Ông đã từng là một danh tướng lẫy lừng nhưng từ bỏ công danh sau khi Triều Lê thành công giành được giang sơn để theo đuổi mối thù nhà, thù sư môn cùng với tình yêu đẹp như huyền thoại với con gái kẻ thù…
Hoa Nở Trên Tuyết (Trịnh Khả Truyền Kỳ) là một câu truyện mà lịch sử chưa từng nhắc đến nhưng lài một giai thoạt lưu truyền trong nhân gian đẹp và đáng trân trọng
Kính bút!
Tác Giả – Cổ Ngọc
Cả bốn tên áo đen lùa tay vào thân mình. Rút ra một ống đồng quỷ dị.
Thân pháp của chúng bỗng nhiên quay tít, thân ảnh như gió lốc ảo mờ cuốn lấy cả hai người đang bị truy sát. Từ các ống đồng phun ra những mũi kim châm, giống như một làn mưa trùm lên hai nhân ảnh.
Hai người bị truy sát tức tốc thi triển hết tuyệt nghệ ngăn chặn màn ám khí của bọn áo đen. Nhưng người trung niên nho sinh vẫn bị trúng một mũi kim châm vào bả vai lảo đảo ngã xuống, miệng quát nhẹ:
Gã đầu lãnh cũng trúng một mũi tên nơi bả vai nhưng gã cắn răng chịu đau chúi đầu về phía triền dốc bắn mình bỏ chạy.
Thiếu niên bên cạnh vị hòa thượng rách rưới không biết ra tay từ lúc nào đã phóng ra ba mũi xạ tiễn. Một mũi cắm vào cổ gã tay chân áo đen, mũi kia bắn vào ống đồng và mũi còn lại cắm ngập vào bả vai gã đầu lĩnh. Thật là tiễn pháp kỳ diệu có một không hai.
Hai người khách bị truy sát ngơ ngác nhìn thầy trò vị hòa thượng vẻ mặt lo âu. Người trung niên nho sinh sắc mặt nhợt nhạt vì trúng ám khí chắp tay về phía vị hòa thượng cất giọng:
- Hôm nay chủ tớ chúng tôi chạy nhầm vào cấm địa của phật hữu. Biết rằng tính mạng chẳng còn, chết cũng không lời oán thán. Nhưng lòng vẫn phải thốt ra lời cám ơn vì đã không để thầy trò ta chết trong taylux ác nhân Minh tặc.
- A di đà phật ! thí chủ khách sáo rồi. Ai nói các vị phải chết. Vị hòa thượng rách rưới cười vang. – Thí chủ trúng ám khí “Bạo Vũ Lê Hoa” của Đường Môn. Có kịch độc phải mau chữa trị kẻo không kịp đâu
- Khả Nhi! Mau đưa vị tiên sinh đây về tự để ta cứu chữa.
Thiếu niên dạ lên một tiếng rồi phóng mình tiến đến định đỡ lấy nho sinh. Nhưng hắn bị thanh niên đen đúa đẩy cho một cái loạng choạng.
- Để ta! Không cần ngươi.
Hắn ghé vai xốc trung niên nho sinh nhẹ như một chiếc lá. Chân khều các vật dụng giỏ mây, cái tay nải, cùng đao kiếm bay lên như ma thuật. Hai cánh tay khua lên mấy vòng các vật dụng đã đáp lên người hắn một cách thần kỳ.
Nho sinh nằm trên lưng gã mặt nhợt nhạt cất lên giọng yếu ớt.
“Thiên Nhai Tự” – Mang tiếng là một ngôi chùa. Nhưng nếu không phải chủ nhân của nó chắc khó có thể tìm ra. Vì nó ẩn mình trong một hang động, giữa một vùng núi non hiểm trở Lam Sơn. Cửa động tuy có xây sửa chạm khắc mấy chữ “Thiên Nhai Tự”. Nhưng lại ẩn mình trong khe núi cỏ cây gai góc, ít ai có thể ngờ được nơi cư ngụ của một cổ tự tiếng tăm lừng lẫy giang hồ.
Tương truyền vị quái sư ở ẩn trong nhai tự là một võ lâm cao thủ, vốn là tướng của nhà Minh bị gian thần vu vạ mắc trọng tội, bị truy sát khiến ông phải lưu lạc từ trung nguyên tới vùng đất An Nam chướng khí này.
