chàm thượng đạo, nhưng điều lạ hơn là anh ta không cưỡi ngựa mà ngồi xếp bằng tròn trên lưng ngựa. Ngất nga ngất ngưởng như ngồi uống rượu bên sập gỗ vàng tâm ở nhà. Mà anh ta vừa ngồi xếp bằng tròn trên lưng ngựa vừa uống rượu thật. Chỉ có điều anh ta không uống rượu bằng nậm, bằng vò như dân ở đây vẫn thường thấy. Cũng không uống rượu bằng ly như quan triều đình, uống rượu bằng bát như động đinh thổ đinh. Mà uống rượu bằng vòi. Cái vòi tre dài ngất nghểu cắm vào cái bong bóng trâu óc a óc ách toàn rượu. Sóng sánh theo bước đi nước kiệu của con ngựa Chàm nòi.

    Sau chàng lái buôn là hơn hai mươi con ngựa thồ hàng. Hàng chất lên những kiện hàng bó trong những lớp lá gồi ken xòe như mái nhà. Ngựa thồ hàng đi giữa. Con nọ ngửi đuôi con kia mà bước đi với bước nước kiệu gần. Cả một đoàn ngựa thồ hàng có ken mái lá gồi trên lưng làm thành một dẫy nhà lá ám đỏ bụi đường di chuyển. Áp hai bên đoàn ngựa thồ hàng ấy là độ mươi mã phu cưỡi ngựa đeo đoản kiếm và mươi võ sĩ đầu ngựa đeo túi cung ứng, ống tên dài, tay cầm khiên mây, tay cầm trường thương. Chỉ nhìn thoáng, dân đinh động Cổ Vạn cũng đoán ngay qua võ phục, và xì xào với nhau bằng một giọng kính nể:

    -Đúng là những tráng sĩ động Giáp.

    Những động đinh, thổ đinh trong đô bảo đổ ra đường thiên lý vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn ngựa thồ của lái buôn cứ thong dong đi nước kiệu giữa hai hàng gươm giáo sáng lóa và tiếng phèng la báo động. Đi thong dong dưới bầu trời đã mịt mù ngọn khói phong tỏa. Họ càng ngạc nhiên hơn, khi nhận ra trong đoàn ngựa thồ còn có cả những người mặc một thức phẩm phục hết sức lạ lùng. Thứ phẩm phục của quan lại một nước phương nam xa xôi.

    Đoàn ngựa thồ có lẽ cứ thế thong dong mà buông nước kiệu qua cửa quán xá đô bảo bên đường thiên lý, nếu viên quan võ tướng đô bảo trưởng không thét động đinh hạ mũi giáo cản đường.

    Mãi cho đến lúc nhìn thấy những mũi giáo sáng lóa ghìm ngay trước ức ngựa của mình, người lái buôn mới ung dung vỗ vào bờm tía của con ngựa. Con ngựa lập tức dừng vó, không thả nước kiệu nữa, những vẫn gõ móng sắt trên đá của đường cái quan ra chiều bực bội lắm. Người lái buôn vẫn ngồi yên trên lưng ngựa, ung dung tự tại rút giấy tín bài trong ống tay áo, xòe ra phía trước, ý như muốn bảo: nào ai muốn xét tín bài thì xét đi…Làm gì mà xét lắm thế…Cứ vài dặm đường lại xét một lầm thế này thì bao giờ ta mới tới được bạc dịch trường ngoại vi thành Khâm Châu…

    Nhưng không ai đón lấy tín bào của người khách thương cả. Một tên vệ sĩ của viên tướng Tống giữ chức bảo giáp động Cổ Vạn quát lên bằng cái giọng vừa hống hách vừa đe dọa:

    - Bớ khách thương, chủ tướng của ta đòi khách thương vào bản doanh hầu chủ tướng. Tất cả người ngựa phải đóng trại tại chỗ, không được nhúc nhích…Tất cả chờ lệnh của chủ tướng.

    Khách thương chưa hết cơn say, vẫn ngất ngưởng trên lưng ngựa. Anh ta quay lại đám thuộc hạ của mình và xòe bàn tay giơ lên. Đó là lệnh cho phép nghỉ chân. Cái lệnh câm này, tất cả thuộc hạ trong đoàn ngựa thồ hàng đều hiểu. Nên khách thương chỉ cần giơ tay lên ngang đầu là lập tức có tiếng dạ vang. Và tiếng chân người nhảy từ trên mình ngựa xuống đất. Những mã phu đã nhanh nhẹn tháo bao thóc cho ngựa ăn. Những dũng sĩ người động Giáp đã dàn ngựa hoàng nganh ngọn trường thương bày thế trận sừng trâu bảo vệ cho cả đoàn ngựa thồ nghỉ ngơi.

    Khách thương lại vẫy tay một cái. Khi vẫy tay, anh ta vẫn không đổi cách ngồi xếp bằng tròn trên lưng ngựa. Thế mà khi bàn tay anh ta vừa vẫy thoáng một cái như chớp mắt, anh ta đã ung dung dưới đất. Theo hiệu tay vẫy của anh ta những người mặc phẩm phục triều đình đã tiến đến bên cạnh anh. Anh ta không nói một lời, cứ thế thủng thẳng cắp cái bong bong trâu óc ách rượu đi thẳng vào quán xá. Anh cũng chẳng buồng ngoái cổ lại xem những người mặc phẩm phục có đi theo anh không. Và cũng không buồn để ý xem hai hàng võ sĩ gồm những động đinh bảo giáp lực lưỡng đang cắp gươm dàn thành hai hàng uy hiếp mỗi bước chân đi của anh.

    Anh lừng lững tiến đến phía án thư, nơi viên đô giáp tướng quân đang bực bội đợi anh. Biết thế, nhưng anh cứ tảng lờ như chưa hay biết chuyện gì. Từ trên án thư tiếng bàn tay vỗ án vang dội cả bảy gian quán xá. Từ xưa đến nay chỉ có quan văn là ngồi sau án thư. Tiếng vỗ án thư của các vị quan văn, xuất thân từ loại thư sinh trói gà không chặt, chỉ vang lên để lấy oai thôi. Còn võ quan, vỗ xưa nay chỗ ngồi là trên yên ngựa. Có ra oai thì vỗ bao gươm mà thét. Từ ngày tể tướng Vương An Thạch trẻ tuổi chấp chính quyền bính Trung Nguyên, các chức quan coi ngoại biên đều lọt từ tay văn thần sang tay võ tướng. Vì thế mà tiếng vỗ án thư hôm nay chuyển răng rắc dưới sức nặng võ biền của bàn tay vỗ án thư, anh chàng lái buôn Giao Chỉ khẽ nhếch mép cười ruồi…

    Tiếng quát trên án thư chói chát:

    - Tín bài đâu?

    Chàng khách thương vẫn thủng thẳng:

    - Bẩm quan trấn thủ, chúng tôi là khách thương nên bao giờ cũng có đủ tín bài. Qua mỗi quan ải một lần trình, qua các trấn sở lại một lần báo… Xin quan trấn thủ cứ xét ạ.’

    Chàng lái buôn đệ tấm thẻ tín bài lên án thư. Viên quan trấn thủ với tay nhấc tấm thẻ tín bài một cách lơ đãng. Bỗng một ánh chớp vàng như đốm lửa cháy lên. Một tiếng keng khô gọn và ngân nga. Một đĩnh vàng tuột khỏ tờ tín bài rơi xuống án thư. Mắt viên tướng trấn thủ cũng ánh lên một ánh lửa sáng như ánh vàng. Và tay của hắn mất hẳn cái oai dũng lúc trước, mất cả cái lơ đáng quan cách vừa rồi. Bàn tay nhanh như đang thi triển một thế võ lén lút, chộp lấy đĩnh vàng. Nếu là quan văn, mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn. Vì quan văn có cái ống thụng của tay áo. Chỉ cần đẩy các đĩnh vàng nén lên và hất ngược ống tay thụng, là nén vàng đã mất tăm rồi. Nhưng tay áo của tướng võ không những hẹp, lại thít trong vòng ốp tay bằng đồng thau. Không dễ gì giấu ngay được đĩnh vàng trước mặt đám thuộc hạ của mình đang có mặt trong quán. Nhưng quan võ lại có cách riêng của quan võ. Tay vừa chộp được đĩnh vàng, viên đô bảo ngang nhiên đĩnh đạc vừa giắt đĩnh vàng vào tấm bối tử có thêu đầu cọp vừa sang sảng quát:

    - Tên tuổi! Khách thương phải khai tên tuổi cho bản chức biết.

    Lái buôn đã nghe thấy giọng đổi khác của viên đô bảo, nên mỉm cười thủng thẳng trả lời:

    - Bẩm quan trấn thủ, tên tuổi của kẻ hèn này đã ghi rõ ràng trong tín bài… Xin quan trấn thủ cứ đọc.

    Viên quan trấn thủ đúng là một kẻ vũ dũng vô học nên khó khăn lắm mới nhận nổi mặt chữ. Cứ như lúc khác, viên võ tướng chắc chắn lại hét vang lên. Nhưng bây giờ khác rồi. Đã có nén vàng nằm trong tấm hổ phục, nên viên võ tướng cứ phải toát mồ hôi mà cố nhận mặt chữ; người lái buôn Giao Chỉ không cần giấu giếm nụ cười. Một lát sau, viên đô bảo mới ngẩng lên hỏi với vẻ không tin lắm vào cách nhận mặt chữ của mình:

    - Có phải nhà ngươi họ Lý tên Chằm không?

    Chàng khách thương mỉm cười:

    - Họ Lý thì đúng. Nhưng tên tôi phải đọc là Chăm mới đúng. Vì ở xứ tôi, chữ Chăm chỉ tên, tức là khi đẻ tôi ra bố mẹ tôi đã muốn tôi khi lớn lên phải thành người chăm chỉ, tin ở sức lực của mình. Ấy thế mà khi trưởng thành, tôi lại là một kẻ lười biếng, không chuyên việc tầm tang, không mê việc thổ mộc, không lo việc trồng cấy… Tôi chỉ thích giang hồ làm khách thương mà thôi…

    Viên đô bảo cắt ngang câu chuyện của chàng khách thương:

    - Ừ thì tên người là Lý Chăm…ta biết rồi, Vậy quê quán người ở đâu?

    - Tôi là dân gốc của đất kẻ Cời, xứ Đông Ngàn, đất Bắc lộ thuộc…

    - Thuộc Giao Chỉ chứ gì?

    Lý Chăm lắc đầu:

    - Cái thời nội thuộc gọi là quận Giao Chỉ cũng được. Nhưng cái thời quận huyện ấy đã qua lâu rồi… Chính Tống triều đã phải nhận phong Vương cho vua của nước tôi…

    - Ừ thì người là dân thương của nước Giao Chỉ…

    Khách thương họ Lý vẫn lắc đầu:

    - Nước Giao Chỉ là tên cũ rồi. Mới đây đời tiền đế của chúng tôi, nhà vua đã chính thức cáo cùng các nước lân bang để đặt quốc hiệu cho nước mình Đại Việt.

    Hình như với viên võ tướng nhà Tống này thì hai chữ Đại Việt khó mà nghe lọt tai lắm. Cứ như bình thường hắn sẽ chẳng để ai yên, khi dám cả gan cao giọng nhắc đến hai tiếng ấy. Nhưng bây giờ thì hai đĩnh vàng có sức mạnh kìm giữ của nó. Tuy thế viên đô bảo châu Cổ Vạn vẫn bực bội gạt đi:

    - Biết rồi…biết rồi… thế tại sao nhà ngươi không đi chợ ở ngay bạc dịch trường nơi cửa khẩu châu Vĩnh Bình. Mà lại diễu suốt cả mấy trăm dặm đường đến mãi bạc dịch trường châu Khâm?

    Khách thương Lý Chăm vẫn điềm tĩnh mỉm cười:

    - Thưa tướng quân, điều đó cũng đã ghi rõ trong tín bài của chúng tôi và đã được phép kiểm chứng của quan trấn thủ Vĩnh Bình rồi đấy ạ. Lời phê có áp trấn son của quan trấn thủ Vĩnh Bình và lời chiểu của quan khâm sai tuần ty bạc dịch trường cửa khẩu cũng có đóng đồng triện đầy đủ.

    Viên võ tướng bực bội:

    - Ta không thèm xem… Nhà ngươi không trình bày rõ ta sẽ khép nhà ngươi tội mượn cớ đi buôn để vào sâu đất Tống do thám… Lệnh của tể tướng Vương An Thạch cấm tất cả các dân Man giao vào sâu trong đất đai của thiên triều.

    - Nhưng triều đình quý quốc vẫn cho mở các bạc dịch trường ở châu Vĩnh Bình và châu Khâm cơ mà…mở chợ buôn bán giao thương giữa hai nước thì phải cho khách thương đi lại chứ? Tôi…tôi…

    - Bất tất phải nhiều lời…bạc dịch trường vẫn mở… Nhưng mở đường đến bạc dịch trường chỉ có một lối gần nhất so với ải quan cửa khẩu. Vào bạc dịch trường Vĩnh Bình chỉ có lối qua đò sông Kỳ vượt đèo Quyết Lý. Còn bạc dịch trường Giang Đông ở châu Khâm chỉ mở một khẩu trên sông Tây Giang đi bằng đường biển. Đường này không ghi trong quân lệnh là đường mở cho khách thương phương nam đi nghe không!...

    - Vâng, điều đó tôi cũng biết.

    - Biết sao còn đi?

    - Điều này đã được quan tuần ti bạc dịch trường Vĩnh Bình ghi và áp triện thị thực trong tín bài rồi ạ. Xin tướng quân cứ đọc.

    Viên võ tướng lúng túng, và lại cảm thấy toát mồ hôi vì có nguy cơ lại phải nhận mặt chữ khó khăn nên lúng túng một lát rồi dấm dẳn nói:

    - Ta không tin lời thị thực…nhà ngươi phải trình ta nghe…

    Anh chàng khách thương Lý Chăm lại đặt thêm một đĩng vàng nữa lên án thư và thủng thỉnh trình rằng:

    - Nguyên là chúng tôi lần này cất một chuyến hàng lớn, gồm các loại trầm hương, xạ hương, quế chi, loại quế vùng Hoan Diễn, hồ tiêu, thứ Hồ Tiêu Ô lý. Ngà voi, loại ngà lấy từ thứ voi lớn của nước Lão Qua. Và rất nhiều các thứ sản vật phương Nam quý giá khác. Số hàng rất lớn này không phải là vốn riêng của chúng tôi mà một phần lớn vốn xuất ra từ quốc khố của triều đình Thăng Long chúng tôi. Nguyên do là năm nay triều đình chúng tôi sẽ làm lễ hạ giá cho công chúa Thiên Thành kết duyên cùng tù trưởng động Giáp tên là Thân Cảnh Phúc. Việc kén phò mã đã định vào năm Bính Ngọ. Năm nay sẽ làm lễ vu quy. Để lễ thêm phần trang trọng danh giá, triều đình cậy kẻ hèn này khó nhọc viễn thương mang hàng quý phương nam để đổi lấy những sản vật của phương bắc, làm sao cho đám cưới công chúa Thiên Thành huy hoàng không kém gì đám cưới của các công chúa của triều đình nhà Tống… Chúng tôi cũng chỉ định đến bạc dịch trường Vĩnh Bình mở quán đường trao đổi hàng hóa. Nhưng ở đó chỉ kén được loại trìu Tây Tạng và dạ Mông Tự mà thôi. Còn các thứ đồ sứ bịt vàng, đồ gốm bịt bạc của đất Giang Tây, loại lụa quý của đất Cô Tô, loại sa mỏng của đất Ba Thục, Tứ Xuyên nghe nói phải đến tận bạc dịch trường Giang Đông mãi Châu Khâm mới có. Vì nhẽ ấy chúng tôi đã xin phép quan trấn thủ Vĩnh Bình thị thực vào tín bài để được dùng đường thượng đạo nhằm hướng Châu Khâm mà đi. Vì nếu phải lộn lại đi ngược đường về Thăng Long, rồi từ Thăng Long bốc hàng xuống thuyền đi đường thủy đến Châu Khâm thì là nhỡ việc của triều đình giao cho. Các quan trấn thủ và trấn ải cũng đã xét thương tình mà cho đi…Ải này là ải cuối cùng trước khi đến bạc dịch trường đây ạ.

    Viên tướng trấn thủ đô bảo động Cổ Vạn thở dài:

    - À ra thế…nghe cũng được…Nhưng sao các người không thuê các bảo tiêu người Tống dẫn đường áp tải hàng hóa mà lại đưa võ sĩ động Giáp tự tiện theo ngựa thồ vào sâu trong đất của thiên triều?

    - Dạ điều này cũng ghi trong tín bài rồi ạ… Xin chủ tướng cứ đọc sẽ rõ…

    Viên đô bảo Cổ Vạn nổi nóng:

    - Ta hỏi thì nhà ngươi phải trả lời… Sao nhà ngươi dám bắt ta đọc…

    - Dạ kẻ hèn này đâu dám bắt chủ tướng… chỉ xin chủ tướng xét cho vì những điều ghi trong tín bài đều có thị thực kiểm chứng đầy đủ ạ.

    - Ta không cần biết… Ta hỏi ngươi phải trình cho rõ.

    - Dạ nguyên do chuyến hàng này kẻ hèn đi lo cho đám rước vu quy của công chúa thiên thành, nhưng cũng lo cho phò mã tù trưởng động Giáp sắm đồ sính lễ. Tù trưởng Thân Cảnh Phúc cũng gửi theo nhiều sản vật quý, cậy kẻ hèn này mang đến bạc dịch trường để đổi lấy những vật phẩm vô giá của thượng quốc. Bởi nhẽ ấy, tù trưởng động Giáp đã cắt cử những võ sĩ thân tín nhất để áp tải hàng thay vì lo việc thuê tiêu cục như thường lệ. Việc này đã được các quan giữ ải tra xét và chuẩn y…

    Viên đô bảo giáp gật gù:

    - Ta cũng cho là đúng… Nhưng còn mấy viên kia sao lại có mặt trong đoàn khách thương?

    - Dạ việc này cũng ghi trong tín bài ạ… Nguyên là chuyến hàng này rất lớn, mà là hàng của triều đình, nên việc cân đong đo lường phải làm nghiêm ngặt. Vì gần đây khách thương bên các bạc dịch trường thường đo sai cân thiếu… Tuy thước đo chung đều lấy mẫu từ nhà Chu, quả cân chung đều lấy khuôn của nhà Hạ, nhưng việc buôn bán biến hóa khôn lường… Triều đình bên nước tôi xin được cử quan lại coi việc chuẩn định đo lường đến tận nơi để sao lại thước, định lại quả cân để việc buôn bán giao thương từ chuyến hàng này không bị sai lệch…

    Viên đô bảo gật gù:

    - Nhà ngươi trình việc xem ra cũng có lý…

    - Bẩm chúng tôi là những khách thương quen thuộc, làm việc gì cũng rõ ràng… nếu chủ tướng thấy mọi việc rõ ràng, xin chủ tướng áp ấn trấn thủ cho phép chúng tôi được khởi hành sớm ngay bây giờ, kẻo lỡ dịp đón các thương gia lớn từ Cô Tô, Tứ Xuyên, Ba Thục, Giang Tây, Hồ Nam đang có mặt ở bạc dịch trường…

    Và khi cái ấn trấn thủ Cổ Vạn có chữ thị thực của viên thư lại giúp việc đô bảo giáp vừa hiện tiếp trên tín bài, khách thương Lý Chăm vẫy tay ra lệnh khởi hành. Và cũng với cái vẫy tay, không biết bằng cách nào, anh ta đã từ dưới đất nhảy lên phắt lên lưng ngựa ngồi xếp bằng tròn chễm chệ và lại tiếp tục vít cần rượu cắm trong cái bong bóng trâu óc ách ngất nga ngất ngưởng ung dung tự tại lên đường. Cứ bằng vào phong thái ung dung của anh chàng lái buôn Lý Chăm người gốc kẻ Cời xứ Đông Ngàn thì tưởng như cái đoàn ngựa thồ này nhẩn nha thong dong lắm…

    Xong việc quân, viên đô bảo Cổ Vạn xuống lệnh bãi binh. Các thổ đinh, động đinh thuộc các giáp, các đại giáp ghìm cương ngựa trở về với công việc còn dang dở của mình. Kẻ về cày nốt sá cày ngoài ruộng, người vội vã ngược lên ngàn bó lại gánh củi cành để gánh về ngày mai đón phiên chợ sớm… Họ ai oán nguyền rủa ngọn khói phong hỏa bốc lên vì cái việc không đâu làm mất ngày mất buổi của họ…

    Nhìn đám bụi hồng của đoàn ngựa thồ khuất mãi nẻo xa trên con đường thiên lý viên đô bảo giáp Cổ Vạn hả hê cười. Hắn móc từ trong tấm bối tử của bộ võ phục ra những đĩnh vàng vừa được đút lót, nheo mắt ngắm nghía. Vàng nặng trên tay và ánh lên trong mắt. Những thứ để hưởng hết niềm vui, và để tin chắc rằng vàng trên tay mình là có thật chứ không phải trong mơ, viên võ tướng đưa đĩnh vàng lên miệng ghé răng cắn thử.

