TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
Hướng dẫn đăng truyện trên website mới
Đăng ký convert hoặc Thông báo ngừng
Trang 3 của 15 Đầu tiênĐầu tiên 1234513 ... CuốiCuối
Kết quả 11 đến 15 của 72

Chủ đề: [Giang Hoài Ngọc] Mộng Ảo Nhân Sinh

  1. #11
    Ngày tham gia
    Jan 2008
    Bài viết
    1,251
    Xu
    0

    Mặc định



    Chương 11 : BẢO TÀNG



    Lại nói, vì muốn tránh liên quan đến các vụ án mạng, Narumi và Tiển sĩ Agasa đã từ biệt gia đình Mori, trở về phòng. Phòng của Narumi là một trong những phòng sang trọng nhất của khách sạn, rất rộng rãi, chuyên dành cho những khách hàng giàu có với nhiều vệ sĩ đi cùng. Narumi cho bày đồ ăn thức uống ở ban công, vừa ăn uống vừa ngắm biển. Cảnh đẹp, gió mát, thật thoải mái. Cậu chuẩn bị cả ống nhòm, nhưng đã bị ông Tiến sĩ giành lấy để ... 'ngắm phong cảnh'. Ở bãi biển đương nhiên có rất nhiều 'phong cảnh mát mẻ'. Tiến sĩ Agasa dù tuổi già nhưng lòng chưa già.

    Hoàng hôn buông xuống. Nơi liên tiếp giữa trời và biển bị ánh hoàng hôn nhiễm thành một màu hồng rực rỡ. Mây chiều trôi trên mặt biển. Phong cảnh mỹ lệ vô cùng.

    Một tiếng kêu thảm thiết vang lên đột ngột. Tiếng của Conan ? Narumi nhìn xuống bên dưới, thấy Conan đang bơi lõm bõm trong hồ bơi. Sau đó cậu bé cả người ướt đẫm cũng không lo thay đồ mà chạy ngược lên trên lầu. Nam tước Bóng Đêm đã xuất hiện rồi chăng ?

    Tiến sĩ Agasa lo lắng cho Conan, nên mọi người đi xuống bên dưới. Chỉ có điều, Conan vì mục đích gì đó, che giấu sự thật, bảo rằng mình sơ ý té xuống hồ. Narumi cũng không lật tẩy. Chờ cậu bé thay đồ xong, mọi người đi xuống bên dưới dự buổi dạ tiệc do khách sạn tổ chức.

    Quang cảnh rất đông vui náo nhiệt.

    Tuy vậy, đây là 'tiệc ngồi' chứ không phải 'tiệc đứng', ít phức tạp. Bọn Narumi chiếm một bàn, không tiếp xúc với người lạ, đỡ lo phiền nhiễu. Ở đây, Narumi tận mắt chứng kiến "nhân gian bách thái".

    Càng về tối, trời càng se lạnh. Gió cũng thổi rất mạnh, làm không khí trở nên ẩm ướt hơn. Ông Tiến sĩ quyết định về phòng nghỉ ngơi. Nhưng Narumi vừa đứng dậy thì có đột biến.

    - Á á !

    - Á á á !

    Nhiều tiếng kêu vang. Mọi người ngước nhìn lên, ngạc nhiên trước vật từ trên cao rơi xuống. Một người ăn vận quái dị, mặc quần áo như một nhà ảo thuật, áo choàng, nón cao rộng vành, mặt nạ trắng bệch với nụ cười kỳ quái, đang từ trên cao bay xuống.

    - Nam tước Bóng Đêm !

    Một số người nhận ra nhân vật mà người kia hóa trang, thảng thốt kêu lên. Quái nhân rơi xuống rất nhanh, mọi người còn chưa kịp phản ứng thì đã rơi trúng bức tượng đồng, bị thanh kiếm trên tay bức tượng xuyên thẳng qua ngực. Máu tươi tung tóe vương vãi khắp nơi.

    Quang cảnh thật khủng bố !

    Hiện trường đột nhiên yên tĩnh. Mọi người đều nhìn về phía nạn nhân nằm trên bức tượng, ánh mắt lộ vẻ kinh khủng, hoảng loạn.

    Chẳng bao lâu sau, cảnh sát đến nơi, dẫn đầu là Thanh tra Sango Yokomizo, là một fan của "Thám tử ngủ gật". Do đó, sau khi chỉ đạo cảnh sát bảo vệ hiện trường, tiến hành điều tra sơ bộ, Thanh tra Yokomizo đã theo Ran và Conan lên quầy bar tìm Thám tử Mori. Ở đây, một cảnh khôi hài đã diễn ra. Thám tử Mori say xỉn đã ôm Ran mà gọi "Kamijo yêu quý", kết quả ... "Bốp ! Bốp ! Bốp !" ... Một đầu đầy cục u.

    Sau đó, đương nhiên là phá cửa phòng nạn nhân và lục soát tìm manh mối. Đáng chú ý là cửa phòng của nạn nhân được khóa rất chắc chắn, cảnh sát phải dùng cưa điện để phá cửa. Bên trong đồ đạc quăng bừa bãi, quần áo và chìa khóa đều vứt trên sàn nhà. Conan theo thói quen lại nói 'linh tinh' phản bác suy luận của ông Mori, nên bị 'thưởng' cho một cục u trên đầu. Nhìn thấy cây viết máy của ông Mori rơi xuống khá xa vị trí bức tượng, Narumi nghĩ đến một vấn đề, khẽ gật đầu. Cậu và Tiến sĩ Agasa vẫn ngồi yên chỗ dạ tiệc, không chạy lên chạy xuống như gia đình Mori và nhóm cảnh sát.

    Sau một phen chạy lên chạy xuống, cả bọn lại tập hợp xung quanh hiện trường vụ án mạng. Mọi người cho rằng nạn nhân đã tự sát. Ngay cả thám tử Mori cũng bảo :

    - Đây chỉ là một tai nạn thôi. Ông ta đang cơn say, định trổ tài leo trèo cho mọi người xem, chẳng ngờ trượt chân ...

    Conan không nghĩ vậy, nhưng chưa tìm thấy manh mối nào liên quan đến hung thủ, phương pháp giết người hay động cơ gây án, nên cũng không biết nhắc nhở ông Mori thế nào để khỏi bị đòn. Narumi cũng không nghĩ đây là vụ tự sát, bởi có "cậu bé tử thần" thì phải có án mạng và hung thủ, nếu không làm sao "Thám tử ngủ gật" nổi danh được. Nghe mọi người bàn tán xôn xao, cho rằng vụ việc đã kết thúc, cậu khẽ lắc đầu, bảo :

    - Đây là một việc giết người cho chủ đích.

    Mọi người đều ngạc nhiên nhìn cậu. Thám tử Mori vội hỏi :

    - Vậy hung thủ là ai ?

    Narumi không đáp, nhìn mọi người một lượt, rồi bảo các nhân viên cảnh sát :

    - Cây viết của Thám tử Mori bị rơi xuống đây lúc nãy. Đó là một chứng cứ quan trọng. Các anh đi tìm xem.

    Thanh tra Yokomizo và Thám tử Mori lập tức nhớ đến cây viết bị rơi khi nãy, liền bảo cảnh sát chia nhau đi tìm. Gần khu vực bức tượng không thấy. Bọn họ phải mở rộng phạm vi tìm kiếm, và cuối cùng đã phát hiện cây viết ở một vị trí khá xa bức tượng. Thanh tra Yokomizo và Thám tử Mori cầm cây viết, nhìn kỹ hồi lâu vẫn không phát hiện có điều gì khác lạ, liền hỏi :

    - Đây là chứng cứ quan trọng ư ?

    Narumi từ tốn nói :

    - Cây viết không phải là chứng cứ quan trọng, nhưng vị trí rơi của nó lại là một chứng cứ quan trọng. Nó nói lên điều gì ?