Bước chân lưu lạc, khiến ông tìm được ngôi ẩn tự. Ông hết sức vừa ý nên chọn làm nơi ẩn cư. Ông chiêu nạp bốn đồ đệ mang vào hoang tự đào tạo dạy võ nghệ nhằm đề phòng sự truy sát của bọn sát thủ Đông Xưởng triều Minh.
Để đe dọa người đời bén mảng đến cổ tự. Ông cùng đám đệ tử giết người không gớm tay, làm cho vùng Trúc Sơn Thiên Nhai thành một tử địa không ai dám bén mảng từ nhiều năm nay. Biến nó thành một truyền thuyết mà người đời nghe đến đã sởn tóc gáy…..
Thầy trò Nguyễn Trãi cũng từng nghe về giai thoại ớn lạnh này, nên đều nghĩ hôm nay mình không toàn mạng… Ai ngờ …
Dưới ánh lửa đốt bằng mỡ thú rừng trong hang, vị hòa thượng lấy ra một ống trúc nhỏ. Ông xé vạt áo vị nho sinh để lộ ra một vùng vai đen bầm. Miệng lẩm bẩm
– May quá chậm chút nữa là nguy đến tính mạng, không cứu được…
Người bệnh đã chìm vào mê man. Hòa thượng rút nắp đậy ống trúc, ghé miệng ống vào vết thương trên bờ vai nho sinh. Từ trong ống trúc, một cái đầu con vật nhỏ thò ra như đầu rắn, lưỡi đỏ rực như chớp lửa. Lượn quanh vết bầm đen của vết thượng nơi mũi châm cắm vào.
Con vật này mình rắn nhưng có bốn chân như thằn lằn, thân màu đỏ xậm có những đốm vàng lấp lánh như kim sa bốc lên một mùi tanh hôi khủng khiếp.
Chỉ trong giây lát các lằn đen của độc tố trên vai nho sinh đã biết mất. Con vật dường như đã no nê thỏa mãn quay đầu chui vào ống trúc.
Hòa thượng đậy nắp ống trúc lấy trong mình một viên đá lăn vào vết thương của nho sinh. Một mũi kim châm bé như sợi tóc bám lên viên đá. Hòa thượng khẽ lắc đầu.
- Bạo Vũ Châm của Đường Môn thật là tàn độc. May mà những kẻ phát động ám khí chỉ là tay chân của gã Đường Vạn Kim lâu chủ của thôi minh ám vệ mà thôi nên tính mạng của tiên sinh mới giữ được.
Nho sinh sau khi được cứu chữa, dường như đã tỉnh táo ngước đôi mắt đầy vẻ cảm kích nhìn vị hòa thượng.
- Tiểu sinh may mắn gặp được đại sư. Tính mạng này được giữ lại vô cùng cảm kích. Không biết đại sư có phải là….
- Tiên sinh yên tâm cứ nghỉ ngơi cho khỏe, bần tăng không phải là Sát Nhân Chi Phật. Đó là gia sư của bần tăng. Người không ở đây. Người cùng ba vị sư huynh đã về trung nguyên rồi chắc phải thời gian dài mới trở lại đây.
Giọng ông bỗng chùng xuống
- Đã hơn 2 năm rồi. Nơi đây chỉ còn mình bần tăng cùng tiểu tử mồ côi mà gia sư để lại.
Đưa mắt nhìn ống trúc trong tay vị đại sư. Vị nho sinh có ý dò hỏi.
- Đây là “Xích Xà Kim Hoa” là vật gia sư để lại. Nó là loài rắn không răng duy nhất chỉ thích ăn các loại chất độc. Vài ngày lại phải thả nó ra để nó hấp thu chất độc. May mà lần này tiên sinh trúng ám khí, nó bị nhốt ba bốn hôm rồi nên gặp chất độc Đường Môn nó rất thích thú mới hút hết chất độc trên mình tiên sinh. Nên ngài mới tỉnh lại mau như vậy, nếu không chắc tiên sinh phải nằm nửa tháng để nó hấp thu chất độc dần dần. Chất độc còn sót lại trên mình tiên sinh do nó không hút hết, có thể theo máu gây họa cho tiên sinh. Phải một thời gian dài mới có thể lành hẳn. Mặc dù bần tăng dung thuốc để ngăn chặn nhưng cũng chưa chắc trị được triệt để. Vì chất độc của Đường Môn rất quỷ dị khó lường.