    Răng nhọn của viên võ tướng vừa nghiến trên đĩnh vàng thì tiếng vó ngựa của quan thám mã lại vang lên ở trước cửa quán xá. Tên lính thám mã lao vào quán đường như một cơn gió lốc.

    Mắt viên võ tướng lại sáng lóe lên; tiếng hỏi của hắng dồn dập:

    - Lại có khách thương hả… khách thương Giao Chỉ hả?...

    Tên lính thám mã thở hổn hển như sắp đứt hơi, lắc đầu:

    - Bẩm… không… lệnh truyền của quan khâm sai tuần sứ.. là phải đốt lửa đài phong hỏa… huy động dân đinh bắt giữ ngay tên lái buôn Giao Chỉ họ Lý tên Chăm…

    Viên đô bảo Cổ Vạn rụng rời:

    - Sao… sao… sao… lại có lệnh ấy?...

    - Bẩm, có người báo cho thượng quan biết là tên khách thương họ Lý tên Chăm là một tên thám tử vào sâu trong lòng đất Tống để do thám… Phải bắt giữ ngay chúng lại giải về dinh quan khâm sai sứ ở thành Ung châu…

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Nhân sinh vô hối nhập Touhou
    Kiếp sau nguyện sinh Gensokyo

  3. #3
    Ngày tham gia
    Aug 2014
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    11,219
    Xu
    29,733

    Mặc định


    Chương 2




    Vậy Lý Chăm là ai?

    Hình tích con người này như thế nào? Có đúng như lời khai ghi trong tín bài hay đó chỉ là lời khai man trá. Tại sao với cái tín bài ấy, người họ Lý tên Chăm kia có thể vượt qua những mắt lưới thám tử Tống triều dầy đặc đi suốt chiều ngang vùng Hoa Hạ. Mãi cho đến quan ải cuối cùng này thám tử nhà Tống mới mò ra hình tích và phát lệnh truy nã.

    Lý Chăm đúng là tên thật của một khách thương kẻ Cời. Tên đó có ghi trong sổ đinh, sổ hộ, sổ đại hoàng nam lưu ở lộ Đông Ngàn. Đất Giao Châu xưa, thì hạt Đông Ngàn vẫn nổi tiếng là phong lưu, bạt thiệp. Bởi chưng đất này là đất cửa ngõ của chốn Kẻ Chợ đô hội nối với cả vùng núi rừng khê động mênh mông giàu có. Cũng là cái cửa ngõ của dân các động về chốn kinh kỳ. Hơn nữa đường này lại là đường giao thương chủ mạch từ đất Giao Chỉ sang đất Trung Nguyên. Đường này là con đường muối từ biển Đông ngược lên các khe động sang tận đất Hoa Hạ. Con đường này cũng là con đường buôn trâu từ các đồng cỏ cao nguyên về cấp cho dân đồng bằng cày cấy. Kẻ Cời từ lâu nằm trên đường giao lưu huyết mạch ấy. Nó không những là trạm nghỉ của những đàn trâu rời rừng về xuôi, mà cũng là những trạm đổi vai của những thuyền buôn muốn ngược ngàn của lái buôn. Bởi lẽ đó dân Kẻ Cời nổi tiếng là dân buôn sành sỏi. Rời cái cày cái cuốc trên mảnh ruộng hẹp hương hỏa ven sông, là cái làng Cời kẽo kẹt mua chợ gần bán chợ xa, còn trai làng Cời kẻ giong buồm vào Hoan Diễn, kẻ xuôi mái chèo ra Vân Đồn, lại có kẻ gài gươm ngang hông vỗ đàn ngựa thồ vượt đèo lội suối ngược lên buôn bán tận các khê động với các tù trưởng, hay sang đất Hoa Hạ cất hàng…

    Kể từ ngày nhà Lý kên ngôi, nhất thống cả nước, lập đô tại đất Thăng Long, biến đất này thành đất phát tích căn bản, thành thang mộc ấp của triều đình, nên dân ở đây nhất là lái buôn thuộc đất kẻ Cời, kẻ Thổ, kẻ Lim, kẻ Từ…lại càng được ưu đãi. Mà ưu đãi cũng phải, vì chính họ biết lấy muối cất từ phía Đông, phía Nam mang đi đổi sắt để triều đình có vật liệu đúc binh khí, ngược lên mỏ đồng Tụ Long đổi đồng để quan ngân khố mở trường đúc đồng, đầu tiên đúc đồng tiền Thuận Thiên đại bảo, đồng tiền đầu tiên của nhà Lý. Cũng chính những lái buôn này đã mua các thứ đồ quốc dụng ở bạc dịch trường vùng biên thùy nước Tống bằng cách đổi chác buôn bán để cho triều nhà Lý cũng huy hoàng tráng lệ chẳng kém gì triều đình nhà Tống đóng đô mãi tận Biện Kinh. Từ thủa bé, mới nứt mắt làm người cậu bé Lý Chăm đã được cha dẫn theo phường buôn kẻ Cời xuối phía Nam lấy muối, đóng thành sọt đan bằng tre lót lá gồi, bọc lá nón. Cứ mỗi sọt hai mươi lăm cân ta. Các sọt muối đóng lên thuyền chống, ngược lên thượng nguồn. Tại đây các sọt muối được cất lên lưng ngưạ thồ. Mỗi con ngựa thồ, chất được bốn sọt muối, vị chở được một tạ muối; muối ở vùng khê động quý hơn cả máu người. Muối đổi lấy trầm hương, xương hổ, ngà voi, sa nhân, cùng các thứ sản vật quý khác. Nếu tiện đường thì lại chở sản vật về kinh kỳ Thăng Long bán lấy lời. Còn nếu thuận đường thì lại đóng lên ngựa thồ vượt cửa ải quan vào đất Hoa Hạ, tìm đến các bạc dịch trường để đổi lấy những sản vật hiếm của đất Trung Nguyên mang về Thăng Long bán. Một quan tiền vốn bỏ ra mua một sọt muối ở phía nam, qua một năm lưu lạc gian truân, vào sống ra chết, đã có thể biến thành những lạng nhân sâm quý hơn những nén vàng, những tấm lụa Tô Châu, vóc Ba Thục, mỗi tấm đáng trăm quan tiền. Cái câu: “Một vốn bốn lời, nhất bản vạn lợi” có lẽ vì thế mà sinh ra.

    Ngay từ bé, Lý Chăm đã được cha dìu dắt nhận biết được điều đó. Cũng vì được theo cha xông pha giang hồ khắp núi rừng khê động, nên cậu bé Lý Chăm cũng hiểu những phút nguy gặp cơn bão rừng, gặp đàn thú dữ, và nhất là gặp những toán lục lâm, dữ như cọp beo, hùm sói. Cái chế luôn luôn như thanh gươm kề cổ những người lái buôn liều mạng. Nhưng hiểm nguy không làm chùn bước cậu bé ngỗ ngược thông minh. Lớn lên cậu theo đòi nghề của làng, nghề của cha, quanh năm giang hồ tứ xứ, nay kinh kỳ, mai biên ải với cái nghề bấp bênh mạo hiểm, lúc gặp thời trong tay có đến ngàn lạng vàng, nhưng thua lỗ hoặc bị cướp bóc, hoặc bị đắm thuyền, giữ được tính mạng thì hai bàn tay trắng… Rồi lại thu góp vay lãi làm lại từ đầu… Gian truân không kỳ quản… Nhưng đúng vào lúc gieo neo nhất, khi lái buôn Lý Chăm rơi vào cảnh trắng tay một lần nữa, mà không cào cấu đâu ra chút vốn liếng nhỏ nhoi về mạn chợ Cồn cất muối, ngược lên động Giáp, động Đặc Ma đổi trâu; Lý Chăm lang thang hết phường Hà Khẩu đến phường Bạch Mã để chạy vạy giật gấu vá vai… Không ngờ có một người từ nội cung ra tìm. Cái cảnh lái buôn không một xu ở hầu bao, dưới tay không có một chút hàng gì mà được khách vời, hơn nữa lại là loại khách quyền úy, hào phóng thì có còn thảm nào thảm hơn nữa. Lý Chăm vuốt bụng thở dài. Nhớ lại những lần cất được mẻ hàng lớn từ bạc dịch trường Đặc Ma, Vính Bình về, lại được nơi cung cấm vời vào, thì đúng y như trời cho của.

    Các cung nữ, các bà phi, đua nhau ném tiền ra mua hàng như mưa rào mùa hạ. Hàng càng quý, càng đắt tiền, họ càng tranh nhau mua. Giá đặt cao bao nhiêu cũng không ai kỳ kèo thêm bớt… Nếu lần này lại có hàng, thuyền từ bạc dịch trường Châu Khâm về không bị cơn sóng thần đột ngột nổi lên cuốn sạch, có phải bây giờ bốc ngàn vàng làm giàu trong giây lát không? Nghĩ cám cảnh cái thân lái buôn cạn vốn cùng đường, Lý Chăm đã toan vuốt bụng thở dài từ chối không vào hầu trong nội cung. Nhưng từ thời các vua Lý đầu tiên lập nghiệp, thể chế triều đình mới định, các phép luật không còn xuề xòa như thời các sứ quân, thời vua Ngô, vua Đinh… Vì thế các khách thương có ý biết sợ, không còn dám nhu nhơ như trước, như cái hồi triều đình mới bắt đầu kén cung tần mỹ nữ lập nội cung. Rập theo thể chế nhà Tần, nhà Đường… Đời các vua trước, các triều trước tuy có khi xưng đế lúc xưng vương, nhưng còn mải lo chinh chiến chống thù trong giặc ngoài, nên thể chế cung đình chưa định liệu chu đáo. Vua Lê Đại Hành còn đi guốc tiếp sứ, nơi hậu cung vài ba bà hoàng hậu đối đãi như hai ba bà vợ của các tù trưởng lớn, chưa có sự cách bức với dân chúng nhất là với khách thương. Quanh các bà cũng mới chỉ có vài mươi tỳ thiếp, dăm bày nữ tù nhân bắt được sau những cuộc chinh chiến… Đến nhà Lý, việc xưng đế đã thành, nhà Tống bận việc động binh thôn tính các chư hầu và chống nhau với các bộ tộc Liêu Hạ, lại vì nhụt chí sau chiến bại trước vua Lê Đại Hành, nên vùng đất Đại Việt thoát cảnh binh đao. Các vua Lý có thời gian để định lại triều cương dựng nền đế chế. Trong các việc tạo dựng kinh đô, các vua bắt đầu dựng nên khu nội cung, tuyển cung tần mỹ nữ, kén quan thị. Việc nội cung và triều đình bắt đầu phân cách từ đó. Nội cung thường có quyền thế đôi khi lấn lướt cả các quan đại thần. Lệnh của nội cung đòi không thể nào lần chần được. Vì thế lái buôn Lý Chăm phải tất tả theo viên thị vệ vào chầu.

    Lý Chăm ngạc nhiên vì không thấy có một bà phi nào hỏi mua hàng mình cả, mà người tiếp mình lại là một viên tướng trong nội cung. Viên tướng này, tạng người tuấn tú quắc thước, da trắng như mặt thư sinh, mắt đen sâu tròn như mắt cọp, môi đỏ nhưng môi mỹ nữ. Dáng điệu khoan thai trầm tĩnh. Lý Chăm giật mình. Như thế là thế nào nhỉ? Rõ ràng đây là hậu cung. Nơi hậu cung cấm kỵ tất cả đàn ông lai vãng tới. Vì đây là nơi ở cấm cung của các cung tần mỹ nữ, các bà tiệp dư, các bà nguyên phi, các bà hoàng hậu, hoàng thái hậu… Sao lại có người đàn ông tuấn tú như thế này lẩn quất trong hậu cung. Hơn nữa lại là một võ tướng dũng mãnh.

    Việc này có uẩn khúc chi đây. Thôi khôn hồn thì mình nên áp dụng thượng sách nhất trong ba mươi sáu kế sách của binh thư. Chứ biết đâu viên tướng này lọt vào hậu cung làm chuyện kinh thiên động địa, dây vào chỉ có chết oan ba họ chứ chẳng chơi đâu. Thôi chi bằng tìm cớ thoái thác cho nhanh. Nghĩ thế Lý Chăm vừa sụp lạy vừa định kể nguồn cơn bĩ cực của một lái buôn trắng tay. Nhưng chưa kịp tâu bày, vị võ tướng oai phong kia đã mỉm cười truyền rằng:

    - Ta đã biết cả rồi…bất tất ngươi phải giải bày dây cà dây muống nữa… Có đúng nhà ngươi đang trắng tay, lưng vốn không còn một đồng chữ hay không?...

    Khi nghe tiếng cất lên, Lý Chăm dần cảm thấy yên trong dạ. Đúng là tiếng nói của viên võ tướng này có điều khác lạ. Người có vóc dáng kỳ vĩ, oai phong nhưng tiếng nói lại trong như tiếng chuông ngân nga. Trong giọng nói như lanh lảnh tiếng bạc tiếng vàng. Đúng là không phải tiếng nói của một vị dũng tướng. Bằng sự thông minh, lịch lãm, Lý Chăm cố nhìn tận mặt vị tướng này, và anh ta vỡ lẽ ra ngay: trên mặt vị tướng không thoáng một sợi râu nào. Lý Chăm đã hiểu ra sự tình… Và yên tâm ngay. Không cần để mắt vị tướng cũng nhận ra cái nhìn khác lạ của người nói chuyện với mình. Mặt vị tướng chợt biến sắc một chút. Nhưng giọng nói của ông vẫn nhẹ nhàng thong thả:

    - Chắc hẳn nhà ngươi đang chạy vạy để vay vốn buôn… nhà ngươi cần bao nhiêu thì đủ?

    À ra thế… Lý Chăm bụng bảo dạ, thì ra viên tướng trong ngạch hoạn quan này muốn cho vay nặng lãi hoặc hùn vốn buôn bán đây. Mình bây giờ là con bạc khát nước, vừa thua một canh cháy túi, trắng tay. Mình cần tiền. Cần có vốn ấm lưng để gỡ lại. Nếu bây giờ đến quỷ sứ hiện về hứa cho vay tiền mình cũng nhắm mắt vay liều chứ nói gì đến cái ông quan thị này. Nhưng Lý Chăm băn khoăn tự hỏi không biết cái ông quan thị này có thể cho mình vay được bao nhiêu, để liệu bề mà nói cho khỏi hớ… Phân vân giây lát, Lý Chăm chọn nước đôi để nói:

    - Dạ đi buôn là cái nghề cần vốn, nhưng hỏi cần bao nhiêu vốn là đủ thì thật là khó trả lời…

    - Nhưng nhà ngươi đang trù tính buôn gì?

    - Bẩm quan lớn, nếu chạy được ít vốn tôi tính buôn muối ở Sơn Nam, ngược khê động đổi muối lấy trâu mang về bán ở vùng đồng ruộng lúa ạ…

    - Buôn muối đổi trâu thì nhà ngươi cần lưng vốn là bao nhiêu?

    - Dạ có một trăm quan thì buôn nhỏ, có một ngàn quan thì buôn lớn. Mèo nhỏ thì chỉ bắt đượt chuột nhắt thôi ạ…

    Vị võ tướng mỉm cười:

    - Hóa ra cái chí của nhà ngươi chỉ muốn làm đến con mèo to thôi ư…

    Lý Chăm nổi máu hào hùng lắc đầu:

    - Bẩm đại quan, cái chí của khách thương cũng chẳng khác gì cái chí của kẻ anh hùng, lúc cùng cũng phải biết thu mình giữ thế, lúc gặp thời cũng có thể nuốt nổi sao Đẩu sao Ngưu, khuynh đảo thiên hạ… Tôi gặp cơn khốn quẫn đành làm con mèo, nhưng mọc đủ vuốt nanh tôi sẽ làm con hổ con báo trên đại ngàn…

    Vị tướng cười hiền hậu:

    - Ta chỉ thử cái chí của nhà ngươi xem nhà ngươi có đúng là con hùm còn thiếu vuốt hay là con chồn con cáo quanh quẩn trong hang tối. Nếu là con hùm thiếu nanh vuốt thì ta chắp cho để làm hùm. Còn là con cầy, con cáo thì ta khuyên nhà ngươi lại lủi vào hang tối. Ta biết, ngay người đi buôn làm nghề khách thương cũng có kẻ có hùng tâm tráng chí… Ta đang cần tìm kẻ đó…

    Lý Chăm không thể ngờ được là lần gặp gỡ bất ngờ đó thay đổi cả cuộc đời giang hồ của người khách thương chỉ biết làm giầu. Và đến lúc đó Lý Chăm mới biết đến một võ quan cao cấp trong đội quân thị vệ của triều đình mang họ Lý tên là Thường Kiệt. Lúc bấy giờ sự nghiệp của Thường Kiệt còn khép kín trong cung cấm, chưa có công trạng gì vang dội ngoài triêu, nên chưa ai biết mấy. Lúc này Thường Kiệt đang giữ chức đô tri quân thị vệ trong cung thất. Thời đó là thời vua Lý Thánh Tông. Chức đô tri là chức đứng đầu các võ quan trong cung thất, trong coi tất cả mọi việc trong nội cung của nhà vua. Vua Lý Thánh Tông là một nhà vua có chí tự cường. Ngay từ khi lên ngôi đã lập tức xưng đế. Đặt lại quốc hiệu là Đại Việt. Tôn các vị vua sáng lậ ra triều Lý là Thái Tổ, Thái Tông. Mở rộng bờ cõi, thu nhập các man động ngoại biên làm chư hầu, kiềm chế sự bành trướng về phương nam của nhà Tống. Ngăn Chiêm Thành không cho theo nhà Tống để ép vào biên thùy phía nam của nước mình. Bắt Chiêm Thành phải theo mình. Với mưu đồ lớn lao ấy, Lý Thánh Tông cần người thân tín. Nhà vua đã chọn tể tướng là Lý Đạo Thành. Cất nhắc viên võ tướng hiện giữ chức đô tri trong cung cấm là người tài đức được tin cẩn lên làm tướng kiêm giữ cả việc nội cung lẫn việc triều chính, với chức Tổng hành quân hiệu úy. Ngày đêm lưu lại trong cung bàn việc quốc sự. Lý Thường Kiệt dâng nhiều mưu kế tự cường hợp ý Lý Thánh Tông, và tỏ ra người có nhiều mưu lược tài trí, Lý Thánh Tông cất lên chức kiểm hiệu thái bảo, là một trọng chức trong triều nhưng vẫn giữ trong nội cung. Tuy vậy Lý Thường Kiệt vẫn chưa nổi tiếng trong dân gian, vì thế mà đến ngay một người giang hồ tứ xứ, ăn mòn bát mòn đũa tại kẻ Chợ vẫn chưa biết rõ.

    Nhưng Lý Thường Kiệt là người có chí lớn, làm việc không cần cầu tiếng tăm danh vọng. Trong bóng tối âm thầm của nội cung ông ta âm thầm cắt cử mọi việc chuẩn bị. Lý Chăm là người được ông sai tay chân thân tín theo dõi, xem xét qua nhiều lần vào cung cấm buôn bán các thứ vật phẩm quý giá sau những chuyến viễn thương gian lao hào hùng. Con người này ông cần. Và ông cho gọi đến… Sau cuộc gặp gỡ đó ông cấp cho Lý Chăm một số vốn rất lớn, mở quốc khố của triều đình xuất ra những báu vật quý giá; lại sai đô thủy quân và các thợ giỏi của xưởng đóng thuyền, đóng cho Lý Chăm những thuyền mành rất lớn có sức bền chịu được sóng gió bể cả, sức buồm có thể thu gió lớn vượt đại dương, cắt những thủy binh vũ dũng sung vào hàng thủ hạ lo việc chèo lái. Trong khi thuyền đang nằm trên đà ở công xưởng, thì Lý Chăm bị giữ lại trong một cái am thờ Phật bà Quan Âm ở ngay giữa vòng cấm thành. Tại đó, ngày ngày Lý Chăm phải đọc các sách binh thư, xem các họa đồ các kiểu thành, các kiểu thuyền chiến, các loại vũ khí nhất là các loại máy bắn đá… Kiểm hiệu thái bảo Lý Thường Kiệt để mắt tới việc học của Lý Chăm hàng ngày. Sau đó, ông lại sai một cung nữ người Chàm đến dạy Lý Chăm học tiếng Chàm.