    Mọi người nhìn cây viết, rồi nhìn về phía vị trí tìm thấy nó. Thanh tra Yokomizo vỗ đầu nói :

    - Đúng rồi ! Sao nó không rơi xuống chỗ bức tượng ?

    - Gió.

    Lúc này ngoài trời gió cũng rất mạnh. Khi có gió mạnh, một vật khi rơi từ trên cao xuống sẽ không thể rơi theo chiều thẳng đứng được. Nạn nhân mặc áo choàng nên càng dễ bị gió thổi lệch đi ra xa. Thanh tra Yokomizo lập tức quay sang hỏi các nhân viên của khách sạn :

    - Khi nạn nhân rơi xuống, trời cũng gió như thế này phải không, chị phục vụ ?

    - Vâng ạ ! Thậm chí lúc ấy gió còn mạnh hơn lúc này nữa ấy chứ.

    Thanh tra Yokomizo gật đầu, nhìn lên phía trên phòng của nạn nhân, lẩm bẩm :

    - Vị trí phòng của nạn nhân nằm thẳng đứng ngay trên bức tượng. Từ trên đó rơi xuống sẽ bị gió thổi lệch đi, không thể nào rơi trúng bức tượng được.

    Thám tử Mori lại hỏi :

    - Vậy hung thủ là ai ?

    Narumi bảo :

    - Làm thí nghiệm thì biết ngay thôi.

    Thế là cảnh sát tiến hành thí nghiệm, dùng một vật tương đương nạn nhân, lại cột thêm tấm trải giường giả làm áo choàng, rồi thả từ trên phòng của các nghi phạm xuống. Cuối cùng, vật thả từ phòng 1901 đã rơi xuống trúng ngay bức tượng, giống như hiện trường vụ án mạng. Đó là phòng của Akiko và Madea. Thanh tra Yokomizo nhìn lên đó, và có thêm phát hiện :

    - Phòng này nằm khuất dưới phòng của ông Kaneshi, lại được góc cột che chắn, nên ít chịu ảnh hưởng của gió.

    Như vậy, nghi phạm chỉ còn có hai người là Akiko và Madea. Sau đó, Madea được hai fan nữ làm chứng là không có mặt ở hiện trường và Akiko đã thú tội, thừa nhận đã giết Ebara để trả thù cho anh trai.

    Vụ án kết thúc và chuyến du lịch của bọn họ cũng kết thúc.

    ...

    Một tuần sau đó, ông Tiến sĩ đã tìm ra công thức tối ưu để chế tạo cáp quang truyền dẫn dữ liệu. Trước sự thán phục của Narumi, ông Tiến sĩ cười hề hề nói :

    - Đơn giản thôi mà ! Mục tiêu đã có, chỉ cần thử nghiệm các tỷ lệ, tìm ra công thức thích hợp. Ai làm chẳng được.

    Nói như ông tiến sĩ cũng không sai, nhưng vấn đề ở chỗ hiệu suất làm việc của ông ấy quá cao. Nếu giao cho các phòng thí nghiệm thông thường, không biết phải mất mấy tháng, thậm chí mấy năm, chi phí cao chót vót. Chỉ có điều, nghĩ đến việc ông ấy chỉ mất vài ngày để chế tạo ra các dụng cụ cho Conan như : mắt kính xác định vị trí, nơ thay đổi giọng nói, giày tăng lực, ván trượt nhờ năng lượng mặt trời, huy hiệu định vị kiêm bộ đàm, ... thì cũng thấy bình thường. Một quái tài trong giới khoa học không thể so sánh với những người bình thường được. Người sao Hỏa và người Trái Đất không giống nhau ! Kết quả thực nghiệm được lựa chọn cũng không phải là vật liệu có khả năng truyền dẫn tốt nhất, mà đảm bảo cả về hiệu quả và tính kinh tế. Cậu rất hài lòng ! Nếu việc gì cũng truy cầu hoàn mỹ nhiều khi sẽ đưa đến kết quả không tốt.

    Không chỉ có thế, ông tiến sĩ còn đưa ra một bản thiết kế, bảo :

    - Cậu xem này ! Đây là thiết kế của ta về một siêu máy chủ, ta tạm gọi là SS, tức ‘superserver’. Hệ thống mạng của cậu không chỉ cần có cáp quang mà còn cần cả các máy server nữa.

    Narumi cau mày nói :

    - Máy chủ có thể mua. Một số hãng ở Mỹ có thể cung cấp máy chủ rất tốt. Hiện tại đã có cáp quang rồi thì ta còn cần các thiết bị thu phát tín hiệu nữa. Những loại thiết bị thu phát đang có trên thị trường đều có ít nhiều vấn đề.

    Tiến sĩ Agasa nói :

    - Mấy loại máy chủ đó vừa không kinh tế lại không thích hợp. Máy móc thật ra không đắt tiền lắm, nhưng giá cả cao ngất là do hệ thống vận hành. Bọn họ thu lời rất nhiều từ đó. Hệ thống đó ta có sẵn, chỉ cần cải tiến chút ít, không cần quá tiên tiến, chỉ cần tương thích là được. Còn thiết kế của ta là máy chủ chuyên dụng, bỏ bớt những tính năng không cần thiết. Hơn nữa, đây chỉ là thiết kế sơ khai, còn phải chờ có linh kiện, rồi mới tiến hành thử nghiệm được. Trong thời gian chờ đợi, ta có thể nghiên cứu các thiết bị thu phát tín hiệu.

    Narumi cầm bản thiết kế lên xem. Trên đó toàn là bản vẽ, sơ đồ và các từ ngữ chuyên ngành, chỉ có điều ... cậu chẳng hiểu gì cả. Đó không phải là chuyên môn của cậu. Tiến sĩ Agasa thấy vậy liền nói :

    - Cậu cũng biết trong điện tử, mạch điện song song có điện trở thấp hơn mạch điện nối tiếp. Nguyên lý ở đây cũng tương tự, ta thiết kế các bộ phận máy tính kết nối song song nhau, sau đó ưu hóa một số nơi, tạo thành hệ thống hỗn hợp có tính kính tế và hiệu quả. Chi phí dự tính chỉ khoảng 100 triệu yên mỗi máy thôi.

    Rất kinh tế. Nghĩ đến ông tiến sĩ là một quái tài, cậu yên lòng chấp nhận. Nhưng cậu không thể tham gia nghiên cứu, vì một cuộc điện thoại quan trọng đã khiến cậu quyết định rời khỏi đấy.

    ...

    Tokyo-to. Hachijo-kojima.

    Ngoài khơi vịnh Tokyo có rất nhiều hòn đảo lớn nhỏ, đảo xa nhất cách Tokyo đến 1.850 km, và tất cả đều thuộc Tokyo-to quản lý. Cách Tokyo khoảng 287 km có một hòn đảo nhỏ, diện tích chỉ 3,08 km2, không người sinh sống, gọi là Hachijo-kojima (八丈小島, Bát Trượng Tiểu Đảo). Narumi đã mua lại, dự định xây dựng một trang viên nghỉ dưỡng trên đảo. Đương nhiên, đó chỉ là những thông tin được công bố công khai ra bên ngoài. Còn thật sự là gì chỉ có cậu và những người thân tín biết.

    Hòn đảo dài khoảng 3 km, rộng khoảng 1,3 km, được bao quanh bởi những vách đá cao, trên đảo có núi Taihei cao đến 616,8 m. Thời kỳ Mạc Phủ, nơi đây là một nhà tù, sau thời Minh Trị Duy Tân đã được dân sự hóa thành hai làng Toriuchi và Utsuki, tổng dân số khoảng 50 người vào năm 1955, rồi chính thức bị bỏ hoang từ năm 1965. Hiện tại trên đảo ngoài lán trại của đội cảnh vệ, còn có rất nhiều đống vật liệu xây dựng lớn, chuẩn bị cho việc thi công sắp tới.