- Dám hỏi tiên sinh quý tính cao danh? Tại sao lại đi lạc vào vùng trúc sơn nhai hiểm trở này? Chỗ này mấy chục năm rồi không có ai dám bén mảng bởi tai tiếng của gia sư truyền miệng trên giang hồ.
- Tiểu sinh tên Trãi vốn là một đồ nho của vùng Chí Linh Sơn. Sau khi giặc Minh tràn sang hủy diệt nhà Hồ, mấy vị tướng lĩnh nhà Trần, trong đó có Nguyễn Súy tướng quân phò trợ ấu chúa Trần Cảo chạy về vùng Chí Linh Sơn lẩn tránh. Tụ tập nghĩa quân khắp nơi dựng cờ khởi nghĩa.
- Gần đây nghe tin vùng Lam Sơn có vị sơn chủ họ Lê dựng cờ khởi nghĩa. Đánh cho quân Minh nhiều trận thất điên bát đảo. Nhưng vừa rồi bị trúng kế của bọn Vương Thông, Mã Kỳ mà thua trận đang lui về vùng núi khu vực này để bảo toàn lực lượng. Sơn chủ cử người ra liên lạc với Nguyễn Súy tướng quân. Bức địa đồ này, là do vị tướng Phạm Văn Sảo vẽ chỉ đường cho tiểu sinh đi tìm căn cứ của nghĩa quân.
- Bần tăng và tiểu tử sống nơi hoang sơn vốn cũng chẳng tu thân theo lẽ thường, chỉ tu tâm trong sạch nên không kiêng kỵ chuyện tửu thực. Mong tiên sinh đừng câu nệ.
Vị nho sinh tên trãi vội chắp tay
- Tiểu sinh vốn bị thương nên không tiện ăn uống, mong đại sư xá cho. Mọi người cứ tùy tiện dùng.
Người thanh niên cũng lục trong gùi lấy ra một số lương khô bầy lên cho thêm phong phú. Mặt thoáng một nét cười ra vẻ chào mời.
- Tiên sinh kiến thức uyên bác. Nếu bần tăng không lầm thì tiên sinh là Ức Trai được người đời ca tụng là Ngọa Long Phương Nam.
- Đại sư quá khen, tiểu sinh quả nhiên tên húy là Ức Trai.
- Thật là vạn hạnh, cơ duyên cho bần tăng được hội ngộ với khuê tinh của Chí Linh Sơn.
- Tiểu sinh xin hỏi đại sư, người có biết chút tin tức của vị sơn chủ họ Lê ở vùng Lam Sơn này không?
- Tiên sinh yên tâm, bần tăng tuy ở sơn dã nhưng cũng thông tỏ chính sự. Bần tăng được biết sau khi vị sơn chủ bị bọn giặc Minh cấu kết với mấy tên quân vương Ai Lao dồn vào đất chết. Nhưng không ngờ chốn tử địa ấy, lại là động cơ để người dụng binh tiêu diệt hơn nửa quân Ai Lao và đánh tan mấy cánh quân Minh tặc. Nhưng nguyên khí nghĩa quân cũng bị tổn thất lương thảo cũng bị mất sạch rút về thượng nguồn sông Chu vùng liên hoàn sơn gọi là Lũng Thượng trú ẩn.
- Vùng căn cứ này trong một thung lũng dễ thủ khó công, có sông bao bọc lại thêm nguồn thực phẩm tự nhiên cung cấp chắc là bảo toàn được thực lực để chờ cơ hội phản công. Từ vùng nhai sơn này đi tới đớ cũng phải mấy chục dặm. Hai vị cứ nghỉ ngơi cho khỏe rồi tiểu đồ sẽ dẫn đường đưa hai vị tới nơi.
- Nói thực với ngài. Trong bốn sư huynh đệ tôi, võ công của tôi kém cỏi nhất nên trước đây không sống ở trong tự mà trú tại đạo quán trong Trúc Lâm hái thuốc, hành y. Là rừng trúc trên lối vào sơn động. Sau này gia sư có việc cùng các sư huynh về trung nguyên nên bần tăng mới về sống trong động tự với Trịnh Khả. Trong ba vị sư huynh của tôi Nhị sư huynh cũng được gia sư cứu sống cùng Trịnh Khả. Ta nghĩ Trịnh Thôi sư huynh sẽ biết nhiều hơn.