    Và khi ngọn gió bấc đầu tiên thổi lạnh con đường hòe dẫn ra bến Chương Dương, thì lái buôn Lý Chăm âm thầm bước lên thuyền, ra lệnh cho các thủy thủ kéo buồm ra khơi.

    Lần đầu tiên lái buôn Lý Chăm vượt hàng ngàn dặm biển vào tận kinh thành Phật Thệ, kinh đô Đồ Bàn, vào tận xứ Thủy Chân Lạp đầy cá sấu và trâu nước… Hết mùa gió bấc đến mùa gió nồm Lý Chăm mới trở về Thăng Long. Thuyền của Lý Chăm chở nặng nào ngà voi, tổ yến, quế cay, hồ tiêu, đồi mồi, da cá sấu, sừng tê giác, trầm hương, ngọc trân châu, kim cương xứ chùa Tháp… Trong đời giang hồ buôn bán chưa bao giờ lái buôn Lý Chăm lại thu được một chuyến hàng viễn thương lãi đến thế… Nhưng có một khoản lãi mà không ai ngoài quan kiểm hiệu thái bảo Lý Thường Kiệt biết lại lớn hơn nhiều. Khoản lãi đó là những tin tức sát thực về việc sứ thần của triều Tống đã đến Chiêm Thành, theo lệnh của Tống Thần Tông, và mưu của tể tướng Vương An Thạch, xui vua Chiêm cất quân đánh vào Thăng Long. Vua Tống phong vương cho vua Chiêm về việc ấy, không những thế còn hứa hẹn sẽ cho quân đánh từ biên thùy phía bắc xuống để trợ giúp. Mặt khác sứ giả của Tống Thần Tông lại vào tận vương triều Chân Lạp, xui Thủy Chân Lạp đánh vào phía nam vương quốc Chiêm, Lục Chân Lạp đánh vào phía Tây vương quốc Chiêm… Tất cả các vương triều kia đều có chí bành trướng nên nghe theo lời xui giục, đang ráo riết chuẩn bị động binh. Binh lửa sẽ tràn ngập khắp nơi. Đại Việt sẽ lâm vào thế bị ép trên đe dưới búa. Mà vương triều Chiêm Thành cũng sẽ kiệt quệ sau cuộc chiến với ba phía o ép… Lúc bấy giờ, đại quân Tống chỉ còn mở cuộc nam chinh thôn tính tất cả…

    Biết được tin ấy cùng với những họa đồ cơ mật về sự phòng bị của Chiêm Thành, Lý Thường Kiệt xin vua Lý Thánh Tông ra tay trước để trừ mầm hậu họa. Nhà vua ưng thuận và sau chuẩn bị thuyền chiến. Lý Thường Kiệt sai các động trên thượng du hạ cây gỗ lớn đóng bè thả xuôi theo các dòng sông. Lập các xưởng lớn để đóng thuyền chiến. Lý Chăm được lệnh chở hàng vạn thạch muối lên các vùng man động để đổi lấy nhựa sắn thuyền và nhựa sơn để xăm thuyền và sơn các thứ chiến thuyền. Về binh lính, Lý Thường Kiệt kiểm lại các vệ thân quân. Đó là quân tinh nhuệ của nhà vua, có thích chữ thiên tử quân trên trán theo kiểu thích chữ chàm. Cứ hai trăm lính kiêu dũng vào loại thiên tử quân đó hợp lại thành một quân. Cứ mười quân hợp lại thành một vệ. Đóng giữ hoàng thành khi bình thời, gặp giặc ngoại xâm thì giữ kinh thành, khi vua đi chinh phạt thì theo xa giá. Đời Lý Thái Tông, thân quân cấm vệ chỉ có mười quân, cả thảy chỉ có hai ngàn người là lính chiến thường trực. Thấy cấm quân như thế là quá ít, Lý Thường Kiệt xin kén thêm sáu quân cấm vệ nữa lập thành tả hữu mười sáu quân. Số quân cấm vệ tinh nhuệ có tổng cộng ba ngàn hai trăm người.

    Đối với loại sương binh, Lý Thường Kiệt cũng định lệ rõ ràng kiểm quân nghiêm ngặt. Trai tráng cứ đến mười tám tuổi là được sắm vũ khí đi phen rèn luyện tập võ nghệ, và phải ghi tên vào sổ quân. Để quân thêm tinh nhuệ, Lý Thường Kiệt định lệ mới là hàng tháng tất cả các binh lính thuộc sương quân phải hội lại đi phen một kỳ ngắn. Kỳ phen tùy theo việc rèn luyện thao lược có thể vài ba ngày, cũng có thể kéo đến năm sáu ngày. Khi bình thòi các kỳ phen không ảnh hưởng gì đến việc cày cấy của người lính gửi trong nghề làm ruộng, làm thợ. Khi động sự thì cất quân của từng hạt từng lộ, từng chiếng chia cho các tướng. Việc đi phen của lính không làm ồ ạt mà gọi luân phiên, hết đợt này đến đợt khác. Đến nay, các kỳ phen của quân tứ chiến đều có buộc quân tứ chiếng đều có buộc lính phải tập bơi lội, rèn cách đánh trên sạp thuyền, đánh đổ lên bộ từ thuyền cập bến… Việc đưa quân vượt biển đã rõ ràng.

    Việc chuẩn bị dồn dập kéo dài suốt năm Mậu Thìn, tính theo dương lịch là năm 1068. Đến cuối năm, Lý Thường Kiệt đã xin vua Lý Thánh Tông cho duyệt thủy đội, kiểm thực các chiến thuyền lớn mới đóng và truyền chỉ sung công những thuyền của dân đánh cá và lái buôn. Tháng giêng năm sau, nhà vua truyền gọi nhập quân từ khắp nơi lấy năm vạn lính chiến kiểm điểm đội ngũ, đóng trên bốn trăm chiếc thuyền chiến và thuyền đinh được đặt thêm các phiến gỗ chắn tên. Số chiến thuyền mới đóng suốt một năm tuy đã có tới hai trăm chiếc nhưng vẫn chưa đủ dùng, vì thế nhà vua sung cả thuyền lẫn chủ thuyền và lái buôn vào trong quân để lo việc chở lính và vận chuyển lương thảo.

    Lúc bấy giờ là thời mà nguyên phi Ỷ Lan được sủng ái. Nguyên là do Hoàng hậu Thượng Dương không sinh được con trai. Vua Lý Thánh Tông lo lắng mong mỏi có hoàng tử nối ngôi sau này, vì thế nhà vua lập đàn cầu tự ở các chùa chiền linh thiêng trong nước. Một lần lên Kinh Bắc lễ phật, xa giá nhà vua dừng lại bên một đồi dâu. Nhà vua nghe thấy tiếng hát trong trẻo thanh tao của một cô gái đang hái dâu trên đồi. Tiếng hát như xui khiến nhà vua phải dừng chân, xuống kiệu, tìm đường đuổi theo cái âm thanh trầm bổng ngân nga một bài ca dân dã mộc mạc. Lần theo tiếng hát nhà vua thấy có một cô thôn nữ đang dựa vào gốc dâu mà hát. Cô thôn nữ lập tức được triệu về kinh, nhập vào hàng ngũ cung phi. Không phải chỉ có tiếng hát mà sắc đẹp mà, tài trí thông minh của cô gái đã làm say đắm một nhà vua có chí tự cường. Nhớ lại kỷ niệm cô gái dựa cành dâu mà hát, nhà vua truyền đặt tên bà nguyên phi mới là Ỷ Lan. Ỷ Lan nguyên phi được nhà vua vô cùng yêu dấu. Và tình yêu càng nồng thắm hơn khi Ỷ Lan nguyên phi sinh hoàng tử Càn Đức. Cũng vì lòng yêu dấu ấy mà Lý Thánh Tông trao quyền bính trong triều cho Ỷ Lan nguyên phi cùng thái sư Lý Đạo Thành, còn mình thì thân cầm quân đánh giặc. Trước ngày phát binh, Lý Thánh Tông mở hội Long Trì và gọi quần thần đến trước đền Đồng Cổ phát nguyện lời thề thiêng liêng: Làm con bất hiếu làm tôi bất trung thần linh giết chết. Lần đầu tiên có một lái buôn được dự buổi hội thề linh thiêng trang trọng đó, trong công việc của triều đình. Lý Chăm hiểu và biết ơn cái ơn tri kỷ của viên tướng kiểm hiệu thái bảo Lý Thường Kiệt. Khi phát binh, Lý Thường Kiệt được phong làm tướng tiên phong.

    Vào tháng hai năm Tý, vua Lý Thánh Tông hạ chiếu chinh phạt Chiêm Thành. Nhà vua bước lên thuyền chiến long chu trong tiếng trống đồng dậy đất và cờ bay rợp cả dòng sông đỏ ngầu như máu. Đoàn chiến thuyền trải dài trên dòng sông đi qua hành cung Lý Nhân nhằm cửa Đại An mà tiến ra biển. Bảy ngày sau, đoàn chiến thuyền hùng vĩ đỗ lại Cửa Hội của miền Hoan Diễn. Ba ngày sau thuyền giong buồm tiến thẳng đến cửa Nara Giới. Cửa biển cuối cùng của nước Đại Việt vào thời đó. Từ trên thuyền ngự chiến, vua Thánh Tông còn nhìn thấy những đám cháy do thủy quân Chiêm Thành gây nên. Bởi cửa biển này gần biên giới, nên quân Chiêm thường kéo ra đánh phá.

    Các tướng muốn dừng chân lại nơi tận cùng của đất nước, nên đã chèo thuyền nhẹ đến chầu vua tại thuyền Kim Phượng. Nhà vua còn phân vân chưa quyết thì Lý Thường Kiệt đã tâu rằng:

    - Tâu bệ hạ, theo lời tấu trình cặn kẽ của người lái buôn họ Lý tên Chăm, thì tư đây vào sâu trong vùng biển Chiêm Thành có liên tiếp ba cửa bể. Cửa thứ nhất tên là Di Luân, tuy sâu nhưng hẹp, cửa thứ hai là cửa Bố Chánh tuy rộng nhưng nước nông. Quân Chiêm có đóng quân ở đấy nhưng không đáng kể, chỉ vừa đủ kéo nhau ra quấy nhiễu bờ cõi nước ta tại đây mà thôi. Ta nên kéo thuyền qua, làm cho chúng thấy đại đạo chiến thuyền của ta mà tự vỡ mật vì sợ chứ không cần đánh. Cửa thứ ba là Cửa Lệ, là nơi tập trung toàn bộ thủy quân của quân Chiêm. Ta phải kéo quân vào đánh tan ngay tất cả chiến thuyền của vua Chiêm đóng tại cửa bể này, làm chúng không kịp trở tay. Đỗ thuyền tạo đây hay tấn công vào cửa Di Luân, Bố Chánh đều là đánh động cho quân của giặc phòng bị… Ta khó mà ra quân một trận đánh tan thủy hạm của cái vương quốc sống bên bờ biển cả này.

    Nhà vua khen phải, và sai giương buồm trực chỉ Cửa Lệ tiến đánh. Chỉ năm ngày sai thuận theo gió mùa, rừng cột buồm như rừng chông của quân cảng quân Chiêm đã hiện ra trước mặt. Vua Thánh Tông sai viên tướng Liêu Ban dẫn đoàn thuyền nhẹ gồm những dũng sĩ vùng biển Hải Đông thiện chiến nhằm thẳng vào quân cảng tiến đánh. Quân thủy của Chiêm Thành vốn là đạo quân thủy thiện chiến nhất vùng biển phía nam, nên rất khinh thường khi thấy một đoàn thuyền nhẹ lao như tên bắn tấn công mình. Chúng kiêu căng giương buồm nhổ theo sai quân chèo thuyền ra chặn đánh. Nhưng chúng không ngờ, thuyền nhẹ lại được đà gió thuận cứ ầm ầm lao vào giữa thủy đội làm cho chúng chống đỡ khá vất vả. Ngay trong lúc lúng túng trước sức tấn công như vũ bão của hàng trăm thuyền đinh nhẹ như mũi tên thì bên sườn tả hữu tiếng trống đồng đã gầm vang động mặt bể. Bên tả là thuyền chiến nặng của nguyên súy tiên phong Lý Thường Kiệt giương hết mọi lá buồm ầm ầm rẽ sóng tiến đánh. Bên hữu thì những lá thuyền mành đã vòng ngoài khơi tiến tới từ lúc nào, buông lèo dàn thế trận quyết không để cho một tên thủy binh Chiêm nào chạy thoát về tới kinh đô Đồ Bàn. Trên các thuyền của quân Đại Việt, những mũi tên lớn như những mũi lao lắp trên những cánh cung cứng mạnh đã bắt đầu châm lửa. Đó là loại hỏa tiễn. Trên đầu các mũi tên ngay ở phần sau mũi nhọn có cạnh sắc, có tẩm dầu và đắp sơn ta. Khi cung đã được ba người lính khỏe mạnh giương cánh, đặt mũi tên đặc biệt lên giá, thì một thuỷ thủ cầm sẵn bó đuốc châm lửa. Cánh cung được đặt trên giá bắn di động trên giá bắn di động trên đầu mũi thuyền. Các xạ thủ ngắm đích rồi giật lẫy nỏ, mũi tên lập tức bay đi như một ngôi sao chổi, cắm phập vào thuyền giặc và thuyền giặc sẽ bắt lửa cháy bùng… Cả một trận mưa lửa như sao sa dội suốt một ngày dài trên quân cảng của hải quân Chiêm. Mặt bể mỗi lúc một bốc lửa ngùn ngụt. Cho đến đêm thì suốt mấy chục dặm biển bập bùng những chiến thuyền bị thiêu đốt nổi bồng bềnh trên sóng nước. Những chiếc thuyền chiến cố gắng vượt vòng vây lửa chạy ra ngoài đều bị những trạo nhi dùng câu liêm ghìm lại đánh khốc liệt. Câu liêm là thứ vũ khí độc đáo của thủy quân Việt. Các trạo nhi Đại Việt có thói quen dùng những câu liêm của có mũi nhọn như mũi thương, vừa có ngạnh sắc như mũi giáo và có móc cứng như neo thuyền. Tất cả những công dụng vô cùng lợi hại ấy lại được cột chặt trên một thân tre vòi mềm dẻo nhẹ nhàng, có độ dài chừng mười sải tay, tức là gần ba mươi thước ta. Khi thuyền chiến sắp trận gặp thuyền giặc, các trạo nhi Đại Việt có thể dùng câu liêm đâm thủy thủ giặc ở trên thuyền khi còn xa, kéo ngã thủy thủ giặc khi xuống nước, ghìm đứt dây lèo, trói buộc thuyền giặc. Món võ câu liêm Đại Việt là món võ bí truyền, vừa nhu vừa cương, vừa táo bạo, vừa thần tốc. Biết bao thuyền chiến Chàm tìm đường thoát thân bị thứ vũ khí câu liêm ghìm lại tiêu diệt… Cả thủy trại và quân cảng Chàm bùng bùng cháy suốt một đêm dài… Khi mặt trời đội sóng nhô lên khỏi mặt biển thì quân cảng Cửa Lệ chỉ còn lại những mảnh thuyền cháy đen và những vết máu loang trên mặt biển…

    Tiếng trống đồng thúc trận suốt đêm vẫn vang rền trên sóng nước… các đồn trại trên cạn của bộ lính Chàm với hàng chục thớt voi chiến hoảng loạn. Lý Thánh Tông chỉ mũi gươm báu về phía các đồn trại trên bờ cát trắng mênh mông ra lệnh cho quân ta đổ bộ lên chiếm đất, phá thành trì của giặc. Nhưng tướng Lý Thường Kiệt vội can rằng:

    - Muôn tâu bệ hạ, ta cất quân chinh phạt lần này đâu phải vì lẽ cần chiếm đất người, mà tiến phạt vì giữ đất ta, trừng trị những kẻ đánh phá ta… Vì thế kẻ hạ thần thấy rằng, ta đã đánh ta đạo thủy binh mạnh nhất của giặc chuyên quấy phá biên thùy ta, kiềm chế ta, như thế là việc đây đã thành rồi. Việc gì ta phải bận tâm chiếm lấy cái thành ghép thân dừa trên cát trắng khô cằn kia để mất thời giờ vàng ngọc quý báu… tạo thêm cơ hội cho chúa giặc có thể chạy trốn hoặc phòng bị… chi bằng phá xong đạo thủy binh cản đường này, ta thừa thằng tiến thẳng đến thành Đồ Bàn, gọi chúa giặc ra hỏi tội, nhanh chóng tỏ rõ uy đức của bệ hạ ở phương nam.

    Lý Thánh Tông khen phải và truyền cho toàn đạo thủy sư giương buồn đè sóng vượt qua những đám thuyền giặc còn ngùn ngụt cháy, khói và tro than bốc bên mù trời để tiến thẳng về phía cửa biển Thi Nại…

    Đoàn thủy quân hùng hậu của Đại Việt cứ men theo bể tiến về phía nam, dọc theo những bờ cát trắng mênh mông. Thuyền đi ròng rã bốn ngày đêm mới hết dải cát Đại Tràng Sa Đến ngày thứ năm thì đợt gió mùa ngớt lặng. Cửa biển Tư Dung đã hiện ra trước mặt. Nhà vua thấy quân đội đã mỏi mệt, nếu cứ cố đi phải chèo lái vất vả bèn xuống lệnh cuốn buồm vào nghỉ tạm trong phá để chỉnh đốn quân cụ vũ khí và xuất khi khao quân sĩ. Hải quân Chiêm đã bị đánh tơi bời nên không còn một trở ngại gì đáng kể nữa. Thấy bóng chiến thuyền hàng trăm chiếc giăng đầy mặt phá mênh mông là quân Chiêm và thuyền chiến Chiêm đã bỏ chạy cả.

    Vốn là kẻ đã vào tận cửa bể Thi Lị Bị Nại và dân lái buôn quen gọi rút ngắn là Thị Nại để lên thành Phật Thệ buôn bán nên Lý Chăm hiểu đường đất vùng này, vì thế Lý Chăm xin gặp vị nguyên soái Lý Thường Kiệt mà can rằng:

    - Từ cửa Tư Dung này đến của Thi Lị Bị Nại còn sáu ngày đường biển nữa, vùng này ngoài ngọn gió bấc thổi ngược còn có gió đông thổi từ biển thổi vào và gió tây thổi từ núi thổi ra. Khí ở đây nóng, nên ban ngày gió thổi từ đất liền ra Biển Đông, ban đêm gió từ Biển Đông thổi vào đất liền. Lái buôn vùng này, khi tắt gió bấc gió nồm thì thường nương theo gió biển, gió đất mà giương buồm đi theo lối con thoi đan sợi trên biển… Tôi thấy quân ta không nên bỏ lỡ ngọn gió gần mà đợi ngọn gió xa… Xin tướng quân suy xét.

    Lý Thường Kiệt nghe ra lẽ nên xin với nhà vua ra lệnh cho quân nhỏ neo giương buồm nương gió biển gió đất đan trên mặt sóng để vào cửa Thi Lị Bị Nại… Quả là không cần chờ con gió bắc mới, mà sáu ngày sau, đại quân đã kéo qua cửa Thi Lị Bị Nại tràn vào sông Tu Mao. Đại tường trấn thủ của Thi Lị Bị Nại của Chiêm Thành là Bố Bì Đà La đã nghe uy danh từ trận thủy chiến Cửa Lệ truyền về đã hoảng hốt dàn ba vạn quân trên đống cát trắng bày trận, lập lũy bằng những thân cây dừa nối với nhau cao mấy trượng.

    Vua Lý Thánh Tông sai đóng hạm đội từ biển suốt dọc lòng sông nhưng chưa biết nên động tĩnh thế nào, vì trước mặt quân mình là một bức thành cao bày thế trận trên bờ cát trắng. Đánh loại lũy thành trên cát như thế này đúng là quân tướng ta chưa quen. Nhất là quân giữ thành của tướng giặc Bố Bì Đà La lại đông đến ba vạn tên. Riêng Lý Thường Kiệt thì không có gì do dự cả, bởi vì trong lần đi buôn xứ Chiêm vừa rồi, theo lệnh của ông, lái buôn Lý Chăm đã xem xét kỹ càng từ thành trì đến binh khí giặc, nên ngay từ khi chưa xuất binh khỏi Thăng Long Lý Thường Kiệt đã biết chắc tằng giặc sẽ dựng thành như thế nào mà trù tính trước cách công phá. Trù liệu cả các vật dụng khí cụ đánh loại thành dừa lạ lùng này. Vì thế mà dù nhà vua có do dự, thì Lý Thường Kiệt vẫn xin vua cho mình và em trai mình là Thường Hiến kéo quân đổ bộ lên đánh thành.