    David Glover, đội trưởng của đội cảnh vệ ở đây, là chiến hữu thân cận của vệ sĩ trưởng Mitchell Bard, nghênh tiếp Narumi ngay bến tàu. Những cảnh vệ ở đây đều từng là thành viên đội biệt kích, chiến hữu của Mitchell Bard, được Narumi đặc biệt tin cậy. Vì thế bọn họ mới được phái đến đây tiến hành nhiệm vụ bí mật và trọng đại này.

    Nghênh tiếp Narumi lên đảo xong, David Glover hạ giọng nói :

    - Báo cáo Chủ tịch. Đã tìm thấy rồi ạ.

    Narumi gật đầu bảo :

    - Chúng ta đến đó xem thử.

    Dựa vào tấm bản đồ da bò, Narumi đã tìm ra được vị trí của hòn đảo, nhưng vị trí chính xác của kho tàng thì cậu không thể nào nhìn ra được. Hình vẽ trên bản đồ cực kỳ thô tháo. Nhưng không sao ! Cậu đã phái David Glover cùng đội cảnh vệ thân tín mang theo những máy móc tiên tiến đến đây tìm kiếm. Hòn đảo không lớn lắm cho nên việc tìm kiếm không đến nỗi quá phức tạp. Bọn họ đã không phụ lòng kỳ vọng của cậu, cuối cùng cũng đã tìm ra. Dưới sự hướng dẫn của David Glover, mọi người đi lên ngọn núi Tahei ở giữa đảo, đến trước một hang động trên sườn núi. David Glover giới thiệu :

    - Chủ tịch. Cửa hang động này được lấp kín lại, ban đầu nhìn qua không khác gì xung quanh. Mọi người đã sử dụng máy dò tìm, phát hiện bên trong rỗng, rồi đào cửa hang ra, tìm thấy nơi này.

    Hang động khá sâu và ẩm thấp. Bên trong chất đầy cổ vật, xếp bừa bãi ngổn ngang. Đặc biệt, ở đây toàn là hiện vật, không hề thấy vàng bạc và đồng tiền. Dựa vào một số văn hiến còn sót lại, Narumi đoán rằng đây là kho tàng của Mạc Phủ Tokugawa. Sau cuộc chiến tranh Boshin, quân đội của Mạc Phủ thất bại, dư đảng của dòng họ Tokugawa đã bỏ chạy khỏi thành Edo(1), rút lui về phía bắc Honshu, rồi sau đó là Hokkaidou, nơi họ thành lập Cộng hòa Ezo. Trên đường tháo chạy, bọn họ đã mang các hiện vật trong kho tàng của Mạc Phủ chôn giấu ở đây, chỉ mang theo hiện kim, những thứ nhẹ nhàng. Đến khi thất bại trong trận Hakodate, căn cứ địa cuối cùng ở Hokkaidou thất thủ, những lãnh đạo lần lượt tự sát, và kho tàng ở đây chìm vào quên lãng. Sau này, người Nhật đã lãng mạn hóa cuộc chiến tranh Boshin nhằm để biến cuộc Minh Trị Duy Tân thành một cuộc ‘cách mạng không đổ máu’, bất chấp số lượng thương vong và thời gian kéo dài của nó. Cũng vì thế mà những tư liệu chiến tranh về thời kỳ này không được biết đến nhiều.

    Tiếp đó, David Glover lại dẫn bọn Narumi đến một góc hang động, chỉ vào mấy chiếc rương gỗ cũ kỹ, nói :

    - Chủ tịch. Những thứ này lấy được từ tầng hầm bí mật của Lâu đài Hoàng Hôn. Chủ cũ của nó thiết kế căn hầm rất bí ẩn, phải sử dụng máy dò tìm mới phát hiện được.

    Không chỉ có hòn đảo này, Narumi còn mua lại Lâu đài Hoàng Hôn, chuẩn bị cải tạo nó thành Lâu đài Hoàng Gia, và đương nhiên những cổ vật ở đó cũng được cậu thu lấy. Cậu nhớ đến sự việc ở Lâu đài Hoàng Hôn bởi vì đó là một trong số ít lần Siêu trộm Kid hoạt động, đấu trí đấu dũng cùng với Conan – cậu yêu thích nhân vật Kaitou Kid nên cũng nhớ khá rõ sự việc đó. Có thêm những cổ vật ở Lâu đài Hoàng Hôn với niên đại cho đến giai đoạn Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, kho báu của cậu mới thật sự hoàn mỹ. Xem qua một lượt các cổ vật ở Lâu đài Hoàng Hôn, cậu chợt nhìn thấy vài món trông có vẻ rất quý giá và một bức thư viết bằng tiếng Anh. Cậu chợt nghĩ đến một ý tưởng. Ngẫm nghĩ hồi lâu, cậu cẩn thận thu lấy các văn hiến, sau đó quay sang bảo Mitchell Bard :

    - Chờ khi giải quyết xong các vấn đề ở Palau, rồi bí mật chuyển những thứ ở đây đến đó.

    Nơi đây cách xa đất liền, lợi dụng các tàu vận chuyển vật liệu xây dựng, bọn họ hoàn toàn có thể bí mật chuyển bảo tàng đi nơi khác. Ở đây toàn là văn hiến, văn vật, tạm thời Narumi chưa muốn tiết lộ tin tức ra ngoài. Lý do quan trọng nhất là vì thực lực của cậu chưa đủ mạnh để có thể bảo vệ được chúng.

    Rời hang động, Narumi đi tham quan khắp đảo. Đây là lần đầu tiên cậu đến đảo, nên quyết định đi khảo sát thực địa. Ở phía đông bắc là di chỉ làng Toriuchi, bến tàu cũng ở đó. Một ngôi làng nghỉ dưỡng sẽ được xây dựng ở đấy và có thể mở cửa tiếp đón du khách. Còn làng Utsuki ở phía tây nam sẽ xây dựng một cung điện theo phong cách truyền thống Nhật Bản, là nơi nghỉ dưỡng dành riêng cho cậu.

    ...

    Bang Arizona, Lĩnh địa Fujiwara, Thành phố La Paz.

    Sau hơn hai tháng khẩn trương thi công, với máy móc hoạt động không ngừng nghỉ, công nhân làm việc ba ca luân phiên nhau suốt 24/24, giai đoạn I của Dự án xây dựng thành phố La Paz, thủ phủ của Lĩnh địa Fujiwara, đã hoàn thành. Công trình chủ yếu của Dự án này là Cung điện Etou(2) ở ngay trung tâm thành phố, chiếm diện tích đến 120 ha, gồm một quần thể kiến trúc cung điện kiểu Á Đông với các công viên và nhiều công trình phụ trợ bao quanh. Đương nhiên, giai đoạn I chỉ mới thi công một bộ phận nhỏ của cung điện, đủ làm nơi ở và nơi làm việc của Narumi.

    Hiện tại, ở đây có bốn công trình chính được ưu tiên thi công ở giai đoạn I. Ngoài bộ phận Cung điện Etou còn có Đại lộ Fujiwara nối thành phố La Paz với thị trấn Ehrenberg, cách sáu dặm về phía nam; khu dân cư với 3.000 căn hộ, có cả trường học, bệnh viện, sở cảnh sát, siêu thị, trạm xăng; khu sản xuất kinh doanh, chủ yếu là nhà máy lắp ráp thiết bị vi tính của Công ty Công nghệ Mars với hơn 2.000 công nhân. Dân cư của thành phố hiện giờ là 3.762 người, đã trở thành đô thị lớn nhất ở hạt La Paz, bang Arizona. Dự kiến sau một năm phát triển, dân số sẽ vượt mức 10.000 người, nên chính quyền đã chấp thuận nâng cấp thị trấn La Paz lên thành phố.

    Cung điện Etou.

    Ashlee Vance ngồi đối diện với Narumi, trịnh trọng nói :

    - Chủ tịch. Quá trình đàm phán đã đạt được thỏa thuận sơ bộ, chỉ cần Chủ tịch đồng ý là có thể hoàn thành hiệp nghị ngay sau đó.