- Tôi chỉ biết gia sư rất yêu quý nó, nên ngay từ nhỏ người dày công rèn giũa kiếm tìm các loại thuốc trân quý chữa trị cho nó. Mình mẩy nó ngâm thuốc nhiều tới mức khó có loại độc nào thâm nhập được. Vì không luyện được nội công nên nó chuyên tâm rèn luyện ngoại công. Thân thủ dẻo dai nhanh nhẹn. Nếu có được nội công tâm pháp thì cũng kể như là một cao thủ.
- Chắc người dạy chữ cho Trịnh Khả?
- Ồ! Đúng ta mới dạy nó hai năm nay từ lúc gia sư đi nhưng đứa trẻ này sáng dạ. Hơn nữa nó hay theo tam sư huynh vốn là một pháp sư xuống các bản trấn hành nghề coi bói cúng tế nên cũng đã vẽ bùa chú. Vì thế, nét bút rất tốt. Chữ của nó còn đẹp hơn cả bần tăng. Sách y thuật mà ta có nó đọc gần hết rồi. Chỉ đáng tiếc nó không có nội công nên bí pháp “Thiên Kinh Kỳ Huyệt” của ta đành thất truyền thôi, nó không thể châm cứu đả huyệt…!!
- Tại sao tiểu huynh đệ lại sống không quá hai mươi tuổi?
- Tương truyền giang hồ tồn tại một môn phái chuyên về nghề đạo chích. Tuyệt học của họ là Quy Tức Công và Súc Cốt Công. Người tập haii môn công phu này phải trải qua muôn ngàn đau khổ. Vì thế họ đã chế ra loại thuốc “Trụ Tâm Nê Hoàn Đan” mỗi người chỉ dùng một viên khi đến tuổi trưởng thành. Sau đó sức thuốc tồn tại mãi trong cơ thể giúp họ luyện hai môn công phu trên. Gia sư đoán rằng, mệnh phụ từ mẫu của Trịnh Khả xuất thân từ Công Thâu Quán. Trịnh Khả uống viên thuốc đó giả chết cứu mạng. Nhưng sức thuốc vẫn còn trong cơ thể. Nay tuổi còn nhỏ chưa phải trải qua hỉ, nộ, ái, ố. Nên thuốc chưa phát tác, qua tuổi trưởng thành thuốc sẽ phát tác. Khí Hải Tuyết Sơn không còn thì tâm mạch đứt khó thoát khỏi cái chết. Ta cầu mong sao cho nó gặp được cơ duyên thoát kiếp số. Trăm sự nhờ cả vào tiên sinh. Ta sẽ giải thích với gia sư sau . Người muốn phạt sao ta cũng xin chịu.
Hành giả hòa thượng bịn rịn chia tay với tiểu Khả muốn căn dặn rất nhiều mà lòng vẫn không an tâm. Rút trong hốc đá một ống tre, ông đưa cho Trịnh Khả dặn dò
- Đây là gia tài rất quý giá của ta. Nay giao cho con, mỗi lúc rảnh mở nó ra xem và trân trọng bảo tồn không được làm mất. Trong này là cuộn lụa ghi chép tạp ký của Hồng Nghĩa Y Sư Tuệ Tĩnh. Nó chỉ là ghi chép trong thiên hạ bao gồm cả các chuyến đi sứ trung nguyên nhưng ẩn chứa kiến thức cả của Hoa Đà, Biển Thước. Những điều mà lão sư trải nghiệm chưa được kiểm chứng nên không ghi vào sách. Tố chất của con rất thông tuệ nên ta mong con sẽ ngộ ra những chân lý trong này.
Ra khỏi rừng trúc. Nguyễn Trãi dừng lại nói
- Tiểu Khả chúng ta phải bàn trước hành trình thế nào cho phù hợp. Tiểu huynh đệ hãy trình bày qua để ta biết.