    Được vua bằng lòng, Thường Kiệt sai quân mang khí cụ đã dự phòng sẵn là những mũi tên tẩm dầu sơn nhiều có đến mấy vạn mũi. Lại sai quân khiêng những cây nỏ Liên Châu có cánh cung cực lớn vốn đặt trên thuyền lên trước mặt thành. Tên của nỏ Liên Châu cũng kén lại tên có bộ phân tẩm thuốc và dầu cháy. Nhà vua thấy Thường Kiệt không chở máy bắn đá lên đánh thành thì nhắc. Nhưng Thường Kiệt tâu rằng:

    - Thành dừa là một loại thành vô cùng lợi hại. Máy bắn đá dự phòng trước để đánh thành Đồ Bàn Phật Thệ thôi, vì đó là thành đá ong. Chứ đối với thành dừa, máy bắn đá không làm gì nổi. Vì dừa là loại cây thân không cứng nhưng dai, dao búa chặt khó đứt, đá bắn vào không vỡ… Chỉ có một cách bắn tên lửa vào để đốt dần…

    Theo lệnh của an hem Thường Kiệt năm vạn quân ta dàn quanh bức thành dừa dài hai dặm, nhưng không công phá ngay mà chỉ đứng ngoài tầm tên đạn giặc bắn tên lửa vào chân thành để đốt. Hàng vạn hàng vạn mũi tên lửa được bắn tới tấp vào những cây dừa khô chôn trong cát bỏng… Quân ta lại được lệnh liều chết đẩy những xe chất phóng hỏa áp sát vào bức thành dừa và đốt cháy mù mịt… Giặc giữ thành không thể có cách nào cứa chữa. Những kẻ liều mình lao lên mặt thành dội nước hoặc phủ cát dập lửa thì bị các dũng sĩ ta dùng câu liêm dài vít cổ ngã xuống chân thành, hoặc bị những tay thần tiễn bắn chết tươi… Lửa ngút trời, thành dừa bị cháy. Dừa là thứ cây có dầu, nên khi đã bắt lửa thì sức cháy thật là khủng khiếp không có cách gì cứu nổi… Thành cháy làm ba vạn quân giặc dẫm đạp lên nhau để tháo thân ra hai lối tả hữu. Không ngờ quân ta đã đoán trước điều đó, trong khói lửa mịt mù, Thường Kiệt đã sai em dẫn một cánh quân, tự mình dẫn một cánh quân, đi luồn trong khói lửa vòng ra phía tả hữu thành dừa chờ sẵn.Quân địch vừa đạp lên mình nhau chạy ra đã bị quân ta đón đánh chém giết dữ dội…

    Ngay ngày hôm ấy ba vạn quân của tướng Bố Bì Đà La tan vỡ.

    Thừa thắng Lý Thánh Tông kéo đại quân tiến đánh thành Đồ Bàn là nơi đóng đô của vua Ru-dra-var-man mà các lái buôn ta ngay từ hồi ấy quen gọi là vua Chế Củ. Nhưng khi đại quân đến nơi thì thì thành Đồ Bàn đã bỏ trống. Vua Ru-dra-var-man đệ tam đã chạy về phía nam trốn ở đô thị sầm uất giàu có của Pan-du-ran-go. Lý Thánh Tông đóng đại binh tại kinh đô Đồ Bàn Phật Thệ, sai Lý Thường Kiệt làm tướng tiên phong đi bắt Ru-dra-var-man đệ tam. Hơn một tháng trời ròng rã, Lý Thường Kiệt dẫn quân đánh bắt, nhưng vùng nam nước Chiêm Thành là một vùng đồng đất phì nhiêu, dân cư cứng mạnh đông đúc, giao thương buôn bán phồn thịnh, nên vua Chiêm chạy về đây như cọp chạy về rừng, nhanh chóng thu được một lực lượng rất lớn cự nhau với Lý Thường Kiệt.

    Những ngày tháng đóng quân lại trong thành đô hoang vắng của nước Chiêm Thành làm cho chính nhà vua Lý Thánh Tông cảm thấy bồn chồn lo lắng. Khi ra đi, vì một lòng yêu si mê mà nhà vua đã trót trao quyền biính cho một bà nguyên phi sinh được thái tử nối ngôi. Bà nguyên phi vốn là người dân dã, mới vào tiến triều chưa được mấy năm, vây cánh thế lực chưa có. Việc giao quyền cho nguyên phi Ỷ Lan làm cho thái hậu Thượng Dương hết sức buồn rầu phẫn khích. Điều đó ngay từ lúc quyết định giao quyền trị nước, vua Thánh Tông cũng đã nhận thấy. Phần vì muốn làm giảm đi sự phẫn khích đó, phần vì sợ nguyên phi Ỷ Lan bỡ ngỡ với việc ở trong cung ngoài triều không đảm đương nổi trọng trách, gây ra tai vạ, nên nhà vua đã giao thêm cho tể tướng trung thành Lý Đạo Thành cùng giúp nguyên phi Ỷ Lan chấp chính…

    Lý Thánh Tông đã tưởng khu xử thu xếp như thế là chắc chắn lắm rồi. Nay ngồi giữa kinh thành vương quốc Chàm bị bỏ trống nhà vua mới cảm thấy lo sợ. Lo sợ vì hoàng hậu Thượng Dương. Dương hoàng hậu được tấn phong hoàng hậu đã lâu, lại vốn là con gái của một vị quan khâm sứ đã được phong tước hầu. Vây cánh ắt hẳn không thể không có trong quan triều ngoài các phủ đệ, có khi còn lan ra cả tứ chiếng. Tể tướng Lý Đạo Thành khi biết vua định giao việc chấp chính cho Ỷ Lan đã hé ra một lời can gián, và bóng gió nhắc đến tên hoàng hậu Thượng Dương. Nhưng lúc đó nhà vua không để tâm nhiều. Bây giờ ngồi trong khu hoàng thành bỏ trống này Thánh Tông mới giật mình hoảng sợ. Một ý nghĩ sắc như dao xuyên vào tâm trí nhà vua. Ngộ nhỡ hoàng hậu Thượng Dương lôi kéo được Lý Đạo Thành về phe mình thì số phận của Ỷ Lan và hoàng tử Càn Đức rồi sẽ ra sao? Thánh Tông biết tâm tính vị trung thần Lý Đạo Thành lắm. Đây là một vị quốc công trung thực, luôn trọng lễ nghĩa. Nên vì trọng lễ nghĩa, ông ta đã dám can vua khi vua định giao quyền nhiếp chính cho Ỷ Lan nguyên phi, không sợ nhà vua quở phạt trách cứ, không sợ nguyên phi Ỷ Lan thù oán có thể hại đến tính mạng. Cũng vì trọng rường mối cương thường, nên ông sẽ dễ dàng ngả về phe Thượng Dương hoàng hậu…

    Nghĩ đến tình thế này, vua Lý Thánh Tông bồn chồn thấy là không thể nào cứ ngồi chết gí trong cái kinh thành bỏ trống này mãi được nữa. Việc bắt chúa Chiêm Thành giờ cũng chưa xong, bây giờ cả hoàng tộc Chiêm đã chạy xuống phía nam, nếu đánh rát quá nó chạy sang Chân Lạp chả lẽ lại tiến quân sang đánh nước Chân Lạp để bắt ư? Chi bằng coi như đánh vào kinh đô là đã đại thắng rồi, thu quân trở về Thăng Long gấp đề phòng mọi hậu họa. Nghĩ vậy nhà vua thu quân đòi nguyên súy Lý Thường Kiệt về thương nghị.

    Nghe chỉ của nhà vua, Lý Thường Kiệt cúi đầu tâu rằng:

    - Xin bệ hạ cho thần thêm mấy ngày nữa. Hạ thần nhất định sẽ dẫn Chế Củ đệ tam về đây, lúc đó ta báo thắng cũng chưa muộn gì.

    - Chờ mấy ngày thì ta chờ được, nhưng ngộ nhỡ Chiêm Thành kết hiếu với Thủy Chân Lạp thì đại quân ta sẽ sa lầy trong vùng sông ngòi đầy cá sấu này mất.

    - Muôn tâu bệ hạ, điều đó không phải lo. Theo người lái buôn Lý Chăm thì các sứ thần của nhà Tống và các thương nhân người nước Tống đã làm một việc thành công ghê gớm. Thành công đó lại rất có lợi cho ta.

    - Ngươi hãy tâu trình cho ta rõ.

    - Bẩm muôn tâu hoàng thượng, thành công của các lái buôn và các sứ thần nước Tống ở hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp là làm cho hai vương quốc thù oán nhau không đội trời chung, luôn mang đạo binh ra để rửa thù. Vì thế vào nước cùng đường thì vua Chiêm chẳng những không dám cầu viện vua Chân Lạp, chỉ sợ vua Chân Lạp bắt giết mà thôi. Vì thế vào bước tuyệt đường sống thì vua Chiêm chỉ có một cách duy nhất là ra hàng ta.

    - Thế cái tên lái buôn Lý Chăm đâu, gọi nó ra đây cho ta hỏi.

    - Muôn tâu hoàng thượng. Lý Chăm đã dân kế lập một đoàn sứ giả và khách thương, kéo vào Chân Lạp, làm thế hư binh, ép vua Chiêm phải ra hàng. Nay đoàn thương thuyền và đoàn thuyền sứ do Lý Chăm dẫn đã lên đường… Lên đường đi qua khúc sông trước cửa thành Pan-đu-ran-gô nơi vua Chiêm đang cố thủ với năm vạn quân mới tuyển mộ. Chỉ dùng vũ lực muốn hạ thành này ta cũng phải bỏ mạng hàng vạn sĩ tốt… Nhưng chỉ cần một đoàn sứ thần giao hiếu là Chế Củ sẽ tự trói mình để ra hàng, vì Chế Củ tưởng sẽ có quân Chân Lạp tiến đánh đằng sau lưng…

    Lý Thánh Tông khen phải và đóng quân lại chờ thêm một tuần trăng nữa tại kinh đô Đồ Bàn… Nhưng nhà vua không phải chờ quá lâu, chỉ ba ngày sau cuộc hội kiến ấy, Lý Thường Kiệt đã dẫn chúa Chiêm Thành là Chế Củ đệ tam với vòng dây thừng buông thong nút trên cổ. Vua Chiêm đã tự xin hàng. Lý Thánh Tông mỏ tiệc khao quân ngay trong cung điện của vua Chiêm Thành. Trong bữa tiệc, vui chén rượu vua đã tự thân cầm khiên rút gươm múa trước văn võ bá quan trong tiếng trống đồng hùng tráng. Sau đó nhà vua sai phá thành trì của kinh đô Đồ Bàn nương theo ngọn gió nồm tháng năm đầu tiên kéo đại quân về Thăng Long, dẫn theo Chế Củ đệ tam, Chế Củ đệ tam xin dâng đất ba châu Bố Chính, Đại Lý, Ma Linh. Lý Thánh Tông chấp thuận tha cho về nước và hộ tống về kinh đô Đồ Bàn, lại phong làm quốc vương của Chiêm.

    Trong trận bình Chiêm này, Lý Thường Kiệt từ một chức quan võ trong nội cung đã nổi lên như một công thần bậc nhất của triều Lý. Nhà vua đã nhận làm Thiên tử nghĩ nam, ban tước Thượng trụ quốc, Khai quốc công, giao chức thứ ba triều đình trong hàng tể chấp là Thái phó, giao quyền bính vào hàng thứ hai trong quân đội là tiết độ sứ. Chỉ sau tể tướng Lý Đạo Thành có một bậc. Lập công lớn, Lý Thường Kiệt đuợc giao quyền bính trong triều, nhưng ông không quyên các sĩ tốt đã vì ông gian lao đánh dẹp, người ông nhớ đầu tiên là khách thương kẻ Cời tên Chăm họ Lý. Ông định giữ lại ban cho tước lộc, cắt cử làm quan. Nhưng Lý Chăm chắp tay mà thưa rằng:

    - Bẩm tướng công, cái máu giang hồ của khách thương đã chẳng bao giờ đổi được, nên tướng công tha cho việc phải nhận phẩm hàm quan tước… Tôi biết rằng tướng công ban quan chức là để khen thưởng công lao khó nhọc của tôi… Tôi cảm cái ơn tri ngộ ấy… Nhưng thưởng cho tôi tốt nhất là thưởng hàng hóa để tôi lại được trôi nổi giang hồ…

    Chiều lòng lái buôn Lý Chăm, quan Thái Úy đã xin mở kho quốc dụng kén cho những chiến phẩm quý của vương quốc Chiêm Thành, lại cấp thêm thuyền cho Lý Chăm đi buôn mạn bắc, cảm cái lòng tri kỷ của vị trọng tướng trong triều, gã lái buôn bán trời không văn tự bạt mạng giang hồ chắp tay mà thưa rằng:

    - Tôi là kẻ giang hồ tứ chiếng bạt mạng nhưng không lúc nào không nhớ như tạc trong lòng rằng mình là con dân Đại Việt… Vậy khi quốc gia hữu sự, xin thái úy cứ cho người đến tìm tôi, tôi thề sẽ xả thân vì việc nước…

    Tuy thời ấy khách thương không được các nho thần xếp vào hạng người quân tử, nhưng Lý Chăm vẫn giữ được chữ tín của kẻ trước sau chỉ nói một lời chắc hơn đinh đóng cột, hơn dao chém đá. Trở về với cái trí buôn bán giang hồ của mình, Lý Chăm sau lần cất hàng đi Vân Đồn, đi Khâm Châu gặp được thêm các lái buôn người Quả Oa, người Lỗ Lạc, người Tiệm La vượt biển sang buôn bán. Quen thói buôn tận gốc bán tận ngọn, Lý Chăm hùn vốn thu được, đóng thuyền lớn, kén trạo nhi toàn những kẻ vong mạng để quyết làm một chuyến viễn dương sang tận nước Quả Oa buôn bán kiếm lời. Thuyền bè đã chuẩn bị xong, hàng hóa đã chất đầy thuyền chỉ còn chờ cơn gió bấc về là nhổ neo thì có người trong phủ tiết chế mang tín bài đòi Lý Chăm vào hầu quan.

    Cuộc hội kiến kéo dài suốt một đêm ròng. Sáng hôm sau Lý Chăm về thuyền sai dỡ hàng rao bán, cho trạo nhi về nhà và bán tất cả những thứ hàng phương bắc. Ai cũng bảo khách thương này điên đến nơi rồi. Nhưng Lý Chăm chỉ lắc đầu phân bua:

    - Tôi nghe nói kỳ này vùng man động đang đói muối… Buôn muối lên vùng đó kiếm lời nhiều hơn…

    Thế là Lý Chăm giong thuyền xuống nam cất muối ngược sông lên tận miền động Giáp… Nhìn bề ngoài chỉ là một chuyến cất hàng buôn bán bình thường, nhưng bên trong có nhiều điều mờ ám bí mật không ai đoán biết nổi…

    Hình tích của lái buôn Lý Chăm đã được giữ kín trong mấy tháng qua, kể từ khi buôn muối lên động Giáp, rồi cất hàng từ động Giáp vượt cửa khẩu ở châu Đặc Ma lọt vào Trung Nguyên, và đi suốt một chiều ngang miền Hoa Hạ cho đến cửa ải cuối cùng trước khi vào bạc dịch trường Giang Đông thành Khâm Châu.

    Bây giờ lệnh truy nã đã bám sát ngay gót đoàn ngựa thồ nặng nề trên những dặm đường cuối cùng của chuyến viễn dương… Số phận của người lái buôn tài hoa can đảm đang treo trên đầu sợi tóc… Trong khi đó anh không hay biết gì, cứ khật khưỡng ngồi xếp bằng tròn trên lưng con ngựa Chàm, tay ôm khư khư một cái bong bóng trâu đầy óc ách những rượu, cắm cần vừa đi vừa uống, bất cần sự đời…

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Nhân sinh vô hối nhập Touhou
    Kiếp sau nguyện sinh Gensokyo

  4. #4
    Ngày tham gia
    Aug 2014
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    11,219
    Xu
    29,733

    Mặc định


    Chương 3




    Trong thời gian đoàn ngựa thồ hàng của khách thương Lý Chăm lang thang dọc theo những cửa ải, những man động miền Hoa Nam, chàng lái buôn không hay biết đang có chính biến lớn lao trong cung đình nhà Lý tại Thăng Long. Nguyên là vào tháng giêng năm Nhâm Tý, nghĩa là chỉ bốn năm sau đại thắng Chiêm Thành, vua Lý Thánh Tông đột ngột băng hà, hưởng thọ năm mươi tuổi. Vì băng hà đột ngột nên nhà vua không kịp để lại di chiếu. Nhà vua chỉ có một hoàng tử duy nhất lúc bấy giờ mới lên bảy tuổi. Tất nhiên hoàng tử được các đại thần tôn lên làm vua.

    Việc thái tử Càn Đức lên ngôi là việc hợp lẽ trời. Nhưng vì nhà vua lên khi còn quá nhỏ tuổi cần phải có người đứng ra giúp việc triều chính, giữ ngôi nhiếp chính, nắm mọi quyền bính trong tay. Vua chết bất ngờ nên quyền ấy mặc nhiên rơi vào tay viên quan đầu triều là tể tướng Lý Đạo Thành. Và điều lo ngại của vua Lý Thánh Tông những ngày hoang mang ở giữa kinh đô Phật Thệ hoang tàn đã trở thành sự thật. Lý Đạo Thành đã truất quyền phụ chính của mẹ đẻ ra Càn Đức, tức nguyên phi Ỷ Lan. Chỉ theo lệ thường phong cho Ỷ Lan là hoàng thái phi. Còn quyền bính trong triều giao vào tay nguyên hoàng hậu họ Dương, lúc này đã là Thượng Dương hoàng thái hậu. Mặc dù trước đây khi thay vua chấp chính việc nước để vua trẩy quân nam phạt Chiêm Thành, Ỷ Lan hoàng thái phi đã nổi tiếng là người đàn bà có tài trị nước. Trong triều ngoài dân dã ai ai cũng rằng nếu nhà vua có mệnh hệ nào thì người đứng ra trị nước phải là bà phi sắc sảo này. Ỷ Lan cũng tự tin như vậy. Hơn nữa Ỷ Lan lại được một viên quan tiết độ sứ kiêu dũng vốn là người thân quen từ trong nội cung là Lý Thường Kiệt trợ giúp.

    Nhưng cái chết của vua Thánh Tông quá đột ngột, mà vị lão thần Lý Đạo Thành lại là người cầm quyền nước rất thận trọng, nên mọi không diễn ra theo ý nghĩ của dân gian cũng như của bà phi sinh ra đứa thái tử nối ngôi. Ngay từ khi vua chớm mệt, Lý Đạo Thành đã thác mệnh vua hạ chiếu ra lệnh cho các quan hữu ty rằng, hễ có ai vào làm nhà dành riêng cho các quan ở chức đô tả hữu, không kể kẻ sang người hèn đều phải phạt tám mươi trượng. Lệnh này tưởng chừng bình thường nhưng thực ra là một thứ thiết quân luật vô cùng nghiêm ngặt, ngăn không cho các tướng sĩ quan triều gặp nhau tạo nhà riêng hay phủ đệ để bàn việc tranh cướp quyền bính, đảo chính trong cung đình.

    Lúc này uy đức của tể tướng Lý Đạo Thành trong triều rất lớn. Ông là một bậc lão thành đã có công phò tá mấy triều vua nhà Lý. Khi vua Thái Tông mới lên ngôi đã chọn ông làm thái sư. Ở ngôi tể tướng hai mươi năm, thanh thế trong triều của ông không ai bì kịp, quan lại các ty, quan đầu các phủ đệ đều do một tay ông cắt đặt. Là một bậc đại túc nho lại có lòng ưu ái đạo phật, ông chủ trương chính trị khoan hòa trái với cách cương cường của võ tướng Lý Thường Kiệt. Từ những năm bình Chiêm, ông đã không ưa việc gạt bỏ hoàng hậu Thượng Dương mà giao quyền bính cho bà nguyên phi của Lý Thánh Tông. Vì thế quyền bính đến tay ông là ông tôn bà hoàng thái hậu Thượng Dương lên trị nước, gạt viên võ tướng Lý Thường Kiệt sang một bên.

    Hai phe trong triều nhà Lý đã phân ra chiến tuyến. Một bên là tể tướng Lý Đạo Thành và và nhiếp chính Thái hậu Thượng Dương. Một bên là bà nguyên phi Ỷ Lan và quan thái úy Lý Thường Kiệt. Phe tể tướng và hoàng hậu đang vận động giành lấy toàn bộ binh quyền, đẩy Lý Thường Kiệt ra ngoài biên ải, ép Thái phi Ỷ Lan về lại Siêu Loại quê cũ và phải cắt tóc đi tu.