    - Cụ thể thế nào ?

    - Chủ tịch. Vào thập niên 1970s, tập đoàn MGM trở nên suy sụp, mỗi năm chỉ đạt sản lượng từ 3 – 6 bộ phim. Sang thập niên 1980s, tình hình có khá hơn chút ít, sản lượng đạt từ 10 – 15 bộ phim, nhưng đa phần đều không đạt doanh thu như mong muốn. Chẳng hạn như năm 1982, dưới sự lĩnh đạo của David Begelman, tập đoàn đã sản xuất 11 bộ phim, nhưng chỉ có một bộ phim là ‘Poltergeist’ đạt yêu cầu. Vì thế mà Begelman đã bị sa thải. Từ đó về sau, tập đoàn chủ yếu phân phối phim của các hãng phim độc lập, chứ không sản xuất phim nữa. Năm 1986, Ted Turner đã mua lại tập đoàn với giá 1,5 tỷ USD, gồm tiền mặt và cổ phiếu. Lúc đó, tập đoàn đã được tổ chức lại thành nhiều bộ phận độc lập. Sau đó, Turner đã bán lại ngay lập tức một công ty con là United Artists cho Kerkorian với giá 480 triệu USD. Rồi để giải quyết các khoản nợ trong tập đoàn của mình, Turner lại bán bộ phận sản xuất và phân phối của MGM cho Kerkorian với giá 300 triệu USD, bán rất nhiều phòng thí nghiệm và các cơ sở khác cho Lorimar – Telepictures. Turner chỉ giữ lại thư viện phim của MGM trước tháng 5 năm 1986 và RKO Radio Pictures.

    - Ân ! Xem ra MGM hiện tại đã bị thu nhỏ rất nhiều so với nguyên bản của nó.

    - Vâng ạ. Tập đoàn MGM hiện tại có tên đầy đủ là ‘MGM/UA Communications Co.’, là bộ phận MGM và United Artists mà Kerkorian đã mua lại, chỉ bằng một nửa so với giá trị tài sản của nó trước kia. Năm 1988, Barris Industries có ý định mua lại 25% cổ phiếu của MGM/UA Communications Co., nhưng thỏa thuận không thành công. Sang năm 1989, cả Qintex của Úc và Turner đều có ý định mua lại MGM/UA Communications Co., nhưng vì nhiều nguyên nhân kế hoạch cũng đã thất bại. Năm 1990, nhà tài chính người Italia là Giancarlo Parretti đã mua lại MGM/UA Communications Co., rồi sát nhập với tập đoàn Pathé Communications Group của ông ta, thành tập đoàn mới MGM-Pathé Communications Co., rồi mời Alan Ladd, Jr về làm CEO. Chỉ có điều, đến đầu năm nay, Parretti dính líu đến hàng loạt các vụ kiện tụng ở Mỹ và châu Âu, khiến cho MGM-Pathé Communications Co. đứng bên bờ vực phá sản. Ông ta và một số cổ đông khác đồng ý bán lại 90,2% cổ phiếu của tập đoàn với giá 850 triệu USD tiền mặt, đương nhiên kèm theo khoản nợ của tập đoàn lên đến 935 triệu USD. Thực ra thì Kerkorian rất muốn mua lại, nhưng ông ta không có nhiều tiền mặt. Parretti cần nhiều tiền mặt để giải quyết các khó khăn của mình.

    - Ta cũng không có nhiều tiền mặt nha.

    - Chủ tịch. Công ty Công nghệ Mars rất có giá trị đó nha. Các ngân hàng sẵn sàng cho vay đến 700 triệu USD với lãi suất ưu đãi. Bọn họ cho rằng công ty có giá trị đến 1 tỷ USD.

    Công ty Công nghệ Mars chỉ được đầu tư ban đầu 300 triệu USD, sau vài tháng kinh doanh đã có thể tăng giá trị hơn ba lần, chủ yếu là do lợi nhuận quá lớn. Các địa điểm cho thuê máy vi tính luôn luôn đông khách, và đã phát triển dần thành một trung tâm giải trí tổng hợp, với cả siêu thị mini, cửa hàng nước giải khát và thức ăn nhanh (chủ yếu bán cho những người chơi game), cửa hàng kinh doanh thiết bị và phần mềm vi tính (chủ yếu bán các sản phẩm của Công ty Công nghệ Mars). Nhưng mô hình này được cho là khó thể học tập, bởi khách hàng bị thu hút chủ yếu bởi những phần mềm và game ‘lưu hành nội bộ’. Narumi không cho bán các game ra ngoài, nên các phòng máy của cậu trở nên độc quyền và cực kỳ đông khách. Cũng may ở Mỹ không lưu hành các phần mềm lậu, việc ăn cắp bản quyền có thể bị xử phạt rất nặng.

    Narumi trầm ngâm giây lát, rồi nói :

    - Thế thì tốt. Vay ở ngân hàng nào đó tại California, tránh liên quan đến Phố Wall. Sau đó nhanh chóng hoàn tất việc chuyển nhượng.

    Ashlee Vance trịnh trọng nói :

    - Chủ tịch yên tâm. Chỉ cần một tuần thôi.

    Việc mua lại Hãng MGM có thể xem như ổn thỏa. Narumi lại quan tâm đến chuyện khác :

    - Máy nghe nhạc mini của ta ra sao rồi ?

    Ashlee Vance nói :

    - Chủ tịch. Tôi đã đạt được thỏa thuận sơ bộ với Tập đoàn Honhai của Terry Gou ở Đài Loan. Ông ta có danh tiếng rất tốt trong cộng đồng người Hoa, rất giữ chữ tín, khi đã ký hợp đồng rồi, dù có lỗ cũng vẫn cố gắng hoàn thành. Đối với máy nghe nhạc của chúng ta, ông ta cho hai giá, nếu hợp đồng 100.000 máy trở lên thì giá xuất xưởng là 34 USD, còn nếu hợp đồng 1 triệu máy trở lên thì chỉ còn 21 USD. Loại cao cấp tương ứng là 46 USD và 32 USD. Đĩa trắng nếu số lượng trên 1 triệu đĩa sẽ có giá 0,22 USD, còn trên 10 triệu sẽ có giá 0,14 USD.

    Terry Gou (Quách Đài Minh, 郭台銘) là một doanh nhân Đài Loan nhưng khá thân thiện với Trung Hoa Đại lục. Ông ta thành lập công ty vào năm 1974 với số vốn 7.500 USD và 10 nhân viên. Ngay từ năm 1988, ông ta đã xây dựng một nhà máy lớn ở Long Hoa, Thâm Quyến. Khuôn viên nhà máy không chỉ có nhà xưởng mà còn có cả nhà ở, khu ăn uống và chăm sóc y tế, thậm chí nuôi gà để cải thiện bữa ăn. Công ty Công nghệ Mars đã có hợp đồng gia công với Tập đoàn Honhai để sản xuất linh kiện máy vi tính, quá trình hợp tác rất tốt. Nhà máy sản xuất của Tập đoàn Honhai ở Thâm Quyến đã mở rộng quy mô rất nhiều. Nghe nói, Công ty Công nghệ Mars là đối tác lớn nhất của Tập đoàn Honhai trong năm qua, nên mọi yêu cầu đều được ưu tiên đáp ứng.

    Narumi hỏi :

    - Giá bán lẻ thấp nhất có thể được là bao nhiêu ?

    - Chủ tịch. Nếu chúng ta đặt hàng số lượng lớn, bán hàng trực tiếp không qua trung gian, không cần lợi nhuận thì giá bán lẻ của loại phổ thông là 26,4 USD và loại cao cấp là 39 USD.

    - Ân ! Vậy loại phổ thông có giá bán lẻ là 29 USD, giá bán sỉ từ 26,5 – 28 USD. Còn loại cao cấp tương ứng là 69 USD và 60 – 65 USD. Ta cần mở rộng thị phần, lợi nhuận không quan trọng, miễn sao không lỗ là được.