- Dạ đại thúc. Từ đây đến Lũng Thượng nơi sơn chủ trú quân có 2 con đường. Phía dưới dễ đi nhưng xa. Cháu chắc chắn lũ giặc Minh đang ém quân phục sẵn. Bây giờ chỉ còn đường đi ngược lên trên núi men theo khe suối. Sẽ phải vượt qua mấy ngọn thác sau đó vòng qua hai ngọn núi nữa sẽ thấy Lũng Thượng. Còn đường này ngắn hơn nhưng rất hiểm trở vì thế đến gần căn cứ nghĩa quân hơn tránh được cạm bẫy mà sơn chủ cho lắp đặt. Cháu đi hái thuốc hay đi con đường này, chỉ sợ đại thúc không quen nên khó vượt qua.
- Được, nghe theo cháu ta phải cố gắng thôi.
Vượt qua rừng trúc cả ba tới một con suối nước săm sắp đá trơn nhẵn, rêu bám dầy mặt đá nên rất trơn. Trịnh Khả thì thoăn thoắt nhảy từ tảng đá này sang tảng đá khác hết sức thành thục. Nguyễn Trãi và Hắc Miêu thì vo cùng vất vả mới đi được hơn trăm thước dưới lòng suối đã bị ngã mấy lần.
Trịnh khả nhảy lên phía bờ suối lát sau quay lại, bỏ trên tay ra mấy miếng vỏ cây xù xì kêu lớn:
- Đây là vỏ cây Thạch Lũ, chỉ ở vùng này mới có. Vì thế khiến đại thúc và ca ca vất vả rồi. Từ bây giờ ngược lên theo ngọn suối này, hai người không bị trơn ngã nữa. Loại vỏ cây này rất kỳ diệu. Những cái gai tròn cứng nhưng lại dẻo, lớp trong mềm nên bám đế giày không đau. Khi bám mặt đá trơn như giác hút nhấc gót nhón mũi giày thoát lực bám rồi nhảy chúng ta sẽ dễ dàng di chuyển trong lòng suối.
Trịnh Khả làm động tác thao luyện sơ bộ cho thầy trò Nguyễn Trãi tập theo.Quả nhiên, thật là kỳ diệu đôi chân rất bám mặt đá di chuyển đúng động tác thì lực hút đế giày bị hóa giải không khác gì đi trên mặt đất..
Trịnh Khả nói đi ngược dòng suối vất vả một thì lúc xuống vất vả gấp hai lần. Mong hai người hết sức cẩn thận.
Vượt qua ba ngọn núi, không biết bao nhiêu con suối ngon thác. Chiều tối ngày thứ ba, ba thầy trò đã tới được ngọn núi nằm sát Lũng Thượng. Trịnh Khả quay lại nói.
- Đại thúc, kia là Lũng Thượng, nơi có ánh lửa là trại nghĩa quân. Nhưng giờ này chugns ta không vào được vì cạm bẫy rất nhiều. Đêm tối khiến nghĩa quân không phân biệt được địch ta, sẽ tấn công tiêu diệt. Vì thế đêm nay phải nghỉ tại đây, phía trước có một hang động. Chúng ta tới đó nghỉ tạm.
- Trãi gật đầu – Mọi việc nghe cháu.
Ông nhìn hút theo bóng lưng cậu bé, một tình cảm ấm áp dâng lên. Chợt nghĩ tới những lúc trên đường, cậu bé cột dây vào cả ba người thoăn thoắt leo lên thác kéo họ lên từng bước. Bao gian lao nguy hiểm cứ coi như không. Miệng lúc nào cũng tươi tắn một nụ cười. Không biết thù hận của gia tộc sau này, Trịnh Khả sẽ đối mặt ra sao?
Hang động ba thầy trò dừng chân có hình dạng kỳ lạ. Miệng hang phía dưới rộng một khe nứt vút lên đỉnh núi. Nhìn từ cửa hang giống như một cây đàn tỳ bà.
- Đại thúc, hang này được gọi là tỳ bà động. Vào đêm gió lọt qua khe thổi vào trong động phát ra âm thanh như tiếng ma tru quỷ khóc. Nên người dân ở đây rất ít ai dám đến. Nhưng đi sâu vào bên trong, có một hồ nước nhỏ rất sâu. Không khí ở đó rất ấm, cháu và tam thúc đã ở rồi. Chẳng có ma quỷ gì hết. Trong hồ có rất nhiều cá Bỗng, thịt rắn và rất thơm. Chúng ta thưởng thức một bữa tiệc mà sơn thần tặng cho nhé! Nào mời đại thúc và ca ca.