    Tin tức về việc tranh quyền giữa các phe trong triều Lý đã bị bọn thám tử là lái buôn người Hán lúc nhúc ra vào kinh thành Thăng Long biết được và mật tâu về kinh đô nhà Tống xin Vương An Thạch phát quân nam chinh, giành cái thế đục nước béo cò.

    Là một vị dũng tướng mưu lược có thừa, Lý Thường Kiệt thừa trí lực để đoán biết mối nguy cơ đang từng giờ từng phút đe dọa triều đình nhà Lý, ảnh hưởng đến sự an nguy mất còn của con dân nước Đại Việt. Bây giờ mà quân nhà Tống phát binh thì mối nguy hiểm như vực thẳm mở ra trước mặt. Trong triều quan chia làm hai phe, đang rình để tranh cướp quyền bính của nhau, quân mười sáu đạo cấm binh bị xé lẻ vì tể tướng Lý Đạo Thành sợ quân cấm vệ tập trung là mầm gây loạn. Khắp nơi các võ quan và quan trấn thủ ngơ ngác chưa biết theo ai. Giặc sang trong tình thế ấy thì làm sao có cách gì để huy động một đạo quân lớn cự địch. Nguy cơ mất nước đã hiện ra ngay sau một cuộc đại thắng rung động cả vòm trời nam này

    Trước mối nguy cơ to lớn ấy, Lý Thường Kiệt đã nghĩ đến chuyện dẹp bỏ mối thù trong để lo giặc nước. Ông hạ mình xin yết kiến tể tướng Lý Đạo Thành và xin vào hầu Thái hậu Thượng Dương. Nhưng cả hai cửa phủ đều đóng im ỉm trước mặt vị tướng đầy lòng yêu nước này. Phe của Thái hậu không chấp nhận một cuộc thương nghị nào vì sợ uy thế đang lên của vị thái úy vừa mang chiến thắng oanh liệt về cho đất nước, sợ lợi thế mẹ đẻ vua của Ỷ Lan nguyên phi. Phe của Thái hậu tiếp tục vận động những đạo cấm quân thuộc quyền mình nhằm ép Lý Thường Kiệt về hai châu Bố Chánh, Ma Linh xa xôi mới nhập vào bản đồ nước Việt xa cách hẳn việc triều chính, và đã đày nguyên phi Ỷ Lan về Siêu Loại, chỉ chờ ngày xuống lệnh bắt cắt tóc giam vào một ngôi chùa nào đó quanh vùng, một thứ ngục thất trá hình.

    Biết thương lượng không cứu vãn được nguy cơ, Tiết chế Lý Thường Kiệt hành động quyết đoán bằng một cuộc chính biến võ lực. Ông thu thập các vệ cấm quân trung thành với mình từ ngày mình còn là võ quan trong nội cung, kéo ngược lên bắc, đến Siêu Loại giải vây cho nguyên phi Ỷ Lan, rồi rước nguyên phi Thăng Long tiến thẳng đến kinh đô Thăng Long bằng một cuộc hành quân bất ngờ thần tốc. Tại đất Kinh Bắc, nguyên phi Ỷ Lan hạ chiếu chiêu tập các vệ sương quân. Chỉ trong một đêm cả kinh thành Thăng Long tràn ngập hai vạn quân từ miệt Kinh Bắc kéo về. Quân rải kín dòng sông, tràn vào tận thành nội. Đạo thủy binh từ miệt Hải Đông cũng ầm ầm giong buồn kéo lên.

    Là một văn chức đại nho, Tể tướng Lý Đạo Thành chỉ giỏi mưu mô trong màn trướng, trước bệ rồng chứ không lường trước cái thế thần tốc của kẻ từng nắm trọng binh lực toàn quốc trong tay như Tiết chế Lý Thường Kiệt. Vì lẽ ấy mà Thái sư đã bị vây hãm ngay trong phủ đệ của mình. Theo lệnh của Lý Thường Kiệt tất cả phủ đệ của các quan đều bị canh giữ nghiêm ngặt, nội bất xuất ngoại bất nhập. Lý Thường Kiệt lại dùng thân quân và quân thị vệ thân tín của mình tiến thẳng vào nội cung vây bắt thái hậu Thượng Dương.

    Xong đâu đấy, Lý Thường Kiệt mới đưa kiệu Thái phi Ỷ Lan vào trước sân rồng. Trông thấy vua Nhân Tông, Thái phi Ỷ Lan ôm mặt khóc thảm thiết:

    - Mẹ già đã mang nặng đẻ đau, rứt ruột rứt gan sinh ra con, lại khó nhọc nuôn con, bú mớm cho con nên người, mới có ngày nay. Bây giờ con lên ngôi cao, được hưởng phúc của tiên hoàng thì người khác giành mất chỗ của mẹ, con có biết mẹ bị người ta đầy ải thế nào không con?

    Nhân Tông lúc đó mới lên tám tuổi, vốn rất thương mẹ, nghe mẹ khóc lóc thảm thiết thì bất giác cũng khóc theo. Nhà vua bây giờ trở lại nguyên vẹn là cậu bé Càn Đức hiếu thảo. Cậu bối rối không biết làm cách nào để mẹ mình khỏi khóc thảm thiết. Biết vậy Thái úy Lý Thường Kiệt tâu rằng:

    - Bệ hạ cứ trao ấn cho mẹ đẻ là mẹ đẻ sẽ không còn phải khóc nữa…

    Nghe lời khuyên, hoàng tử Càn Đức vội lấy quả ấn vàng nặng năm cân mà cậu cứ phải vất vả đeo bên mình giao vào tay mẹ. Cầm quả ấn trong tay, lập tức như lời quan Thái úy, quả thật nguyên phi Ỷ Lan không khóc nữa. Bà bèn gạt nước mắt mà lấy giấy long ám trải ngay trên sân rồng, viết ngay chiếu chỉ của vua phong chức Tể chấp cho Lý Thường Kiệt. Viết chiếu phong chức Nhiếp chính Thái phi cho mình, rồi áp ấn trước và bảo con cầm bút ký vào. Muốn làm vui lòng mẹ, Nhân Tông ký ngay.

    Nhận chiếu chỉ sắc phong xong, Lý Thường Kiệt xin vua Nhân Tông hạ chiếu chỉ giáng chức nguyên tể tướng phụ chính Lý Đạo Thành xuống chức thị lang. Chiếu chỉ thảo chưa ráo mực đã có một đạo quan túc vệ trực sẵn để thi hành. Nhưng lúc đó, chính tể tướng Lý Thường Kiệt cũng không biết định địa phận lưu đày ở châu nào? Thấy Lý Thường Kiệt bối, Ỷ Lan nhắc một cach nghiêm khắc:

    - Oai thế của Đạo Thành ở đây lớn lắm, không thể để ông ta ở gần được…

    Lý Thường Kiệt do dự:

    - Nhưng không thể đày ông ta lên vùng khê động, vùng đó lúc này đang có biến. Bất cứ lúc nào người Tống cũng có thể động mã binh lấy cớ giúp vị lão thần mà tấn công ta.

    - Sao không đưa ông ta vào đúng cái chỗ mà ông ta đang có ý đày người tới

    - Đưa ông ta đến vùng đất mới từ Bố Chánh, Ma Linh đến châu Địa Lý ư… Như thế không được… Chúa Chiêm Thành biết ta có biến tất kéo quân ra cấu kết với Lý Đạo Thành… Thôi chỉ còn đất Hoan Diễn mênh mông là nơi giữ chân vị thị lang này, vừa là nơi Đạo Thành chưa tỏa được uy lực đến, vừa nằm sâu trong nội địa, kẻ ngoài biên không dễ dàng vào can thiệp được

    Và lời bàn đó thành chính lệnh. Một giờ sau đạo quân túc vệ đã đưa Lý Đạo Thành xuống thuyền giương buồm nhằm thẳng ra cửa bể rồi từ cửa bể lại đổ vào cửa Lạch. Cũng ngay lúc đó, cung Thượng Dương vốn là cung riêng của Thái hậu biến thành một thức ngục thất vàng son. Trong nhà ngục này giam thái hậu cùng bảy mươi hai người gồm các bà phi cùng cung tần thị nữ.

    Cuộc chính biến được khép lại chỉ trong vòng một ngày một đêm, nội trong vòng thành kín đáo của cung đình. Lý Thường Kiệt bằng lòng vì mọi việc xảy ra êm ả. Không một làn phải để tay rút gươm ra khỏi bao. Không có cảnh đầu rơi máu chảy. Ỷ Lan nhiếp chính hoàn thái phi cũng trút một hơi thở dài mãn nguyện, nắm trọn quyền bính nội cung trong tay.

    Nhưng mọi chuyện đã không êm ả thuận chiều như mong muốn của nguyên phi nhiếp chính mới. Tuy tể tướng bị đi đày, Thái hậu Thượng Dươn bị giam trong điện Thượng Dương, nhưng các quan chức vào tướng tá thuộc phe của hai người còn ở trong ngoài đo, trong thành ngoài các trấn. Khắp nơi nghe tiếng gươm khua giáo động. Hàng ngày thám bào của phủ Tiết chế đưa về những tin tức chẳng lành. Chỗ này anh em Thái hậu họ Dương đang lo chiêu tập binh mã dựng cờ dấy loạn, nơi kia những thuộc cấp cũ của tể tướng, những học trò cũ của vị đại nhô một lần đã làm tể tướng tại triều suốt mười tám năm, đang gấp rút liên lạc với nhai hợp quân kéo vào Hoan Diễn để cứu Lý Đạo Thành đưa về Thăng Long giành lại quyền nhiếp chính.

    Cả một vùng châu thổ sông Nhị Hà rung động như sắp nổi cơn động đất.

    Mây đen kéo kín kinh thành Thăng Long.

    Nguy cơ của một cuộc tranh chấp nội chiến nồi da nấu thịt tàn khốc tưởng chừng không thể nào tránh khỏi. Ngoài biên thùy phía bắc, các tù trưởng khê động liên tiếp bị các sứ giả của triều Tống đến thăm hỏi vừa đe dọa, vừa mua chuộc, vừa kiềm chế. Đã có một tù trưởng châu Đặc Ma trở giáo xin thuần phục nhà Tống. Nếu ở trong triều và vùng bản địa núng động thì các phên giậu biên thùy sẽ lung lay tan rã. Tấm áo phòng thủ sẽ rách nát. Là một võ tướng cầm quân, Lý Thường Kiệt biết rằng trong cái mớ bòng bong của chính sự này thì lòng người sẽ ly tán và các đạo quân vì thế tan rã, nếu tướng khâm sai kiểm hiệu của vùng Điền Quế chỉ cần nhanh trí mà liều mạng cất vài mươi ngàn quân điều động ngay trong hạt mình thôi thì cũng có thể dễ dàng tiến đến Thăng Long không gặp quá nhiều trở ngại. Và triều đình nhà Lý có nguy cơ bị tiêu diệt. Đất nước lại chìm vào bóng đêm của ngàn năm Bắc thuộc vừa mới qua khỏi. Nước ta lại biến thành quận huyện như người Tống mong muốn.

    Nguy cơ khủng khiếp đè nặng lên lòng người mẹ. Nguyên phi Ỷ Lan không còn nhớ mình là Thái hậu nhiếp chính nữa, chỉ còn nhớ mình là người mẹ như muôn vàn người mẹ khác. Và trước mặt bà, Càn Đức đâu phải là vua Nhân Tông, vị vua của triều Lý đương vị mà chỉ còn la một đứa con trai bé bỏng yếu đuối. Vì thế Ỷ Lan, con người vốn sắc nước quyền biến như thế mà lúc này cũng chỉ còn biết ôm con mà than khóc. Cậu bé Càn Đức không còn nhớ mình đã lên ngôi vua, nằm khoanh trong lòng mẹ sợ sệt cũng khóc theo.

    Lý Thường Kiệt từ dinh tiết chế chạy vào mang tin dữ khủng khiếp: Lý Đạo Thành trong châu Hoan đã lập đàn tế dựng bài vị của vua tiên đế Lý Thánh Tông. Đàn tràng sẽ kéo dài đủ bốn mươi chín ngày. Nghe tin này, một truyền mười, mười truyền trăm, nhân dân và hào kiệt khắp nơi lũ lượt rủ nhau vào Hoan Diễn để tế vị vua cũ. Ngay tại Thăng Long cũng đã có người rủ nhau mua thuyền để đến với đàn tế của Lý Đạo Thành. Và cũng ở Thăng Long đang truyền đi một bài hịch nghe đâu của chính Thượng Dương thái hậu. Bài hịch kể tội nguyên phi Ỷ Lan lung lạc ấu chúa, hạch tội hoạn quan Lý Thường Kiệt từ nội cung lo việc hầu hạ các bà phi tiến ra giữa triều đình khuynh đoạt xã tắc. Bài hich kêu gọi thần dân sĩ phu tráng đinh hướng về điện thờ vua Thánh Tông tiền đế do quan phụ chính Lý Đạo Thành lập nên…

    Nghe tin ấy, Ỷ Lan phu nhân càng rụng rời chân tay. Bà ôm chặt đứa con mới tám tuổi của mình mà khóc:

    - Trời ơi, tại sao bố con lại là một bậc vương quân… sao bố con không là một người nông phu nghèo hàn nơi quê mùa không ai biết đến… để mẹ con mình đỡ phải khổ như thế này… Sao mà tôi không cứ yên phận ở quê nhà, ngày ngày hái dâu nuôi tằm, đêm đêm kéo tơ dệt lụa, có phải con tôi chỉ cần lo bữa no bữa đói chứ đâu phải tranh chấp quyền bính sợ người ta chém giết mình như thế này?

    Lý Thường Kiệt nhắc Thái phi nhiếp chính:

    - Xin Thái phi đừng than tiếc cho những gì chính Thái phi đã từ bỏ đế bước vào cung điện này… Bây giờ đã quá muộn, có than tiếc cũng vô ích… Đã cưỡi lên lưng cọp dữ không thể nào xuống được nữa. Hối hận do dự chỉ chuốc lấy cái chết thảm khốc mà thôi.

    - Tình thế đến nỗi này thì làm sao tránh khỏi cái chết

    - Đúng là tình thế khốn cùng bi thảm nhất đã đến. Nhưng bây giờ khóc có ích gì… Nước mắt chỉ làm mở đi, dập tắt đi những đốm lửa hi vọng cuối cùng mà ta có thể nhìn thấy được. Xin Thái phi đừng có khóc than cho thân phận mình…

    - Ta chờ người ta đến giết cả hai mẹ con ta, làm sao ta không rơi lệ được… Con ơi, mẹ làm khổ con… Quan Tể chấp ơi liệu ta chịu chết thì họ có giết con trai ta không? Họ có tha chết cho con trai ta không?

    - Khi họ giam lệnh bà tại chùa Siêu Loại thì Thái hậu và Lý Đạo Thành quyết giữ nhà vua ở ngai đế, vì thế mà tôn ngài lên ngôi. Nhưng bây giờ khác rồi… Trong hoàng tộc còn có các hoàng thân con ngành thứ. Họ sẽ chọn một người khác lập ngôi vua và quyết tiêu diệt ta… Không để một ai sống sót, nếu như họ nắm lại được quyền bính… Chắc hẳn bây giờ kẻ ngồi trong nhà ngục vàng song, và kẻ đang ở Hoan Diễn lập đàn tế lễ đều hối hận rằng khi nắm thanh gươm báu trong tay không hạ xuống lấy ngay đầu kẻ kình địch với mình, gây hậu họa là cuộc chính biến từ Siêu Loại lan đến cung đình.

    - Như thế ta đành ngồi mà đợi chết hay sao?

    - Nếu lệnh bà cứ ngồi ôm hoàng đế mà khóc như thế nào thì đúng là lệnh bà đang đợi chết… Và lệnh bà không những muốn chết mà còn muốn giết cả hoàng đế nữa… muốn giết cả nhà Lý nữa… giết cả nước Đại Việt nữa…

    - Sao lại thế… ngôi báu không nằm trong tay con ta thì rơi vào tay một hoàng thân nhà Lý nào khác, sao lại mất được?

    Lý Thường Kiệt cười cay đắng:

    - Nói như lệnh bà mới nghĩ đến sự an nguy của mẹ con lệnh bà chứng chưa nghĩ đến xã tắc… Bởi vì sự an nguy của lệnh bà lúc này gắn liền với sự mất còn của triều đình, của non sông nên tôi buộc phải đưa vai gánh vác… Đời tôi chẳng còn gì nữa… Theo đạo thánh hiền những kẻ như tôi đã phạm vào tội đại bất hiếu, không thể có con nối dõi tông đường, nối dài mạch hương lửa thờ phụng tổ tiên thì có sống cũng bằng thừa… Sống tôi cũng chẳng còn cái vui thú của con người là hưởng hạnh phúc lứa đôi, vui với gia đình có con đàn cháu đống… Tôi là kẻ bây giờ thân phận chẳng còn gì, tước lộc vinh hoa cũng chẳng làm gì, một bước lên đoạn đầu đài hay một bước lui chân qui ẩn trong bóng từ bi cũng chẳng lấy gì làm trọng… Vì thế điều tôi lo chẳng phải là lo cho tôi, cho mạng sống của tôi mà là lo chung cho xã tắc… Nếu để phe Thái hậu Thượng Dương dấy binh thì nội chiến không thể tránh khỏi… mà trên biên thùy phía bắc Tể tướng Tống triều Vương An Thạch đã sẵn sàng giáp binh, mưu đồ bành trướng phương nam đã nung nấu từ biết bao năm nay, đây là một dịp tốt xua quân tràn xuống. Ta còn mải đánh nhau tranh giành ngôi vị thì một sớm một triều quân nhà Tống sẽ làm cỏ lăng miếu nơi Kinh Bắc rồi biến cả nước ta thành quận huyện như thời nhà Đường, nhà Nam Hán. Lúc ấy hỏi rằng triều Lý có còn không, hỏi rằng nước Đại Việt có còn không?...

    Nghe đến đây Thái phi Ỷ Lan rùng mình hốt hoảng:

    - Vậy theo ý ngươi bây giờ phải làm gì?

    Lý Thường Kiệt im lặng không giám nói thành lời, nhưng ngoảnh mặt về cung Thượng Dương, xòe bàn tay làm như một thanh bảo kiếm và chém mạnh trong không khí.

    Thái phi Ỷ Lan òa lên khóc:

    - Phải làm như thế ư… Ta sợ lắm… Ta sợ quỷ thần trừng phạt…

    Lý Thường Kiệt thở dài:

    - Tôi cũng sợ quỷ thần… Nhưng không phải vì kinh sợ quỷ thần mà quỷ thần cứu được ta khỏi chết, cứu được triều đình nhà Lý khỏi mất, cứu được nước Đại Việt khỏi tan…

    Ỷ Lan nguyên phi im lặng hồi lâu rồi vừa ôm chặt vua Càn Đức vào lòng như ôm một đứa trẻ nhỏ, khác nào một người mẹ bình thường ôm chặt lấy con, bảo vệ còn chống lại mọi kẻ thù có thể ám hại con mình, vừa rụt rè hỏi:

    - Phải chém tất cả ư…

    Lý Thường Kiệt lắc đầu:

    - Không thể chém… Chém tất sinh biến…

    - Phải thiêu cháy ư.

    - Không thể thiêu cháy… Thiêu cháy vẫn rõ bàn tay ta, tất sinh loạn nước…

    - Phải đầu độc cho chết tất cả ư…

    Lý Thường Kiệt quắc mắt hỏi:

    - Ai sẽ là chủ mưu đầu độc…Lệnh bà ư?

    Ỷ Lan phu nhân giật thót mình lắc đầu hoảng hốt…

    Lúc bấy giờ Lý Thường Kiệt mới chậm rãi nói:

    - Cả thiên hạ bây giờ đều nhìn về phía hai người là Thái hậu Thượng Dương và Tể tướng Cựu tể tướng thì ở xa, vị tất đã gây nổi họa cho ta. Mà bản chất của vị đại nho này vốn ưa nhu ghét cương, sẽ khó tự mình gây biến. Chỉ có thái hậu Thượng Dương là người quyền biến mà ở ngay kinh thành, trong vòng vây hãm của ta, hiện là đầu mối quy tụ của phe chống lại ta, mưu tính cướp lại quyền bính… Ta phải làm mất cái đầu mối ấy càng sớm giờ khắc nào càng bớt họa giờ khắc ấy… Nhưng không được để lộ ra cho mọi người biết rằng ta ra tay hành động. Chém đầu, thiêu cháy, hay đầu độc đều lộ cả… phải tìm một cách khác…

    - Người đã tìm ra cách nào thần diệu rồi chăng?