    - Chủ tịch. Tôi đã thương lượng với các hãng âm nhạc ở California, mua quyền sử dụng của các bản nhạc từ thập niên 1970s về trước, được 623 bài, giá chẳng đáng kể. Bọn họ không đồng ý bán bản quyền hoặc ra giá rất cao.

    - Được rồi. Không cần mua bản quyền làm gì.

    Máy nghe nhạc thì cần phải có đĩa nhạc. Hiện tại trên thị trường đang thịnh hành các loại đĩa CD tiêu chuẩn, rất hiếm thấy loại đĩa Mini-CD, vì thế mà Narumi mới phải cho mua các bài hát, rồi tự phát hành đĩa, bán kèm theo máy nghe nhạc. Nhưng Ashlee Vance lại nói :

    - Chủ tịch. Các bài hát đó xưa lắm rồi, chỉ những người trung niên trở lên mới ưa chuộng, giới thanh thiếu niên có lẽ không thích đâu. Tôi đã cố gắng lựa chọn những bài hát dễ nghe, nhưng chưa chắc được thị trường chấp nhận.

    - Ta cũng không đặt nhiều hy vọng vào nó. Mỗi đĩa nhạc có từ 4 – 5 bài hát, chỉ cần có 1 – 2 bài hát ăn khách, những bài còn lại không quá khó nghe là được.

    Các đĩa CD có dung lượng lớn, có thể chứa hơn 10 bài hát, còn đĩa Mini-CD chỉ có dung lượng 185 – 210 MB, thời lượng hơn 20 phút, chỉ chứa được khoảng 4 – 5 bài hát mà thôi. Đương nhiên giá phát hành cũng sẽ rẻ hơn nhiều. Các hãng đĩa còn phát hành loại 'đĩa đơn' chỉ có một bài hát. Ashlee Vance tán đồng :

    - Vâng. Chủ tịch nói phải lắm. Nếu tất cả đĩa nhạc đều là những bài hát ăn khách thì phí lắm. Nhưng những bài hát ăn khách ở đâu ạ ?

    - Rồi sẽ có, không quá lâu đâu.

    Việc đó đã quyết định. Ashlee lại nói sang vấn đề khác :

    - Chủ tịch. Không ngờ lạc hậu như Trung Hoa Đại lục mà cũng có ý hướng hợp tác với chúng ta nữa ạ. Bọn họ muốn mở các Trung tâm Giải trí Mars ở Trung Hoa Đại lục, bước đầu là ở Thâm Quyến và Quảng Châu.

    - Ân ! Sự tình thế nào ?

    Narumi thật sự ngạc nhiên. Ashlee nói :

    - Dạ. Hôm trước có một nhóm con em các quan chức ở Quảng Đông đến Hongkong chơi. Bọn họ ghé thăm Trung tâm Giải trí Mars, rồi bị hấp dẫn. Sau hơn một tuần bám trụ trong Trung tâm Giải trí, bọn họ liên hệ với Giám đốc Trung tâm, đề nghị hợp tác mở các Trung tâm tương tự ở Thâm Quyến và Quảng Châu. Vấn đề ở chỗ, ở Trung Hoa Đại lục có bao nhiêu người đủ tiền đến tiêu phí ở các Trung tâm của chúng ta.

    Trong mắt đa số người Âu Mỹ lúc bấy giờ, người Tàu thường đồng nghĩa với nghèo đói và lạc hậu. Đó là cũng hiện cảnh Trung Hoa Đại lục thời bấy giờ. Tuy nhiên, việc gì cũng có ngoại lệ. Narumi mỉm cười bảo :

    - Đừng xem thường bọn họ. Ở đó, những người nghèo thì rất nghèo, nhưng những người giàu có cũng không ít đâu.

    - Chủ tịch. Ở Trung Hoa Đại lục tình hình đặc thù, chúng ta không tiện tự kinh doanh, tốt nhất là liên doanh với các thế lực địa phương.

    - Ân ! Liên doanh cũng được, chỉ cần chúng ta chiếm chủ đạo. Tốt nhất là mỗi địa phương thành lập hai công ty riêng biệt, một mặt cạnh tranh với nhau, một mặt lũng đoạn thị phần. Không chỉ Trung Hoa Đại lục, ở những nơi tình hình phức tạp đều có thể làm thế.

    - Vâng ạ.


    ___________________________________

    (1) Edo : Giang Hộ, tên cũ của Tokyo.

    (2) Etou : Giang Đông.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    ---QC---
    江懷玉


  2. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    crazyboy74,
  3. #12
    Ngày tham gia
    Jan 2008
    Bài viết
    1,251
    Xu
    0

    Mặc định


    Chương 12 : HÙNG SƯ



    Bang California, Hạt Los Angeles, Thành phố Santa Monica, Trụ sở chính của MGM-Pathé Communications Co.

    Hiện tại, Narumi đã trở thành chủ nhân của Hãng phim cổ xưa này với 90,2% cổ phần. Số cổ phiếu còn lại ngoài một số ít lưu thông trên thị trường chứng khoán, thì vẫn đang nằm trong tay hàng chục tiểu cổ đông, trong đó phần lớn là thành viên của hãng, những người gắn bó nhiều năm với sự thịnh suy của nó và rất muốn phục hưng nó.

    Sau khi mua lại tập đoàn MGM-Pathé Communications Co., Narumi đã đổi tên nó thành MGM Group, giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị, và đã mời John Nicholas Calley, cựu lĩnh đạo của Warner Bros về làm CEO. Anh ta sẽ chủ trì công cuộc phục hưng tập đoàn, còn Narumi chỉ đưa ra các ý kiến mang tính chiến lược. Narumi tự biết mình không phải là thiên tài, nên vẫn luôn tìm người thích hợp phụ trách các công việc thích hợp.

    Trong văn phòng Chủ tịch, cuộc hội nghị của bộ tứ lĩnh đạo tập đoàn đang diễn ra, gồm Chủ tịch Fujiwara no Narumi, Giám đốc điều hành John Nicholas Calley, Giám đốc sản xuất Mike Nichols và Giám đốc tài chính Carly Reiner. Tình hình tập đoàn đang rất khó khăn về mọi mặt, trọng trách của mọi người đều rất nặng nề.

    John Nicholas Calley nói :

    - Chủ tịch. Tôi luôn cho rằng, vấn đề chủ yếu của MGM trước đây là do các nhà đầu tư chỉ quan tâm chủ yếu đến lợi ích trước mắt, mà không để ý gì đến những lợi ích lâu dài. Đầu tư ngành giải trí cần phải có chu kỳ lâu dài và nguồn tài chính hùng hậu. Thế nhưng, các vụ chuyển nhượng trước đây đều thiếu nguồn tiền mặt, cộng thêm với việc kinh doanh không tốt, khiến cho khoản nợ mỗi lúc một lớn thêm, tài chính ngày càng khánh kiệt.

    Narumi hỏi :

    - Vậy là tập đoàn đang thiếu tiền ?

    Carly Reiner nói :

    - Chủ tịch. Không phải thiếu tiền, mà là thiếu rất nhiều tiền. Hiện tại các khoản nợ chiếm đến một nửa tổng tài sản của tập đoàn. Thiếu tiền để sản xuất phim, thiếu tiền để tuyên truyền, thiếu nguồn phim hay, khiến cho tình hình kinh doanh càng thêm bế tắc. Vì vậy mà gần đây tập đoàn chỉ chủ yếu phát hành phim của các hãng phim độc lập. Lâu lâu mới gom góp đủ tiền sản xuất một bộ phim kinh phí thấp.

    Mike Nichols chép miệng than :

    - Không có tiền thì còn làm phim thế nào được.