Qua cửa động là một vòm hang lớn vết nứt trên có thể nhìn thấy trời xanh. Quả nhiên, có những âm thanh kỳ dị như ma tru quỷ khốc. Sởn da gà. Hắc Miêu rùng mình thốt lên.
Nguyễn Trãi cầm con cá đang giãy dụa trong ánh lửa hồng, nhìn nó nói.
- Sao con lại gọi loài cá này là cá Bỗng?
- Dạ, gọi theo người địa phương thôi.
- Loài cá này, tên thật là cá Dầm Xanh, loại cá tiến vua. Người xưa có câu “Thứ nhất Dầm Xanh, Thứ hai Anh Vũ”. Nhưng loài cá này có một đặc điểm là bách độc bất xâm. Cho nên nó ăn các loại kỳ độc vẫn sống an toàn. Nhưng con người ăn thịt cá, nếu ở vùng có chất độc. Có thể bị ngộ độc, vì thế nhiều nơi gọi nó là cá thần, lập đền thờ phụng. Tục tiến vua loài cá này cũng bị bỏ đi. Nhưng cá ở đây ăn được không có độc. Phân biệt điều này dựa vào nhìn sống lưng của nó. Nếu lưng của nó ánh lên màu xanh biếc là có độc. Môi cá đỏ vây hồng, thì không thể ăn.
- Dạ con cùng tam thúc đã nghỉ ở đây. Từng ăn cá này cũng không được giảng giải chi tiết như đại thúc. Hôm nay mới biết những điều thúc nói. Còn cá Anh Vũ là cá gì, trông nó thế nào?
- Cá Anh Vũ là cá sống ở vùng ngã ba sông Cái và sông Thao. Ở đó có mấy ngọn núi, có hang ngầm thông tới lòng sông. Chỉ có dân ở đó mới biết làm mồi câu loài cá này. Vùng vực Ấm Thượng cũng có. Ta nghĩ hang động ăn thông với nhau. Cá Anh Vũ trông giống cá chép nhưng miệng loe như mõm lợn, môi vây màu đỏ, thịt thơm. Quý nhất là đôi mắt của nó. Nghe đồn ăn nhiều khiến người mù cũng có thể thấy ánh sáng.
Ba thầy trò ăn uống no nê. Hương vị của loài cá quý còn đọng lại trong tâm khảm. Hai cậu trai lăn ra là ngủ ngay. Đã mấy ngày vất vả gian truân. Trãi trằn trọc mãi không ngủ được. Lòng còn vướng vất bao thắc mắc đoạn trường. Không biết vị sơn chủ họ Lê kia có đáng tin hay không? Tài đức có thể gánh vác an nguy của bách tính hay không? – Vị đức vương Trần Cảo kia thì không thể nào có được tài và đức đáng để cho Trãi đặt niềm tin vào việc phục quốc. Tướng quân Nguyễn Súy, tuy trung dũng nhưng tầm nhìn hạn hẹp, quá kiêu dũng không thể gánh vác sức nặng của lê dân. Tên quân sư phó tướng thì quá hiểm độc, luôn tìm cách dồn Trãi vào chỗ chết. Nếu không vì vị Thái Phó Trần Nguyên Hãn, thì Trãi đã bỏ đi từ lâu rồi….
Ông chìm vào giấc ngủ. Nhưng lúc ấy, một ngọn gió lạnh phớt qua, Trãi giật mình tỉnh dậy. Trong hồ nước nhỏ, một vệt sáng lớn dần lên xanh biếc. Một hình người lấp lánh nổi lên. Toàn thân ông lạnh cứng. Miệng muốn kêu mà không ra tiếng…
Một người sáng rực, không nhìn rõ mặt. Đứng trên lưng một con rùa lớn, giơ tay về phía ông.
- Ta là Thần Kim Quy, gặp ngài ở đây là một cơ duyên. Sau này, ngài sẽ là trụ cột phò trợ minh quân giết giặc cứu vớt lê dân thoát khỏi lầm than. Ta tặng ngài vật này. Ngài xem xong nhớ ở trong đầu.