    Lý Thường Kiệt thở dài lắc đầu;

    - Thế thì làm thế nào bây giờ…

    - Làm thế nào ư… việc đến lúc phải làm không thể không xắn tay áo lên… không tìm ra muôn ngàn kế… Chỉ cần Lệnh bà gạt cho khô nước mắt nhi nữ thường tình và lo tính ngay bây giờ… Tôi tin là Lệnh bà vốn sắc sảo quyền biến, nhất định Lệnh bà sẽ tìm ra mưu chước lạ…

    Nghe lời khuyên của Lý Thường Kiệt, Thái hậu nhiếp chính Ỷ Lan đặt ông vua tí hon lên ngai vàng rồi lau khô nước mắt.

    Thế là ngay ngày hôm sau, có chiếu của vua Nhân Tông sức cho tất cả chùa chiền trong nước mở lễ cầu siêu thịnh độ cho bậc tiên đế vừa băng hà. Mười sáu đội quân cấm vệ phải mặc áo đại tang dàn khắp mọi phố phường quan ải cửa thành để đón rước dân khắp nơi về các chùa thỉnh kinh niệm phật… Một đàn chay lớn được thiết lập tại chùa Diên Hựu. Tin về việc nà vua đứng ra lập đàn chay cầu siêu cho tiên đế làm nức lòng dân trong nước. Lập tức người ta quên đi cái đàn chay và bài vị trái lẽ thường của một vị quan đặt ở mãi châu Hoan Diễn xa xôi. Hàng ngàn sư sãi khắp mọi nơi lũ lượt áo cà sa vàng trẩy kinh dự lễ. Các sư sãi lúc bấy giờ có uy tín tuyệt đối với thần dân một nước mới khai quốc và coi đạo Phật là quốc giáo. Đạo nho đã vào nước ta nhưng mới ảnh hưởng đến một lớp nho sĩ nhỏ bé. Vì thế mà bài vị tế thờ theo cách của đạo nho của vị đại nho cựu Tể tướng Lý Đạo Thành không có sức thu hút đối với thần dân nữa.

    Tiếng chuông ngân nga từ tháp chuông chùa trong kinh thành Thăng Long lan xa tận các miền trong nước. Đám lễ cầu siêu kết thúc bằng một đám rước huyền bí… Hàng trăm tấm lụa bạch rộng khổ được nối với nhau tạo thành một cái cầu dài vô tận căng trên đầu những người dự lễ. Đi trước đám rước là hàng trăm hòa thượng tay lần tràng hạt đọc kinh siêu độ. Hàng trăm hòa thượng nối theo sau tay chày tay mõ miệng niệm nam mô Phật như giữ nhịp trầm bổng huyền hoặc của lời kinh siêu độ ngân nga. Và theo sau đám rước của nhà sư là bài vị của của vị tiên đế đặt trên kiệu cửu long rực rỡ. Nối liền với kiệu là chiếc cầu tượng trưng bằng lụa bạch kéo dài vô tận… Có hàng ngàn thần dân tình nguyện đội cầu đưa hồn tiên đế về nơi cực lạc…

    Đám rước tôn giáo uy nghiêm và linh thiêng chưa từng có này bắt đầu từ chùa Diên Hựu. Ngôi chùa mà vua Lý Thánh Tông cho xây dựng theo hình tượng một tòa sen vươn lên trên mặt nước để ghi lại điềm sinh thái tử trong giấc mộng cầu tự trên đất Siêu Loại. Ngôi chùa này vừa là hình tượng của vua mới, vừa gắn liền với sự tôn nghiêm của nguyên phi Ỷ Lan. Từ đấy đám rước đi vòng thành Thăng Long ra bến Đông Bộ Đầu, rồi vòng lại đền Bạch Mã, vươn qua miếu Đồng Cổ rồi đi vòng đến tận cung Thượng Dương thái hậu. Đến trước cung Thượng Dương, Ỷ Lan nguyên phi ra lệnh lấy gỗ trầm hương dựn một dàn hỏa thiêu rất lớn. Những vòng cầu lụa bạch lập tức vòng quanh mấy lầm cả chu vi cung Thượng Dương lẫn dàn hỏa thiêu kỳ lạ kia. Hàng trăm vị hòa thượng lập tức quỳ trước dàn hỏa thiêu cầu nguyện tụng kinh siêu độ. Nhà vua cũng được người ta dẫn đến đây và bảo phải quỳ xuống trước dàn lửa. Lúc ấy Thái phi Ỷ Lan mặc đồ tang chế uy nghiêm bước trên dàn hỏa và quay về phía thần dân mà nói rằng:

    - Ta đã ăn chay nằm mộng tại chùa Diên Hựu mấy bữa nay. Đêm qua, đức tiên hàng hiện về báo mộng. Nét mặt ngài buồn rầu, ủ dột. Ta khóc lóc van nài người nhưng người chỉ lắc đầu không nói. Ta gạn hỏi mãi, người mới chỉ vào Càn Đức con trai của ta mà rằng: “Hoàng đế mới lên ngôi còn nhỏ dại, mà thù trong thì đầy, giặc ngoài lại lắm, trẫm lo lắng vô cùng… Nay trẫm đã lên cõi tiên, an phận an bề trẫm, chuyện trần gian giữ nghiệp đế cho dòng họ Lý, giữ gìn quốc thống cho nước Đại Việt ái phi phải thay trẫm cùng quan tể chấp gắng lo chu toàn. Đừng để cho kẻ thù ngoại bang lấn lướt, đừng để mất từng ngọn cỏ, từng thước đất của non sông gấm vóc mà tổ tiên để lại… Có như thế trẫm mới được mỉm cười nơi chín suối…” Ta đã rập đầu hứa với đức tiên hoàng là thịt nát xương ta cũng không dám sai lời cố mệnh. Ta lại hoi ở noi chốn non bồn nước nhược người thiếu thốn gì khồn… Người thở dài mà rằng: “Khi ta còn làm vua hạ giới, trong triều ngoài nội kiệu tía võng vàng, ngựa xe dìu dặt… Nay ta về đường mây khuất nẻo cõi tịch diệt vắng không… Nhìn bên hữu không thấy bóng Thái hậu của ta đâu, nhìn bên tả không thấy bóng thái phi của ta đâu. Các tiệp dư các cung tần mỹ nữ ta yêu dấu đều vắng bóng… làm ta thương nhớ không thể nào nguôi được… Nay thái phi bận lo cho Càn Đức con ta ngồi vững trên ngai vàng trị nước, ta đành hẹn đến một ngày nào hội ngộ, chứ còn Hoàng hậu và các cung tần mỹ nữ của ta đi đâu hết cả”… Nghĩ mà thương nỗi cô quạnh của tiên đế, ta không thể cầm được nước mắt… Ta xin được theo hầu ngài… Bởi chưng lòng dạ người ta như đáy bể sâu không ai dò nổi nên ta không thể thay cho người khác mà trả lời thay bệ hạ được… Ta chỉ trả lời cho ta thôi… Ta xin được quyên sinh theo hầu bệ hạ dưới suối vàng… Nhưng tiền đế nhìn ta lưu luyến mà tay chỉ vào Càn Đức có ý gửi gắm rồi tự nhiên nước mặt trào ra. Không nói nên lời… Rồi tiếng chuông chùa đánh hồi siêu độ đổ dồn làm tan giấc mộng… Ta bành hoàng trước một nỗi phân vân một đằng thì con thơ nhỏ dại phải gánh vác xã tắc non sông, một đằng thì tiên quân cô quả bơ vơ dưới suối vàng không người hầu hạ vui vầy… Việc hạ giới ta nghĩ là thiếu bàn tay ta thì đã có các quan đại thần, có thần dân tăm họ ra tay giúp giập con ta đứng vững ở ngôi cao giữ lời cố mệnh của tiền đế… Còn ở dưới suối vàng hỗn mang co quạnh, đức tiền đế ta thiếu ta thì trước sau còn có ai nữa. Vì thế chí ta đã quyết… Ta lập dàn hỏa này để xin được đi theo theo tiên đế… Con ơi, con hãy cầm ngọn đuốc kia châm vào những cây trầm hương khô nỏ của dàn hỏa này, để mẹ không phụ lời của cha con… Vì cha con bảo mẹ phải sống để lo cho con. Nhưng con đã đủ trí tự cường làm một bậc quan văn võ, thần dân trăm họ giúp giập… Con hãy để mẹ già đi theo tiền đế hầu hạ tiền đế để người khỏi cô quạnh nơi suối vàng… Chao ơi làm đấng quân vương, khi sống thì cung này lầu nọ, điện thấp tòa cao, ai cũng muốn làm hoàng hậu, ai cũng tranh được gần kề bên gối… Giờ chết đi những kẻ tranh giành kia đâu cả. Để người bơ vơ cô quả thương tâm vô cùng trong thế giới u minh… Càn Đức con ơi, con phải tự tay châm dàn hỏa thiêu này, để mẹ được về hầu hạ tiên đế cha con mà không bị cha con quở trách vì dám không nghe lời cố mệnh cố sống mà nâng đỡ con… Con ơi, con hãy châm ngọn đuốc kia vào dàn hỏa thiêu này.. Bớ văn võ bá quan, bớ thần dân thiên hạ, ta đã gửi xã tắc của tiền đế vào tay con ta, ta gửi con ta vào tay các người… Ta tin ở lòng trung của các người… Các người đừng phụ lòng ta để ta được sánh bên đức tiền đế mỉm cười nơi chín suối… Kìa Càn Đức con ơi, hãy đốt dàn hỏa thiêu thiêu thân xác vô hồn của mẹ để mẹ sớm được hầu đức đế quân…

    Càng về cuối giọng của Thái phi Ỷ Lan càng run lên… Tấm áo đại tang càng bay trong hương khói mờ mịt… Tiếng khóc huyền bí trước bóng tối âm thầm của cung Thượng Dương… Đến lúc ấy trong bộ võ phục tang chế đặc biệt quan Tể chấp Lý Thường Kiệt, oai nghiêm nâng cao ngọn đuốc bùng bùng lửa cháy tiến lại dân cho Càn Đức và tâu rằng:

    - Theo ý nguyện của Thái phi, bệ hạ hãy cầm ngọn đuốc này khai hỏa cho dàn hỏa thiêu… Để người được về hầu đức tiên đế…

    Tay cậu bé run run đỡ lấy ngọn đuốc… Từ trên dàn hỏa cao Ỷ Lan Nguyên phi nhiếp chính mắt đăm đăm nhìn ngọn đuốc trong tay đứa con mình. Nếu ai tinh mắt sẽ thấy bà run rẩy trong tấm áo đại tang bay lồng lộng trong gió. Lúc này vị hoàng đế mới tám tuổi run rẩy với bó đuốc trong tay… Thấy cậu bé bị kích động đến tận cùng thì Lý Thường Kiệt ghé tai nhà vua nhỏ tuổi và giục rằng:

    - Bệ hạ châm lửa đốt chết mẹ bệ hạ đi…kìa…

    Câu nhắc nhở có vẻ lạnh lùng bề ngoài ấy có tác dụng biến vị vua thành một đứa trẻ nhỏ thương yêu mẹ hơn tất cả mọi thứ trên đời, hơn cả ngai vàng, hơn cả những truyện thần tiên ma quái về cõi u minh, hơn cả người cha đã khuất… Cậu bé bỗng khóc thét lên một tiếng, vứt ngọn đuốc xuống dưới chân và cắm đầu lao về phía dàn hỏa, cứ thế leo lên các bậc thang của dàn hỏa. Các bậc lên dàn hỏa hình như làm sẵn để cho lúc này nên từng bậc một đều rất ngắn rất thấp, hết sức vừa tầm chân của vị vua mới lên tám tuổi. Nên chỉ trong thoáng chốc là nhà vua nhỏ tuổi đã chạy lên tới đỉnh cao nhất của dàn hỏa thiêu và ôm chầm lấy Ỷ Lan Thái phi và thét lên một tiếng mà tất cả các đứa trẻ con biết yêu thương mẹ vào tuổi đó đều thét lên khi người mẹ kính yêu nhất đời của mình gặp nạn. Tiếng thét: “Mẹ ơi, mẹ ở lại với con…” vang lên tha thiết trong không khí trang nghiêm huyền bí… Đó là tiếng nói của một vị vua nên tiếng nói đó là chính lệnh…

    Đến lúc ấy vị Tể chấp dũng tướng Lý Thường Kiệt mới toát mồ hôi suốt dọc xương sống trong lớp áo chiến báo tang chế. Như một kẻ phải leo ngược một ngọn dốc cao khắc nghiệt, khi leo đến tận đỉnh cao, tự nhiên thấy chân tay bủn rủn rời rã… Lý Thường Kiệt ngã khụy xuống, và trút một hơi thở thật dài như trút được một gánh nặng khủng khiếp… Nhưng hàng ngàn hàng vạn người có mặt trước dàn hỏa thiêu này đều bận ngẩng đầu nhìn hình ảnh rực rỡ nhất của tình mẹ con, của bậc quân vương của họ trên đỉnh cao dàn hỏa thiêu… Đội quân nhạc cung đình đã sắp sẵn để chờ đợi dịp này dội tiếng trống đồng oai nghiêm…

    Chỉ có một người hiểu tất cả mọi điều. Người đó đang ngồi lặng đi trong bóng tối của cung Thượng Dương. Người đó là Hoàng thái hậu họ Dương. Thái hậu nghiến răng tuyệt vọng:

    - Thế là giờ chết của ta đã điểm, giờ chết của bảy mươi hai cung tần mỹ nữ, nguyên phi, tiệp dư bị giam cùng ta trong cung lầu Thượng Dương này đã điểm…

    Một bà tiệp dư hoảng hốt thốt lên rằng:

    - Chẳng lẽ lại như thế… Chẳng lẽ sau lễ trọng như thế này họ lại giết chúng ta ư, thưa Hoàng thái hậu…

    - Họ không cần phải ra tay giết chúng ta… không cần phải phóng hỏa, không cần phải động tay đao kiếm… không cần phải gửi vuông lụa để bắt chúng ta thắt cổ, không cần phải gửi bảy mươi hai bát thuốc độc cho các ngươi và một bát thuốc độc cho ta…

    - Thế thì làm sao chúng ta chịu chết được?

    Thái hậu Thượng Dương cười lạnh:

    - Tự ta phải chết…

    - Trời ơi sao lại thảm khốc đến như vậy…

    - Ừ thì đúng là thảm khốc… Nhưng thảm khốc thì biết mà làm sao biết được cách để tránh cái chết thảm khốc này… Tại ta… tại ta cả thôi mà các ngươi bị vạ lây… Cái chết mà ta định dành cho Ỷ Lan Nguyên phi trong chùa Siêu Loại mà ta chưa kịp mang ra thi hành thì Ỷ Lan mang đến cho ta ngay trong cung Thượng Dương này. Ỷ Lan đã dám bước qua cái chết của dàn hỏa thiêu để tìm cái sống, tìm đến với quyền hành… Còn ta thì tìm đến với cái sống, tìm đến với quyền hành thì cuối cùng ta lại gặp một cái chết ở chính nơi đây… Mọi chuyện đã muộn quá trồi không còn phương cứu vãn.

    - Nhưng chẳng lẽ ta cứ bó tay chịu chết hay sao?

    Thái hậu Thượng Dương nghiến răng:

    - Bây giờ ta ở vào cái thế không chết không thể được nữa rồi… Tự tìm lấy cái chết thì giữ lại được chút thanh danh. Không tự tìm lấy cái chết thì bị người đời nguyền rủa… Vì kể như cái án tử đã được thi hành cùng dàn hỏa thiêu không bao giờ cháy lên thành ngọn lửa kia… Ta không ngờ ta đã thua chí một con đàn bà hái dâu xuất thân từ đám thôn dã và một tên hoạn quan lập nghiệp từ việc giữ mấy cái váy của các thị nữ cung phi. Than ôi mệnh ta đến đây là hết… Trời đã hại ta rồi…

    Ngày hôm sau viên đô tri cấm vệ quân Long Dực lo việc canh giữ cung Thượng Dương đến khấu đầu trước dinh quan Tể chấp báo cáo việc chẳng lành:

    - Kính bẩm tướng quân, ngay sáng hôm nay khi thần dẫn quân vào cung Thượng Dương, thần thấy sặc mùi tử khí… Thần hoảng hốt chạy thẳng vào chính điện thì trời ơi… trước bài vị của đức tiên đế, thái hậu Thượng Dương và tất cả bảy mươi hai cung tần mỹ đều mặc áo đại tang và đã chết cứng từ lúc nào…

    Lý Thường Kiệt vẻ vặt trầm ngâm, phất tay:

    - Khỏi cần nói dài dòng… điều này ta đã biết… Bớ ba quân thừa lệnh của Lệnh bà nhiếp chính, cử khinh kị truyền tin cho tất cả các đình chùa làm lễ cầu siêu cho đức Thái hậu và các bà phi đã quyên sinh thác theo đức tiên đế như ý nguyện của ngài…

    Viên tướng đô tri cấm vệ quân Long Dực ngạc nhiên hơn khi viết là những điều chuẩn bị cho lễ cầu siêu này đã sẵn sàng… Lễ cầu kinh siêu độ cho bà Hoàng thái hậu và bảy mươi hai bà phi được cử hành trọng thể trong các đền chùa khắp trong cõi. Lệnh bà nhiếp chính Ỷ Lan Thái phi thân đứng ra cùng nhà vua Nhân Tông trẻ tuổi lập đàn tế lễ và rước linh cữu các bà phi và Thái hậu về vùng đất Kinh Bắc nơi có lăng tẩm thái miếu của triều đình nhà Lý…

    Khi tiếng chuông lễ cầu siêu ngân nga vang đến đất Hoan Châu thì cựu tể tướng Lý Đạo Thành nay bị giáng xuống cấp thị lang, giữ chức Tả gián nghị đại phu đang xây viện Địa Tạng để tô tượng phật và thờ vị tiên đế Lý Thánh Tông. Tiếng chuông làm bủn rủn lòng vị đại phu còn mang trong lòng ngọn lửa hưng phục. Từ khi nghe thấy tiếng chuông cầu siêu ấy, vị lão thần gần hai mươi năm giữ ngôi tể tướng cảm thấy như đó là tiếng chuông siêu độ dành cho mình. Ông ta bèn đuổi hết thợ thổ mộc đang xây viện Địa Tạng về, và ngồi nhập thiền giữa đám gạch đá ngổn ngang đang xây dở…

    Tiếng chuông ngân nga siêu độ vượt hết chùa này đến chùa khác vang tới tận dải biên thùy phía bắc xa xôi. Nơi đó những đạo quân Tống đang rục rịch sắm sửa vũ khí, lương thảo, sửa sang giáp mã để bất ngờ tràn sang, bỗng dưng được lệnh bãi binh chờ thời… Người ta bảo rằng tiếng chuông ấy đã đến tận Biện Kinh nhà Tống… Và nghe được tiếng chuông ấy tể tướng Vương An Thạch ngao ngán thở dài xuống lệnh bãi chức của viên tướng coi việc phương nam là Thẩm Khởi… Chẳng biết lời đồn đó thực hư thế nào, nhưng việc tiến binh xuống phía nam có bị đình lại thật… Đình lại chứ không phải là bãi bỏ. Cái chí của viên tể tướng trẻ họ Vương vẫn là bành trướng đất đai để lấy cái động bên ngoài giữ cái tĩnh nơi đế đô đầy sóng gió. Lệnh đóng của biên thùy cài then cửa ải được vội vã truyền đi khắp miền Hoa Hạ… Việc lớn của cả quốc gia Đại Tống ảnh hưởng đến ngay một đoàn ngựa thồ nhỏ bé. Hình tích của gã lái buôn kẻ Cời người Giao Chỉ dần dần bị lộ… Lệnh truy nã đuổi theo làn bụi lốc theo vó sắt của đoàn ngựa thồ và đã bay tới viên quan coi việc của động Cổ Vạn… Đến vào lúc đoàn ngựa thồ vừa đi khuất nẻo đèo xa và đám đọng đinh, thổ đinh đã được lệnh giải tán. Chính lúc viên đô bảo giáp đang cắn thử xem những nén vàng của tên lái buôn Lý Chăm là vàng thật hay vàng giả…

    Viên đô bảo giáp động Cổ Vạn nhìn đám thuộc tướng của mình mà ngao ngán. Cứ như trước đây, chưa có cái lệnh thực hiện tân pháp của tể tướng Vương An Thạch thì khi có động sự như thế này, y chỉ cần vỗ gươm, thét lên một tiếng là có ngy cả một đạo quân rầm rập lên ngựa. Vì trước đây, triều đình phải cấp lương thảo để các quan cai trị động Cổ Vạn và các động khác nuôi một đội quân khá đông đảo. Đông đến mức các quan tướng có thể điều đi chăn ngựa, chăn dê, cày cấy cho mình vẫn hãy còn thừa. Bây giờ, thực hành tân pháp lính ở trong dân, nên nơi cửa quan này chỉ còn vài mươi tên tuần phiên cắt lượt… Với đám lính còm nhom này làm sao áp đảo được đoàn ngựa thồ đông tới gần một trăm con và đoàn người hành tung bí mật năm sáu mươi người trong đó còn có những tráng sĩ động Giáp khét tiếng dũng mãnh… Bây giờ muốn có quân lại phải phóng lửa lên đài phong hỏa…

    Viên đô bảo lại phóng mắt nhìn theo con đường mà đoàn ngựa thồ của thương nhân Lý Chăm vừa đi qua, vừa tự nhủ rằng:

    - Mày đã nằm trong đất Trung Nguyên này là mày đã nằm trong một tấm lưới lớn, đó là thiên la địa võng trùng điệp của vùng Hoa Hạ… Ta để mày chui vào cái rọ là bạc dịch trường Giang Đông… Quân đâu, sai quân khinh kị đi thu thập các nhà, các hộ thổ đinh nhận nuôi ngựa bảo mã, trung tập ngay cho ta một cơ kị binh. Một khắc nữa ta sẽ lên đương bao vây khu vực bạc dịch trường Giang Đông… Còn mi…

    Viên đô bảo giáp Cổ Vạn quay về phía tên lính thám mã và truyền lệnh rằng:

    - Mi hãy đi đường tắt xuyên rừng, ngay đêm nay phải đến thành Khâm Châu báo cho quan trấn thủ trong thành biết để rải đạo thủy quân khóa kín cửa sông…

    Tên lính thám mã chắp tay dạ một tiếng rồi chạy như bay ra tàu ngựa của quán đường; chọn một con ngựa khỏe nhất và nhảy lên phóng. Con ngựa phóng nhanh như một mũi tên bắn xuyên vào con đường tắt che lấp giữ rừng núi hiểm trở của vùng đất Hoa Hạ… Xong xuôi đâu đấy viên đô bảo giáp động Cổ Vạn lại thét gia nhân dưới trướng:

    - Bay đâu, ngay bêy giờ các ngươi phải đóng cho ta một cái cũi lớn. Chính tay ta sẽ bắt nhốt tên khách thương Giao Chỉ vào đó và điệu lên thành Quế để lĩnh thưởng.