    John Nicholas Calley nói :

    - Từ đầu năm đến giờ, tập đoàn chỉ phát hành 6 bộ phim. Ngày 6 tháng 3, phát hành bộ phim ‘Once Upon a Crime’, chi phí sản xuất là 14 triệu USD, nhưng doanh thu phòng vé chỉ có 8,7 triệu USD, bị đánh giá rất tệ. Ngày 27 tháng 3, phát hành bộ phim ‘The Cutting Edge’ do Interscope Communications sản xuất, doanh thu đạt 25,1 triệu USD, có chút lợi nhuận. Ngày 8 tháng 5, phát hành bộ phim ‘Criss Cross’ từ nhà đầu tư độc lập, doanh thu chỉ có 3,05 triệu USD, lỗ. Ngày 15 tháng 5, phát hành bộ phim ‘The Vagrant’ do Le Studio Canal và Brooksfilms Ltd. sản xuất, doanh thu thất bại nặng nề, lỗ. Ngày 14 tháng 8, phát hành bộ phim ‘Diggstown’, chi phí sản xuất là 17 triệu USD, mặc dù được đánh giá tích cực, nhưng doanh thu chỉ có 4,8 triệu USD, lỗ nặng. Ngày 2 tháng 10, phát hành bộ phim ‘Of Mice and Men’ vốn được ca ngợi ở Liên hoan phim Cannes, nhưng doanh thu chỉ có 5,47 triệu USD. Sắp tới còn có bộ phim ‘The Lovers’ do Films A2, Renn Productions và Burrill Productions hợp tác sản xuất, dự kiến phát hành ngày 31 tháng 10, chỉ hạn chế ở 103 rạp vì có rất nhiều tranh cãi về vấn đề tình dục trong phim, dự kiến doanh thu cũng không cao.

    Một bộ phim có kinh phí sản xuất là 10 triệu USD, doanh thu phòng vé phải đạt 25 – 30 triệu USD thì mới có lời, bởi giữa rạp chiếu phim và nhà sản xuất sẽ phân chia doanh số theo tỷ lệ 5 : 5 hoặc 6 : 4 (tùy thực lực của từng hãng sản xuất phim), cộng thêm các khoảng thuế, phí khác nữa. Trong khi đó thì các bộ phim do tập đoàn MGM phát hành trong năm qua đều có doanh thu phòng vé cực kỳ tệ hại, tình hình kinh doanh lỗ thê thảm, CEO tiền nhiệm quả là một ‘nhân tài’ đáng khâm phục. Vì thế, khi mua lại tập đoàn, Narumi đã ngay lập tức mời một CEO mới.

    Carly Reiner lại thở dài nói :

    - Trong ngân quỹ của tập đoàn chỉ còn rất ít tiền. Trừ khoản chi phí cần thiết để duy trì hoạt động đến cuối năm, chỉ còn lại 2,4 triệu USD dành cho chi phí sản xuất, phát hành phim.

    Mike Nichols lắc đầu than :

    - Bao nhiêu đó thì làm được gì chứ ?

    Narumi nói :

    - Vậy cần phải tiết giảm chi tiêu. Ân ! Tập đoàn hiện giờ chẳng có mấy việc để làm, duy trì một trụ sở lớn ở nơi phồn hoa thế này rất phí. Ta quyết định dời trụ sở đến La Paz. Ở đó là lĩnh địa tư nhân của ta, chi phí thấp mà thuế thu cũng thấp. Chỉ giữ lại đây một văn phòng đại diện thôi.

    Vấn đề này không ai phản đối. Trong thời buổi khó khăn cần phải tiết giảm chi tiêu, dành ra nhiều kinh phí hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, khoảng cách giữa Hollywood và La Paz cũng không xa lắm, chỉ hơn 1 giờ đi xe mà thôi. Các hãng phim lớn khác cũng tương tự, tuy nói là hãng phim ở Hollywood, nhưng đa số có trụ sở nằm ở các thành phố lân cận để giảm bớt chi phí. Chẳng hạn như hãng ‘20th Century Fox’ ở thành phố Century, ‘Columbia Pictures’ ở thành phố Culver, ‘Warner Bros’ và ‘The Walt Disney’ cùng ở thành phố Burbank, ‘Universal Studios’ ở thành phố Universal ... Duy nhất chỉ có hãng ‘Paramount’ có trụ sở ở Hollywood.

    Carly Reiner tính toán một lúc, rồi nói :

    - Trụ sở này của tập đoàn chiếm diện tích 14.000 m2, chúng ta có thể trả lại phần lớn, chỉ giữ lại khoảng 1/10 thôi. Trừ đi chi phí di chuyển trụ sở, chúng ta còn dư được khoảng 4 triệu USD.

    Mike Nichols nói :

    - Sau này khi sản xuất hay phát hành phim cần phải lựa chọn cẩn thận mới được. Phát hành những phim thất bại hay gây tranh cãi chỉ có lỗ với lỗ nặng mà thôi.

    John Nicholas Calley nói :

    - Vấn đề không phải ở chỗ lựa chọn, mà là có để lựa chọn. Nguồn phim của chúng ta rất thiếu. Các nhà sản xuất phim độc lập phần lớn không muốn giao cho tập đoàn chúng ta phát hành, trừ khi chúng ta chấp nhận nhượng lợi. So với các hãng phim khác, chúng ta không có chút ưu thế nào.

    Đối với những người tiền nhiệm, đây quả là vấn đề nan giải. Thiếu tiền nên thiếu phim hay, thiếu phim hay nên mất uy tín, mất uy tín nên nguồn phim từ các nhà sản xuất độc lập giảm, thiếu phim phát hành nên thiếu tiền. Một cái vòng lẩn quẩn đã đeo bám tập đoàn MGM hơn chục năm nay. Mặc dù có một phần nguyên nhân là do khả năng quản lý kém, nhưng cũng có một phần không nhỏ là do thiếu nguồn tiền mặt. Không có tiền thì làm việc gì cũng khó. Tuy nhiên, vấn đề đó đối với Narumi cũng không quá khó giải. Cậu trầm ngâm giây lát, rồi bảo :

    - Về tiền, ta có không ít. Hiện tại ta còn có hơn 200 triệu USD tiền mặt. Tập đoàn Công nghệ Mars có thể mang về cho ta hàng trăm triệu USD lợi nhuận mỗi tháng. Ta có thể đầu tư thêm tiền vào tập đoàn, tăng lượng tiền mặt, hoặc là cá nhân ta xuất tiền cùng tập đoàn hợp tác sản xuất.

    Bọn họ giờ mới biết Chủ tịch của bọn họ có thu nhập khủng như thế, đều rất mừng rỡ. Chỉ cần có tiền, tập đoàn MGM sẽ được cứu. Bọn họ đều có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực truyền thông và giải trí, đều tin tưởng vào năng lực của mình. John Nicholas Calley nói ngay :

    - Vậy thì hay quá. Chúng ta áp dụng cả hai biện pháp luôn đi. Chủ tịch đầu tư thêm vào tập đoàn 100 triệu USD tiền mặt. Còn từ giờ cho đến hết năm sau, tập đoàn sẽ cùng với cá nhân Chủ tịch hợp tác sản xuất phim.