    Khu vực động Cổ Vạn lại một lần nữa rung động, những tên kỵ binh bảo mã từ khắp các bản xa gần đã lục tục giáp trụ sẵn sàng phóng như bay đến trước cửa quán xá… Cái bẫy nguy hiểm đã bắt đầu giương kên, nhưng người khách thương gốc gác từ đất Kẻ Cời vẫn chưa hay biết một chút gì về sự nguy hiểm đang rình rập mình từng bước. Anh cahngf vẫn ngồi ngất ngưởng theo cái lối xếp chân bằng tròn cố hữu trên lưng con ngựa Chàm cao lớn, và ôm cái bong bóng trâu óc ách những rượu… Cái cần rượu chẳng một lúc nào rời khỏi miệng anh ta… Trước mặt anh ta và đoàn ngựa thồ là bạc dịch trường Giang Đông của thành Khâm Châu, một chốn giao thương lớn nhất Hoa hạ của các lái buôn đủ các vương quốc quanh vùng…

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Nhân sinh vô hối nhập Touhou
    Kiếp sau nguyện sinh Gensokyo

  5. #5
    Ngày tham gia
    Aug 2014
    Đang ở
    Hà Nội
    Bài viết
    11,219
    Xu
    29,733

    Mặc định


    Chương 4




    Không phải đợi đến thời Bạch Cư Dị bị biếm làm Tư Mã đất Giang Châu viết nên khúc tì bà hành, người khách thương của đất Trung Nguyên mới bước chân vào văn học. Mà trước đó, vào thời Tư Mã Thiên viết bộ sử ký, thì bóng dáng lái buôn họ Lã tên Bất Vi đã xuất hiện với một vụ buôn lớn hiếm có. Món hàng buôn bán là cả một ông vua và cả một đế quốc phong kiến mênh mông… Đã từ lâu, trước khi bước vào văn chương và sử sách, những lái buôn người Hán của đất Trung Nguyên đã giong buồm phiêu bạt khắp dọc sông hồ, hết tam Ngô bách Việt lại giong buồm đi đến những đất nước xa xôi… Họ vượt biển đến đảo Phù Tang, vượt biển đến vương quốc Quả Oa, vượt biển để thầy Đường Tăng sang Tây Tạng lấy kinh, họ bám đuôi lạc đà thồ hàng đi xuyên “nóc nhà thế giới” sang tận đất Ba Tư mua thảm nổi tiếng của thành Bát Đa, rồi lại lần ngược dấu ngựa Hung Nô để đi qua sa mạc Gô Bi buôn lông cừu và da ngựa… Những khách thương người Hán vẫn tự cho mình là kẻ dám buôn tận gốc bán tận ngọn… Họ đã đi, nhưng họ không ngờ đã có những lái buôn nước ngoài đã đến tận nước Trung Hoa, mở mang việc giao thương buôn bán… Đó là những lái buôn của các vương quốc mới giành được độc lập, mới lập quốc của phương nam, những lái buôn Giao Chỉ rồi Đại Việt, lái buôn Chiêm Thành, lái buôn Lão Qua, lái buôn Lục Chân Lạp, Thủy Chân Lạp, lái buôn Quả Oa… Triều đình của các vua nhà Hán bao giờ cũng có thói quen lấn lướt mọi người láng giềng, vì họ chia thế giới ra làm hai phần. Phần đất của họ, họ coi là Hoa, là Trung Nguyên. Ngoài phần đất của họ, họ coi là di, là man, là mọi rợ. Cái triết lí Hoa, Di đã trở nên cái triết lý dân tộc của người Hán… Họ không coi bất cứ cái gì không phải là Hoa mà lại có giá trị và đáng tôn trọng cả. Đếnn ước láng giềng buôn bán thì họ lần mò tới tận kinh đô lên tận miền biên thùy xa nhất, miễn là ở đó họ cất được những món hàng có lãi. Nhưng họ lại không bằng lòng để cho bất cứ nhà buôn nước ngoài nào đến buôn bán tận kinh đô nước mình. Vì lẽ ấy họ lập ra những bạc dịch trường ở vùng gần biên thùy. Bạc dịch trường là những thứ chợ giao thương có tính chất cổ sơ. Tại đó, những thương nhân nước ngoài được phép mang hàng đến để buôn bán với các thương nhân Trung Hoa từ các vùng trong đất Trung Nguyên mênh mông kéo về.

    Khâm Châu là một châu biên ải nên cũng được mở một cái chợ giao thương buôn bán với các lái buôn của các vương quốc lân bang. Chợ không được đặt trong thành mà phải đặt ở một trạm trường đình ven ngoại bên bờ sông Tây Giang, nhà trạm ấy được gọi là trạm Giang Đông nên bạc dịch trường Châu Khâm cũng được gọi là bạc dịch trường Giang Đông. Nơi đây các lái buôn Ngô Việt, Ba Thục, Tứ Xuyên, Tô Châu thường mang các hàng hóa sản vật của vùng quê mình đến và đóng trại để chờ khách thương nước ngoài đến buôn bán. Họ xây những thương điếm trên bờ chứ không tạm bợ trên các con thuyền hay cắm tạm những lán trại. Nhiều lái buôn muốn đón những món hàng quý, còn lập các cơ sở làm ăn trường kỳ tại bạc dịch trường , sai gia nhân buôn bán lặt bặt để tự túc cái ăn cái ở suốt thời gian đóng lại thươn điếm. Bạc dịch trường Giang Đông Khâm Châu chủ yếu mở ra để đón lái buôn người Đại Việt mà các nhà buôn Tống triều quen gọi là lái Giao Chỉ. Các lái buôn Giao Chỉ thường đi thuyền vượt biển sang đây buôn bán. Không kể dân bản địa hai bên biên giới, mang các sản vật địa phương sang đổi chác bình thường còn phàm những chuyến hàng buôn lớn đều phải có xin tín bào hai bên quan trấn ải. Khách thương của ta muốn qua bên ấy phải xin viên quan coi châu Vĩnh An là tướng trấn biên thùy Đại Việt cấp tín bài và gửi thư sang cho quan trấn ải Khâm Châu. Được thư cho phép, khách thương phải được quan tuần cửa biển Khâm Châu kiểm chứng vào tín bài và bản khai hàng hóa rồi mới được vào sâu trong sông Tây Giang để đến bạc dịch trường Giang Đông. Đến buôn bán ở bạc dịch trường này còn có lái buôn các nước khác, các vương quốc lân bang. Cũng có khi không chỉ có khách thương mà triều đình nhà Lý cũng cử cả sứ sang đây lo việc buôn bán đổi chác lấu đồ quốc dụng cho nhà nước.

    Các lái buôn người Đại Việt đến đây thường chở theo vàng bạc, đồ đồng, trầm hương, thục hương, trân châu, ngọc trai, ngà voi, sừng tê và các sản phẩm nhiệt đới… Còn các đại thương người Tống ở đất Thục mang gấm Tứ Xuyên, kẻ ở Tô Châu mang lụa rực rỡ các màu, kẻ ở Giang Tây mang đồ sứ, kẻ ở Hồ Nam chở đồ da thuộc, kẻ ở Thiểm Tây mang áo trìu, kẻ ở Hồ Bắc mang các loại thuốc quý, lái buôn mạn Hắc Long Giang thì mang sâm Cao Ly…

    Vốn của các lái buôn từ ngoài đến đây, nhất là các lái buôn Đại Việt rất lớn, mỗi chuyến hàng trị giá có đến hàng ngàn quan tiền. Nhưng hồi đấy việc buôn bán giữa các quốc gia khác nhau không hề có trao đổi qua tiền tệ. Vàng hay bạc cũng không được coi là một thứ vật ngang giá để có thể mua tất cả mọi thứ. Các lái buôn thường mang hàng của mình ra, gặp các lái buôn có hàng khác mà cả hai bên cùng cần trao đổi. Họ để hàng của mình ở bên tả và bên hữu án thư của quan bạc dịch trường rồi thương lượng trao đổi. Ngay cả lái buôn buôn vàng bạc, tiền tệ cũng phải làm như vậy, ở bạc dịch trường này thì vàng bạc thậm chí cả tiền tệ của các vương triều khác nhau cũng chỉ được coi như một thứ hàng mà thôi. Cả hai bên nhìn vào hàng, không tính giá trị hàng ở tại chợ, mà lượng tính giá trị hàng ở nơi mình mua và nơi mình sẽ mang về bán, tức là ở tận gốc và tận ngọn để mặc cả cùng nhau. Cứ thế cò kè bớt một thên hai, anh đổi hai tấm lụa Thục lấy một cái sừng hươu, còn tôi thì có một trăm đồ gốm Giang Tây vẽ màu nung kỹ, cần có hai chục cân trầm hương loại hảo hạng… Không có một giá cả nhất định nào cả. Nhưng lời hứa lại trọng hơn cả hàng hóa và tính mạng. Vì nếu mặc cả xong rồi, hai bên đã bằng lòng trao đổi theo một cái lệ nào đó mà hai bên thống nhất với nhau, thì không ai được thương nghị với người khác nữa. Đó là một thông lệ của bạc dịch trường mà ai ai cũng phải theo. Giá của người đầu tiên đã mặc cả, gọi là đã ngã giá thì trời đất quỷ thần cũng không bằng nữa. Người thứ hai đến sau khi ngã giá cao gấp chục lần, trăm lần cũng không được bán. Chữ tín của nhà buôn nặng hơn lòng trung nghĩa của các bậc đại nho, và nặng hơn cả trinh tiết của đàn bà. Cái lệ buôn bán tại bạc dịch nó là như thế.

    Nhưng lòng trung nghĩa của các bậc đại nho và trinh tiết của các cô gái phải có cương thường bảo vệ mới giữ được, thì cái lệ ở bạc dịch trường cũng có sự bảo vệ cái giá đã định bằng miệng với nhau. Khi hai lái buôn đã ngã được giá đổi chác, họ phải mang đến một viên thị lang chuyên coi việc đo lường cân lạng. Và hàng đổi chác phải để lại ngay ở phủ đương của quan. Lái buôn nào có manh tâm chạy làng đều có nguy cơ bị mất trắng tay. Quan bạc dịch trường sẽ tịch thâu chia làm ba phần. Một phần trả cho người đã đặt giá mua được để bù lại sự thiệt hại trong buôn bán. Một phần giữ lại vào kho của bạc dịch trường, còn một phần nộp lên triều đình cùng các thứ thuế rất nặng. Quan thuế ấn định theo giá cả của người Tống không liên quan gì đến vật đổi chác, và do các quan định. Các quan có thể định giá một cân trầm hương giá là một trăm quan, thì cứ một quan các quan ra lệnh thu ba mươi đồng tiền.

    Khi đoàn ngựa thồ của Lý Chăm dừng lại ở của của bạc dịch trường để trình tín bài thì các ông chủ của phạn điếm, tửu điếm cao lâu đã ùa ra quây lấy vị khác phương nam giàu có này. Nhiều người còn nhớ mặt Lý Chăm từ các lần viễn thương đến đây những năm trước. Họ tranh nhau gọi Lý Chăm là đại gia, và mới mọc ân cần ráo riết:

    - Kính chào đại gia, mời đại gia về nghỉ ở nhà của tôi. Tửu quan của chúng tôi không những có rượu ngon thịt béo mà lại còn có một dãy nhà trọ hết sức lộng lẫy…

    - Phạn điếm của chúng tôi giá cả rất phải chăng, lại có vòng tường cao bao bọc, tránh được mất mát suy suyển hàng hóa… Xin đại gia chớ bỏ qua…

    - Chắc đại gia chưa biết chúng tôi mới xây nhà lầu mở cao lâu, kén những con hát sắc nước hương trời từ mạn Giang Bắc về, đại gia không để tai thưởng thức ắt hẳn ra về đất Nam bang sẽ ân hận đời đời…

    Lý Chăm dửng dưng trước những lời mời mọc, dửng dưng trước sự tôn xưng cao quý của đám người đang vây quanh mình. Chàng cũng thừa biêt rằng họ đang thưa gửi những món hàng chất trên lưng đoàn ngựa thồ của mình chứ đâu họ có cần thưa gửi gì mình. Chàng mỉm cười, hất hàm gọi một người quen cũ:

    - Này Trương Tam, thương điếm của anh vẫn chưa có khách đến thuê đấy chứ?

    Người được gọi mừng quýnh lên:

    - Dạ … chưa có khách ạ… chúng tôi vẫn đóng cửa chờ đại nhân chiếu cố…

    Lý Chăm lại mỉm cười chàng biết thừa câu sau không phải là một lời nói thật. Số là thương điếm của Trương Tam không phải là thương điếm sang trọng, tuy được xây dựng với mục đích cho các lái buôn phương xa đến thuê mở cửa hàng buôn bán, nhưng đất của Trương Tam ở khuất phía sau bạc dịch trường, không tiện việc thương lượng buôn bán lắm. Chỉ được cái ở đấy kín đáo, dễ dàng bảo vệ hàng hóa của mình, lại có một tàu ngựa lớn, có sức chứa cả trăm con ngựa. Vì thế những lần trọ trước dù đi thuyền theo vùng vịnh Bái Tử Long ngược lên đây, lái buôn Lý Chăm đã để ý nhằm trước cái thương điểm của gã này rồi. Với con mắt nhìn xa, chàng đã tính trước rằng thể nào rồi cũng có lúc mình đến cái bạc dịch trường này bằng đường bộ và phải đi với một đoàn ngựa thồ rất là đông. Phải thuê cái thương điếm làm sẵn của gã Trương Tam thì mới giữ được bí mật cần thiết của nghề buôn bán.

    Lập tức trên nóc nhà thương điếm của Trương Tam phấp phới lá cờ ngũ hành khổ lớn có đề chữ “Lý đại gia thương nhân Đại Việt”. Gần một trăm con ngựa đã được tháo yên cương, dỡ hàng nặng buộc trong tàu ngựa lớn. Chiếc đèn lông phất lụa đỏ có đề chữ bằng mực nho lớn có ghi rõ “Lý đại gia thương nhân Đại Việt” cũng được treo ở cửa thương điếm. Một đội dũng thủ của bảo tiêu cục Mân Châu đã được Lý Chăm thuê ngay tại chỗ để canh gác vòng ngoài. Các dũng sĩ động Giáp canh gác vòng trong. Người của tiêu cục Mân Châu được cử đi mang danh thiếp báo tin hàng đã đến tất cả các thương gia Trung Nguyên và ngoài quan ngoại, cùng các thương gia các vương quốc đã có mặt trước tại bạc dịch trường này. Trong đó có cả danh thiếp xin yết kiến với quan bạc dịch trường để bàn việc thử lại thước, đóng lại cân thống nhất đo lường giữa hai nước của những vị quan người Việt đi theo đoàn ngựa thồ của Lý Chăm. Chỉ trong một phút chốc cả bạc dịch trường Giang Đông nhộn nhạo lên cả vì sự có mặt của các khách thương Đại Việt cùng đoàn ngựa thồ to lớn.

    Danh thiếp vừa gửi đi lập tức có danh thiếp của các lái buôn Tô Châu, Ba Thục, Biện Kinh, Giang Tây, Hồ Nam, Thiểm Bắc, Cao Ly, Quả Oa, Lộ Lạc… gửi đến hẹn ngày giờ mời đến dự tiêc… Cái lệ ở bạc dịch trường này là thế. Mọi việc giao thương là mang ra giữa chợ mà bán. Mà thường ngã giá hẹn những tiếng bạc lớn trong những bữa rượu, ngay trên chiếu rượu…

    Lái buôn Ba Thục được chính tay Lý Chăm ghi vào danh thiếp mời đến dự tiệc đầu tiên. Lý Chăm bảo Trương Tam rằng:

    - Người đất Tứ Xuyên Ba Thụ thích rượu nồng và dê béo… Các ngươi làm thịt dê cho ta nghe.

    Trương Tam cúi đầu vâng lệnh.

    Khi đại thương gia Ba Thục đến thì gia nhân của Trương Tam đã đi chợ mua dê về ngay trước của nhà khách. Cái lệ ăn cỗ dê là phải uống rượu bằng tiết dê còn nóng mới chảy ra từ mạch máu của con dê đang bị cắt tiết. Cái lệ ấy không có gì thay đổi được. Vì thế chủ khách vừa chia ngôi thứ xong thì tiếng dê kêu thét và tiếng gia nhân quất roi vào thân dê huỳnh huỵch. Dê là loài vật có một tuyến mồ hôi rất lạ. Xưa nay muốn làm thịt dê người ta phải đánh cho con dê toát mồ hôi ra rồi mới cắt tiết lột da. Đánh hàng khắc đồng hồ, người đánh cũng phải toát mồ hôi chứ chưa nó đến con dê. Vì thế làm thịt dê còn ầm ĩ hơn cả làm thịt một con hổ hay một con voi. Thấy tiếng ồn ã như thế, Lý Chăm bực bội lắm. Chàng xin lỗi khách rồi chạy ra sân, gạt đám đồ tể đánh dê ra và cao giọng truyền lệnh:

    - Các người bắt cho ta một con châu chấu ma… nhanh lên…

    Đám đồ tể người Hán nghe nói đến chuyện châu chấu, mà lại là châu chấu ma thì sững người hoảng hốt, chẳng hiểu ra sao cả. Lý Chăm quát lớn thúc bách hơn:

    - Kìa, ta đã bảo mà... bắt cho ta một con châu chấu ma nhanh lên… nhanh lên…

    Thấy sự lạ, những kẻ lái buôn rỗi việc tại bạc dịch trường này xúm lại xem. Bạc dịch trường là nơi buôn bán lớn vì thế việc buôn bán không thể ào ạt xô bồ. Mọi việc cứ kéo dài từ ngày này sang tháng khác, có khi kéo dài hàng tháng. Có khi các lái buôn có hàng muốn trao đổi giá cả cùng nhau cứ mời nhau uống hết vò rượu này đến vò rượu khác mà cũng chưa thể nào ngã giá nổi. Vừa nhấp rượu vừa cò kè nâng giá giảm giá. Người Tống cậy là đất của mình nên thường hay găng giá. Họ sai người nhà của họ, sai cả những phu áp tải, những trạo nhi làm nhà buôn bán lặt vặt, kiếm củi đánh cá để tự cấp tự túc trong suốt thời gian chờ đợi cho đến khi ngã giá… Thời gian dài dằng dặc ở bạc dịch trường người ta chẳng có việc gì làm cả, nên hễ có chuyện lạ là người ta xúm đông xúm đỏ lại xem.