    Các hãng phim thường chọn hình thức hợp tác sản xuất để chia sẻ nguy cơ nếu như bộ phim gặp thất bại về mặt phòng vé. Còn việc đầu tư thêm vào tập đoàn thì tỷ lệ cổ phiếu của Narumi đương nhiên sẽ tăng lên, theo đề nghị của Carly Reiner, lấy số 91,15% cho tròn. Hiện tại cậu có 90,2% cổ phiếu. Nếu cậu dùng 100 triệu USD có thể mua hết 9,8% cổ phiếu còn lại, biến tập đoàn thành sở hữu tư nhân. Còn nếu cậu đầu tư vào tập đoàn 100 triệu USD, thì tỷ lệ sở hữu của cậu chỉ được nâng lên đến 91,15%. Vì thế mà các vụ mua bán, chuyển nhượng trước đây đều theo phương thức thứ nhất, tiền đều vào túi cổ đông chứ tập đoàn không có thêm chút tiền mặt nào, chẳng giúp ích gì được cho hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đoàn. Lần này, cậu quyết định đầu tư theo phương thức thứ hai để tập đoàn có tiền, cải thiện tình hình kinh doanh. Cả hai vị giám đốc điều hành và giám đốc tài chính đều mừng rỡ vì đã có tiền, chỉ có giám đốc sản xuất Mike Nichols than thở nói :

    - Tập đoàn chúng ta không có mấy ưu thế so với các hãng khác, nên khó tìm được kịch bản hay, khó mời được diễn viên nổi tiếng, khó mời được đạo diễn giỏi, thành ra cũng khó sản xuất được phim ăn khách. Mấy chục năm kinh doanh kém cỏi đã khiến tập đoàn mất hết uy tín.

    Đó cũng là một cái vòng lẩn quẩn mà MGM đang gặp phải. Trong kinh doanh chữ tín rất quan trọng, gây dựng rất khó khăn nhưng để mất rất dễ dàng. Trải qua hàng chục năm kinh doanh tệ hại, MGM đã mất uy tín trong lòng khán giả lẫn các đối tác. Đó là vấn đề rất nghiêm trọng. Cả giám đốc điều hành John Nicholas Calley và giám đốc tài chính Carly Reiner đều nhìn nhau thở dài. Bao nhiêu nhà đầu tư đều gặp thất bại. Không biết tân Chủ tịch có phương án nào hiệu quả không ? Cả bọn bất giác đưa mắt nhìn Narumi. John Nicholas Calley nói :

    - Chủ tịch. Muốn phục hồi uy tín của MGM phải tốn rất nhiều thời gian. Ít nhất chúng ta phải phát hành được vài bộ phim ăn khách và hạn chế tối đa các bộ phim bị phê phán. Sắp tới, tôi sẽ cho điều tra từ các nhà đầu tư độc lập xem có nguồn phim nào tốt hay không ?

    Narumi khẽ mỉm cười, bảo :

    - Ta có một phương án, có hơi mạo hiểm, nhưng nếu thành công thì uy tín của tập đoàn sẽ nhanh chóng phục hồi. Còn nếu có thất bại thì cũng không đến nỗi tệ hơn tình trạng hiện tại.

    Tình hình của MGM đã tệ đến mức này rồi, ‘bảy đại công ty’ của Hollywood (Seven Big) giờ chỉ còn là ‘sáu đại công ty’ (Six Big), không cải tổ không được. Điều này ai cũng biết, vấn đề là những chủ tịch tiền nhiệm thiếu tiền mặt, công ty thiếu vốn, nên đâu vẫn vào đó. Thời buổi này, danh tiếng quan trọng, nhưng tiền bạc càng quan trọng hơn. Thiếu tiền thì làm việc gì cũng khó.

    Trước ánh mắt mong chờ của mọi người, Narumi mở vali, lấy ra một xấp bản thảo rất dày để lên bàn. John Nicholas Calley liếc nhìn qua, rồi bật kêu lên :

    - Kịch bản ! Toàn là của Chủ tịch ?

    Hai người còn lại cũng xúm lại xem. Narumi mỉm cười bảo :

    - Ít ra ta cũng là một tác giả có mấy triệu độc giả trung thành đó nha !

    Mọi người giật mình, nhớ ra Narumi còn là một đại tác gia có hàng triệu độc giả trung thành trên toàn thế giới. Tác phẩm “The Light’s Son” của cậu giờ đã trở nên rất nổi tiếng, giúp cho tờ báo La Paz trở thành một tờ báo lớn, có lượng phát hành lên đến 10 triệu bản ở nhiều quốc gia khắp cả năm châu lục. Các ‘Trung tâm giải trí’ của Tập đoàn Công nghệ Mars (điểm cho thuê máy vi tính) còn kiêm luôn việc giới thiệu và phát hành báo La Paz. Nhờ đó, cậu đã trở thành một tác gia nổi tiếng, có hàng triệu độc giả hâm mộ. Mặc dù không ít những nhà phê bình văn học phê phán tác phẩm của cậu là tác phẩm thương mại, thiếu tính kinh điển, nhưng cậu chẳng hề để tâm. Tác phẩm văn học phải mang tính bi kịch, số phận nhân vật chính phải thật thê thảm thì mới được bọn họ xem là kinh điển. Cậu chẳng ưa thế, chỉ cần độc giả cảm thấy hứng thú là được rồi. Tác phẩm của cậu là viết cho độc giả xem, không phải dành riêng cho giới phê bình văn học. Cậu là đại tư bản gia, không phải nhà văn chuyên nghiệp. Hơn nữa, hai mục đích chính là nổi tiếng và tăng thị phần của báo La Paz đều đã hoàn thành mỹ mãn.

    Cậu đẩy xấp bản thảo về phía mọi người, bảo :

    - Mọi người xem có sử dụng được không ?

    Xấp bản thảo gồm có 36 kịch bản, đều là kịch bản của những bộ phim mà cậu có ấn tượng từ hồi tiền thế (đương nhiên phải nổi tiếng, được nhiều người quan tâm thì cậu mới có ấn tượng được). Để giúp MGM hồi sinh, cậu không dám sáng tác những tác phẩm không chắc được khán giả yêu thích. Chuyện đó chỉ có thể thực hiện khi nền tảng đã vững chắc, không sợ lỗ nữa. Còn giờ đây cẩn thận vẫn hơn. Cậu chưa dư tiền đến mức vung tiền làm nghệ thuật.

    Sau khi đã xem sơ qua các kịch bản, Mike Nichols nói :

    - Chủ tịch. Đa số là những kịch bản có chi phí đầu tư không cao.

    Narumi gật đầu nói :

    - Với hiện tình của tập đoàn không tiện sản xuất những phim bom tấn. Việc khó mời được diễn viên nổi tiếng hay đạo diễn giỏi là một vấn đề nghiêm trọng. Do đó, chúng ta chỉ có thể bắt đầu bằng những bộ phim có chi phí thấp, thời gian sản xuất ngắn, nhanh thu hồi vốn. Đương nhiên, để đánh bóng tên tuổi, chúng ta có thể tiến hành các biện pháp phụ trợ, chẳng hạn như ...

    Cả bọn lập tức chăm chú nhìn cậu. Cậu khẽ mỉm cười, nhẹ nhàng buông ra từng chữ :

    - Mỗi tuần một bộ phim.

    - A !

    Cả bọn sửng sốt kêu lên. John Nicholas Calley phản ứng nhanh nhất, lập tức vỗ đùi nói :

    - Hay ! Mỗi tuần một bộ phim. Cho dù chi phí sản xuất thấp, diễn viên không nổi tiếng, hay có chút khuyết điểm nào đó thì cũng dễ dàng được thông cảm. Lại còn gây được tiếng vang nữa.

    Mike Nichols vội nói :

    - Chỉ có một tuần làm sao sản xuất được một bộ phim ? Đối với tập đoàn của chúng ta, không thể làm sơ sài được.

    Mike Nichols là giám đốc sản xuất, đối với phạm vi trách nhiệm của mình đặc biệt quan tâm. Thương hiệu MGM dù sao cũng là một thương hiệu lớn, từng là đầu tàu của ngành công nghệ điện ảnh ở Hollywood, không thể để phá hủy bởi những sản phẩm sơ sài, tệ hại. Narumi chỉ khẽ mỉm cười. John Nicholas Calley hỏi :

    - Một tuần có thể quay xong một kịch bản hay không ?

    Mike Nichols đã nghiên cứu kỹ các kịch bản, suy nghĩ một lúc rồi mới nói :

    - Nếu tăng thêm thời gian công tác mỗi ngày, đối với các kịch bản này có thể miễn cưỡng hoàn thành được. Nhưng việc sản xuất một bộ phim không chỉ có thời gian quay phim.