    Đám đồ tể đã mang về con châu chấu ma như lệnh truyền của thương gia Đại Việt Lý Chăm. Đám dân ăn không ngồi rồi sấn lại xem khi chàng thương gia nắm con châu chấu ma trong tay. Họ không bỏ sót một động tác nhỏ nào của người thương gia này và họ chờ đợi anh ta làm phù làm phép gì theo cách man di của nước anh ta. Nhưng anh ta chẳng biến hóa thần thông gì cả. Không biến con châu chấu ma thành con dao để cắt tiết dê, cũng không biến châu chấu ma thành con dê hay con lợn… mà anh ta cẩn thận nhét con châu chấu ma vào một bên tai dê, rồi nhặt một hòn sỏi bỏ vào tai bên kia của con dê. Xong đâu đấy, anh chàng gập hai cái tai dê lại đậy kín cả hai lỗ tai của nó, rồi rút cái khăn đen dài, bó chặt cả đầu dê tai dê lại. Con dê nhảy lung tung vùng vằng cố giật khỏi tay của người thương nhân, nhưng tay anh ta rất khỏe, anh ghì lại và buộc thật chặt. Khi buộc xong chàng lái buôn thả con dê ra.

    Con dê cứ thế nhảy lung tung, khi nghiêng cái đầu về phía này khi nghiêng cái đầu về phía khác; nhưng nó nhảy không lâu. Chỉ vài bước thôi là đã đứng lại. Bây giờ thì con dê chỉ có lắc đầu. Lắc đầu như điên. Kêu cũng như điên trong cái khăn buộc kín… Nó lắc đầu và kêu đến toát mồ hôi đầm đìa như mưa. Chỉ trong giây lát mồ hôi đã xuất hiện ướt đầm bộ lông dê rất dày của giống dê rừng đất Bắc. Đến lúc đó Lý Chăm mới giảng giải:

    - Việc gì phải đánh đập con dê cho nhọc sức mình. Cứ như thế này có phải nhẹ nhàng không nào.

    Người khách thương Ba Thục từ nãy đã bỏ chiếu rượu ra xem, bèn hỏi rằng:

    - Ngài làm thế nào mà con dê cứ đứng lắc đầu đến toát mồ hôi ra như thế. Có phải con châu chấu ma là một vị thuốc độc linh diệu hay không?

    Lý Chăm cười sảng khoái:

    - Làm gì có thuốc với men… Nguyên là tôi dùng con châu chấu ma còn cả đôi càng nhét vào tai con dê. Vào trong tai, vừa chật lại vừa nóng, con châu chấu sẽ đạp cẳng vỗ cánh lung tung trong lỗ tai của con dê. Con dê lắc đầu để tìm cách đẩy con châu chấu ra, lắc đầu thì ba hòn sỏi trong lỗ tai kia lại rung lên đập vào màng nhĩ… Cứ thế con dê sẽ lắc đầu cho đến toát mồ hôi, lắc đầu cho đến chết… Việc gì ta phải đánh cho nhọc sức?

    Rồi Lý Chăm quay lại viên đồ tể dặn rằng:

    - Nhà ngươi thắp một nén hương đem làm cữ… Khi nào hương cháy hết một nửa thì lấy nước lã dội lên con dê và cắt tiết vào bầu rượu cho ta, để ta mời đại thương đây uống thử trước…nghe…

    Tất cả những chuyện náo động đó trong bạc dịch trường Giang Đông không lọt khỏi con mắt xoi mói của tên lính thám mã. Hắn yên chí phóng ngựa ngược lại con đường về nhà quán xá Cổ Vạn phi báo rằng, tên lái buôn bị truy nã không hay biết gì và đã nằm yên trong cái bẫy. Quan trấn thủ Khâm Châu cũng đã được phi báo tin và lệnh truy nã rồi. Binh mã cũng đã sắp sẵn cả… Đêm nay sẽ khởi sự một lượt. Quân từ Khâm Châu, quân từ Cổ Vạn sẽ kéo về bắt gọn cả đoàn ngựa thồ và tên lái buôn nguy hiểm. Đó là lệnh của quan trấn thủ Khâm Châu… Lúc ấy chắc bữa tiệc với đại thương Ba Thục cũng vẫn chưa xong đâu…

    Quả thật bữa tiệc kéo dài đến quá nửa đêm… Chủ khách uống hết bình rượu tiết dê chuyển sang nhắm rượu với các món dê tái, dê bóp thính… Bữa cỗ thịt dê có rượu quý làm ngả nghiêng những người ngồi trên chiếu rượu…

    Đến giờ tí nửa đêm, có một gia nhân trong đoàn ngựa thồ ghé tai nói nhỏ với Lý Chăm:

    - Dạ thưa đại nhân, mọi việc đại nhân dặn đã khu xử xong đâu đấy rồi ạ…

    - Tiền bán ngựa đã thu được đủ chưa…

    - Dạ theo ý đại nhân đã thu bằng vàng…

    - Còn anh em gia nhân và áp tải…

    - Tất cả đã sẵn sàng chỉ còn chờ đại nhân nữa thôi ạ…

    - Còn hàng hóa…

    - Hàng hóa đã bốc xuống thuyền từ nửa đêm… nhưng tất cả các kiện đều nhét đầy rơm để lại… không ai nghi ngờ gì cả…

    Lý Chăm vẫy tay:

    - Cho người lui… bảo đợi ta…

    Đến giờ ấy, đại thương nhân Lý Chăm mới đòi Trương Tam sai người đi mời những ca kỹ nổi tiếng của Giang Châu đến hát múa góp vui… Bữa tiệc sang trọng lại thêm bề nào nhiệt… Đàn tì bà và giọng hát ngân nga của các ca kỹ vang đến tận ngoài nhà trạm, nơi đám kỵ mã của viên đô bảo giáp động Cổ Vạn đang điểm lại quân đội và binh khí… Đến lúc náo nhiệt nhất, lúc mà những thực khách say rượu chuếch choáng ngả nghiêng vì tiếng đàn nhịp phách, ngây dại vì sắc đẹp của các kỹ nữ Giang Châu, thì Lý Chăm mới đứng lên thưa rằng:

    - Đây tuy là thương điếm của đất Trung Nguyên, nhưng tôi lại là lái buôn Đại Việt… Vì thế tôi xin được xử sự như phong tục Đại Việt tại nhà của mình, dù nhà tạm ở nơi thương điếm này… Tục lệ của xứ tôi cứ vào lúc tiệc rượu đến phút tàn canh náo nhiệt nhất, bao giờ chủ cũng xin phép được tắt hết đèn nến trong một phần tư khắc, độ cháy tàn hết một nén nhang đen… Trong bóng tối ấy mọi tội lỗi sẽ được bỏ qua, mọi việc ai muốn làm cứ việc tùy thích… Chẳng hay tại đây tôi có được xử sự theo đúng lệ túc ấy được chăng?

    Lái buôn Ba Thục liếc cô gái đang gảy đàn tì bà mặt hoa da phấn mà cười với giọng khê nồng hơi rượu:

    - Cái tục lệ Đại Việt thế mà hay… tắt đèn đi… tắt đèn đi…

    Tiếng hô tắt đèn nhao nhao… Và lúc đó Lý Chăm mới cúi đầu ra ý nghe lệnh rồi nhẹ phất tay một cái. Tất cả đèn nến trong sảnh đường tắt phụt. Tiếng đàn hát cũng tắt luôn. Tiếp đó là tiếng giằng xé quần áo, tiếng cười khúc khích, tiếng thở hổn hển… Đèn tắt không ai nghĩ đến chuyện thắp lại nữa… Không ai để ý đến nén nhang làm cữ báo giờ giờ thắp lại đèn nữa…

    Mãi đến lúc tiếng vó ngựa vang động, hàng trăm ngọn đuốc vây quanh thương điếm thì đám người mê mệt trong sảnh đường mới choàng tỉnh giấc mộng xuân… Viên đô bảo giáp động Cổ Vạn và quan trấn thủ Khâm Châu hét lính thắp lại đèn đuốc và gọi Lý Chăm ra hầu thì than ôi không còn một bóng người Đại Việt nào còn ở trong thương điếm này. Hỏi đến tàu ngựa, thì trừ con ngựa Chàm đã bị dắt đi từ lúc nào còn toàn bộ tàu ngựa gần một trăm con đã được bán đứt cho một lái buôn ngựa Hoa Nam. Hiện tên lái buôn ngựa cũng đang say ngất ngư trong sảnh đường. Giá mua ngựa hời, mà cô gái hắn ôm khư khư bên mình thì trẻ đẹp. Hỏi đến văn tự bán ngựa thì văn tự cũng đã có đầy đủ và được áp triện từ lúc nào rồi. Hỏi đến hàng hóa chất trong kho thì kiện nào kiện ấy còn chất đầy, nguyên vẹn, nhưng lục lại khám xét thì đó lại toàn là những kiện hàng giả, chỉ có vỏ bọc là sang trọng, còn bên trong nhét toàn rơm…

    Cả một rừng đuốc theo tiếng vó ngựa tràn ra bến sông thì quan tuần Giang cho biết có một đoàn khách thương người Lôi Châu có đầy đủ tín bài đã kéo neo bốn chiếc thuyền đinh lớn, theo nước thủy triều xuống ra khơi. Đoàn thuyền Lôi Châu Vạn Hoa đã cắm neo ở bến này buôn bán từ hơn hai tháng nay… Việc họ nhổ neo theo con nước rã, họ đã xin với quan tuần sông và hà khẩu từ cả một tuần trăn nay rồi… Đêm nay họ đi… Hình như họ có mua được một con ngựa Chàm cao lớn và đưa xuống thuyền…

    Lái buôn Vạn Hoa Lôi Châu có nghĩa là lái buôn Đại Việt, vì tuy Lôi Châu trong bản đồ của nhà Tống nhưng gần với quần đảo Vạn Hoa là quần đảo biên ngoại của Đại Việt, phía trong nội giới, tính từ bạc dịch trường Vân Đồn của vương quốc này. Như thế là người Đại Việt đã cho thuyền và cho một lực lượng hộ tống rất lớn nằm sẵn ở đây để đợi thương nhân Lý Chăm… Họ đã nằm ngay trong cái bẫy giương sẵn để phá bẫy…

    Giờ khắc này con thuyền của Lý Chăm, và đoàn thuyền đó đã giương buồm vượt ra ngoài cửa khẩu. Họ đã biến thành những con thuyền chiến hùng mạnh, bất kể thuyền cướp biển hay thuyền quan quân cũng khó lòng mà trấn áp được họ…

    Đoàn thuyền đó nhằm phía cửa sông Bạch Đằng vào nơi hội lưu của sông Lục Đầu….

    Một tuần trăng sau đoàn thuyền đã ngược sông Như Nguyệt đỗ lại ở bến Chờ. Tại đây, những thủ lĩnh của động Giáp đã hạ trại ở bờ bắc để đón hàng về. Tù trưởng trẻ tuổi Thân Cảnh Phúc đã chờ ở trại quân bên bến Chờ suốt một tuần trăng này. Các đồ sính lễ quý báu của dân động núi đã sẵn sàng, cả những vật thu được trong chiến công đánh thăm dò sang đất Tống cũng đã đóng thành kiện: những áo giáp, những cờ lệnh của quân Tống mà Cảnh Phúc lấy được; chỉ còn chờ thêm những gấm Ba Thục, những lụa Tô Châu, những đồ sứ Giang Tây, và biết bao sản vật khác mua từ đất Tống để cho đồ sính lễ thêm phần huy hoàng long trọng. Chứng tỏ rằng tù trưởng động Giáp đi làm phò mã triều đình nhà Lý cũng không kém gì những bậc vương giả tận bên Tống triều cưới vợ.

    Thuyền vừa thả neo trên bến, lập tức có người đến tìm thương nhân Lý Chăm lên gặp tân phò mã…

    Trại của châu mục của tù trưởng động Giáp là trại dựng bằng các tấm da hổ ken lại thành những tấm lớn, bọc khung lầu bằng bạc. Điều đó chứng tỏ sự hùng mạnh của động Giáp. Sự thực động Giáp là một động lớn nhất trong các khê động vùng biên thuỳ phía bắc. Không những lớn mà lại là một trọng trấn ngoại biên. Vì động này vừa gần kinh đôn Thăng Long, vừa nằm trên con đường tiến quân thuận lợi nhất từ biên cương nhà Tống vào thẳng kinh thành. Động Giáp phía bắc tới ải Chi Lăng, phía nam bao bọc cả một vùng Lạng Châu, Thượng Châu. Ăn thông đến bờ bắc của sông Như Nguyệt. Cầm đầu động này là một dòng họ nhiều đời cha truyền con nối giữ quyền trượng và bảo kiếm của người tù trưởng. Người đó vốn họ Giáp. Dòng họ Giáp vốn là một dòng họ sản sinh những võ tướng rất giỏi đánh rừng núi. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi, thì tù trưởng động Giáp là Giáp Thừa Quí. Lúc bấy giờ Giáp động còn nằm trong các khê động còn chưa thuần phục hẳn vào nước ta. Lý Công Uẩn dời đô đến Thăng Long, nhiều người đã có ý can ngăn vì tù trưởng động Giáp Thừa Quí rất mạnh. Lại có sự xúi giục của các biên thần nhà Tống đang nhăm nhe bành trướng xuống phía nam. Từ động Giáp khởi binh thì chỉ trong vòng một ngày ruổi vó ngựa là tràn đến trước sông Cái, ngay chân thành Thăng Long. Chỉ cần một mình quân của động Giáp thôi, kinh thành Thăng Long cũng đã lâm vào thế lao đao nguy hiểm. Nhưng mặc cho nhiều người lo sợ khuyên can, Lý Công Uẩn vẫn quyết dời đô về Thăng Long mở rộng địa bàn cho đất nước. Định đô xong, việc đầu tien Lý Công Uẩn mang đại binh lên động Giáp. Giáp Thừa Quí thấy binh lực của nhà Lý hùng cường, tấm lòng của Lý Công Uẩn lại nhân hòa, không có ý đe dọa thôn tính mình, nên đã bằng lòng quy phục. Lý Công Uẩn bèn gả con gái mình cho Giáp Thừa Quí, và ban cho Thừa Quí họ mới, là họ thân vương. Từ ấy giòng họ Thân ra đời, cha truyền con nối làm châu mục giữ chức thân vương. Con trai của Thân Thừa Quí là Thiệu Thái nối nghiệp cha là thân vương châu mục động Giáp lại được vua Lý Thái Tông gả công chúa Bình Dương cho. Không những thế Lý Thái Tông còn mở rộng đất đai Lạng Châu cho phò mã Thân Thiệu Thái. Con phò mã Thân Thiệu Thái là Thân Cảnh Phúc, hiệu là Đạo Nguyên lại được kén gả cho công chúa Thiên Thành là con gái đầu lòng của vua Thánh Tông… Nhưng vua Lý Thánh Tông băng hà đột ngột, nên đám rước vu qui tạm hoãn ít ngày. Theo lệ của các triều đình có khi phải lùi lại ba năm cho mãn hết tang cha.

    Khi vua Nhân Tông lên ngôi, bà Thái phi Ỷ Lan lên nhiếp chính, Tiết chế Lý Thường Kiệt là Tể Chấp; việc cưới hỏi lại được tiến hành gấp ngay. Quan Tể Chấp Lý Thường Kiệt cho rằng:

    - Việc cưới hỏi của các bậc vương giả không phải là việc tầm thường mà phải lụy vào đạo nho. Đây là việc quốc gia đại sự. Vì việc giữ giường mối của biên cương đất nước nên ta không nên nệ vào chuyện tang chế mà đình hoãn…

    Ỷ Lan phu nhân bằng lòng với quan Tể Chấp và đã cho gọi Thân Cảnh Phúc về triều, định ngày làm lễ vu quy cho công chúa Thiên Thành. Nhân gặp Thân Cảnh Phúc, Thái phi dạy rằng:

    - Dòng họ Thân nguyên xưa là họ Giáp, đã được giữ đạo thân vương nên Thái Tổ triều ta ban cho họ Thân. Nhưng tại sao động của con lại cứ gọi là động Giáp.

    Thân Cảnh Phúc thưa:

    - Tên gọi ấy đã có từ lâu đời… Có lẽ vì động của con ở nơi giáp nam giáp bắc. Nam giáp Lý Triều, bắc giáp nước Vạn Xuân Đại Lý cũ. Bộ tộc con ngày xưa không có họ. Là người động Giáp thì gọi là họ Giáp, tức là họ của người đứng chủ tên động mà thôi.

    Ỷ Lan phu nhân ngẫm nghĩ rồi truyền rằng:

    - Trước thì gọi là động Giáp cũng có lý… Nhưng nay dòng họ của người là dòng họ thân vương, hơn nữa, tất cả đất đai đều nằm trong cõi bờ Đại Việt, nên gọi là Giáp không đúng. Nay ta ban đổi một tên mới, hợp hơn, chẳng hay con thấy thế nào.

    - Bẩm xin lệnh bà cứ nói, con xin cúi đầu chịu ơn.

    - Được, từ nay, ta thấy nên gọi vùng con đóng giữ nối đời đời truyền cho cháu dòng họ thân vương là động Kép. Kép là ghép đôi tỏ rằng đời đời người động Kép ghép đôi với triều đình.

    Thân Cảnh Phúc đã dâng lên bà Thái phi nhiếp chính Ỷ Lan một đôi chim công trắng để tỏ lòng biết ơn triều đình ban tên mới cho động của mình. Từ ấy vùng đất cũ của dân động Giáp được gọi là vùng Kép.

    Điều này khi lên hầu tân phò mã Thân Cảnh Phúc, lái buôn Lý Chăm mới được biết. Vừa bước vào lều trại của phò mã Thân Cảnh Phúc, lái buôn Lý Chăm đã nghe thấy tiếng hỏi nôn nóng:

    - Thế nào, tất cả thứ sản vật ta dặn, ngươi có mua về đủ không?

    Người nói câu đó chính là phò mã Thân Cảnh Phúc. Lý Chăm ngước mắt trông lên thấy một trang nam nhi anh tuấn ngồi trên một chiếc ghế tréo bọc da cọp vằn. Lý Chăm vội thưa:

    - Bẩm phò mã thân vương, hàng Lý Chăm này sắm suốt dọc các bạc dịch trường lớn khăp miền Hoa Hạ, sang trọng đến mức mà nếu đám cưới của công chúa con vua Tống Thần Tông có mở ra ngay ở đây cũng chẳng thể nào sánh bằng đám cưới của phò mã và công chúa Thiên Thành triều Lý đâu.

    Phò mã Thân Cảnh Phúc hể hả:

    - Ta vừa nóng ruột vừa lo cho nhà ngươi… Thôi sai bọn gia nhân bốc hàng lên ngay bến Nam Ngạn, ta sẽ làm lễ xuất phát về kinh ngay bây giờ. Tất cả các đồ sính lễ của ta đã chọn sẵn đủ rồi, chỉ chờ có các vật sản phương bắc mà nhà ngươi mang về nữa là đủ…

    Lý Chăm vội thưa:

    - Bẩm lời phò mã truyền bảo tôi đã sai gia nhân làm ngay trước khi đến đây hầu phò mã… Nhân đây tôi xin tỏ lòng biết ơn sự chu đáo của phò mã, tuy ở trong nước mà lo cho kẻ bôn ba ngoài vạn dặm.

    Phò mã Thân Cảnh Phúc xua tay:

    - Đừng có cảm ơn ta, ta không có cái công to lớn ấy đâu, công của ta chỉ là thu xếp việc, còn người khu xử mọi việc như thần là quan Tể chấp Lý Thường Kiệt… Người đã đoán biết ngươi sẽ bị lộ, nên đã sai ta kén trạo nhi và tay chân thân tín giả làm lái buôn Vạn Hoa đến đón trước ở bạc dịch trường Giang Đông…

    - Thế thì tôi phải đến trước mặt quan Tể chấp để cúi đầu tạ ơn cái ơn cứu mạng lớn lao này…

    - Quan Tể chấp rất mong gặp nhà ngươi… Vừa đây Người sai đưa thư cho ta nhắn ta rằng, nếu nhà người về phải bảo nhà ngươi đến ngay dinh của Người tại Thăng Long… để hỏi chuyện… Người cũng đang muốn hỏi cả chuyện đánh sang nước Tống để lấy đồ sính lễ của ta nữa.

    Lý Chăm cười hồ hởi:

    - Trên đường thiên lý kẻ thương nhân này cũng được nghe tin và thấy sự rung động của quân tướng biên ải nhà Tống trước cuộc hành binh chinh phạt của phò mã… Cuộc hành binh rung động chẳng khác gì cuộc hành binh của đức ông phò mã Thân Thiệu Thái năm xưa.

    Nhắc đến Thân Thiệu Thái, tức là nhắc đến võ công của cha mình, tân phò mã Thân Cảnh Phúc không khỏi cảm thấy hứng khởi, tự hào.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    Nhân sinh vô hối nhập Touhou
    Kiếp sau nguyện sinh Gensokyo

    ---QC---


Trang 1 của 3 123 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status