    - Ta đương nhiên biết. Vấn đề là khán giả chỉ quan tâm đến thời gian quay phim. Còn tiền kỳ và hậu kỳ có mấy người quan tâm. Chúng ta có một tuần chuẩn bị, một tuần quay phim và một tuần xử lý hậu kỳ. Như thế được chứ ?

    - Được. Nếu kinh phí đầy đủ thì không thành vấn đề.

    - Chúng ta có thể thành lập vài nhóm sản xuất, luân phiên nhau, đảm bảo làm sao cho mỗi tuần đều có một nhóm tiến hành quay thực cảnh. Như thế, chúng ta có thể tuyên bố với bên ngoài rằng đang thực hiện kế hoạch “Mỗi tuần một bộ phim”.

    Kế hoạch ‘mỗi tuần một bộ phim’ không phải là mới, đã từng xuất hiện trong lịch sử Hollywood, nhưng thời đó phim trắng đen có quá trình chế tác không mấy phức tạp như hiện nay. Chỉ có điều mọi người cũng đã nghĩ ra phương pháp thực hiện, miễn cưỡng thỏa mãn được yêu cầu. Carly Reiner đột nhiên giơ một kịch bản lên, nói :

    - Chúng ta có thể bắt đầu bằng kịch bản này, chi phí sản xuất khoảng 3 triệu USD mà thôi. Nếu như Chủ tịch đồng ý đóng vai chính thì càng hay. Chúng ta có thể nhờ danh tiếng của Chủ tịch để tăng lượng khán giả.

    Thật sự mà nói, danh tiếng của Narumi lớn hơn cậu tưởng rất nhiều. Nếu cậu đóng vai chính sẽ có rất nhiều nội dung để tuyên truyền. Thậm chí chỉ cần có 1/10 số độc giả của cậu đi xem phim, thì doanh thu cũng đã rất khả quan rồi. Mike Nichols giật lấy kịch bản, xem qua một lượt, rồi gật đầu nói :

    - Ta có một ý này. Chủ tịch có thể vừa đóng vai chính, vừa làm giám chế. Với thân phận của Chủ tịch, chúng ta sẽ có rất nhiều nội dung để tuyên truyền hấp dẫn khán giả.

    John Nicholas Calley cũng lập tức tán đồng :

    - Chủ ý hay !

    Cả bọn xem chừng rất hứng khởi, quên cả việc hỏi ý kiến đương sự. Narumi nhìn qua một lượt, ‘High School Musical’, gật đầu nói :

    - Không thành vấn đề !

    Để phục hưng MGM, cậu có thử làm diễn viên cũng không sao.

    ...

    Rời trụ sở tập đoàn MGM, Narumi quyết định đi kiểm tra vài cơ sở kinh doanh của cậu ở Los Angeles. Đây là một đại đô thị, Tập đoàn Công nghệ Mars có đến hơn chục ‘Trung tâm giải trí Mars’, trong đó nơi lớn nhất có đến 500 máy vi tính, quy mô hoành tráng. Cậu vừa ghé vào đó, liền cảm thấy rất ngạc nhiên, tưởng tượng của cậu về các điểm cho thuê máy vi tính tuyệt đối không giống như thế này.

    Từ ngay cửa ra vào, các nhân viên tiếp tân, nhân viên kinh doanh đều là những thiếu nữ xinh đẹp, vui vẻ chào đón khách. Ai bước vào đây cũng đều thấy tâm tình thoải mái, rồi sau đó cũng ít ngần ngại khi chi tiền.

    Phần bên trái là một quán cà phê nhỏ, mặt vách hướng ra đường toàn bằng kính, ngồi trong quán có thể nhìn người xe qua lại ngoài đường. Ngay phía trong là tiệm thức ăn nhanh. Giữa hai nơi này chỉ có vài bộ bàn ghế, sử dụng chung, bởi vì khách hàng ở đây ít ngồi tại chỗ, mà thường mang vào bên trong, vừa chơi game vừa ăn.

    Phần bên phải là một siêu thị mini, hàng hóa phong phú và giá cả cũng rất mềm, thậm chí còn có cả khu hàng đồng giá 1USD (tương tự các cửa hàng 100 yên ở Nhật Bản). Cạnh đó là cửa hàng thiết bị - phần mềm máy tính, nơi bán những máy tính, linh phụ kiện và các loại phần mềm mang thương hiệu Mars.

    Tận trong cùng là phòng máy, được chia thành hai phần : khu vực cho hút thuốc và khu vực cấm hút thuốc, được ngăn cách bởi bức tường bằng kính, bên trong còn được lắp đặt thiết bị hút khói công suất lớn và máy điều hòa, nên nhìn chẳng khác gì nhau lắm. Nội thất khá thoáng và có cả cây xanh trang trí, không hề có cảm giác ngột ngạt.

    Dù có đến 500 máy, nhưng phòng máy lúc nào cũng kín chỗ. Không ít người chơi còn có một đám đông phía sau vừa xem vừa cổ vũ, quang cảnh cực kỳ náo nhiệt. Cậu chú ý quan sát thấy có đến 3/4 đang chơi game Casino. Game này có đầy đủ tính năng để kết nối mạng, dù chỉ là mạng cục bộ, người chơi có thể kết nối với ngươi chơi khác để cùng đánh bài, vì thế rất thu hút người chơi, những người không có nhiều tiền để đi chơi bài ở Las Vegas. Đa phần người Mỹ đều có máu cờ bạc, không ít thì nhiều.

    Đặc biệt, toàn bộ máy tính ở đây đều đã chuyển sang sử dụng hệ điều hành ‘Mars 92’, người sử dụng có thể thực hiện đa số các thao tác chỉ bằng cách click chuột, rất đơn giản. Người chưa từng tiếp xúc với máy tính cũng chỉ cần khoảng một giờ để làm quen, thân thiện với người sử dụng, được khách hàng hoan nghênh nhiệt liệt. Đi kèm với nó còn có ‘Mars Word 92’ để đánh văn bản, ‘Mars Excel 92’ là bảng tính, ‘Mars Paint 92’ để vẽ hình, ‘Mars DOS’ để vào cửa sổ DOS, ‘Mars Explorer’ là trình duyệt. Những phần mềm này đều có bán ở cửa hàng bên ngoài, khách hàng có thể mua về để cài vào máy tính của họ. Dù không hề được quảng cáo chính thức trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhưng thị phần của nó đang ngày càng mở rộng. Những người được hỏi đều hài lòng bởi sự đơn giản, dễ sử dụng của nó. Đa số người dùng không phải là chuyên gia phần mềm, sử dụng máy vi tính chỉ để giải trí hoặc phụ trợ thêm cho công việc, không muốn bỏ ra nhiều thời gian chỉ để học tập cách sử dụng các chức năng cơ bản của máy vi tính.

    Thâm nhập quan sát, cậu phát hiện trong thời gian qua Công ty Công nghệ Mars đã cho ra đời hơn chục game nữa. Carolyn Bacon tuy không phải là thiên tài kiểu như Bill Gate, nhưng cũng rất có năng lực và tinh thần cầu tiến. Hiện tại ở công ty đã có đến hơn 200 lập trình viên, chia làm ba nhóm chủ yếu : khoảng 100 người cho nhóm ‘Hệ điều hành’, 50 người cho nhóm ‘phần mềm’ và 50 người cho nhóm ‘game studio’. Công ty phát triển rất nhanh và hoạt động kinh doanh hiệu quả.

    Quan sát một lúc, Narumi hỏi Giám đốc trung tâm :

    - Nơi đây bình thường cũng đông khách như thế này ư ?

    Viên giám đốc cung kính nói :

    - Báo cáo Chủ tịch. Trung tâm chúng ta vẫn luôn đông khách, ngay cả lúc nửa đêm. Nhiều khách hàng còn bao máy suốt đêm nữa. Trong khoảng thời gian từ 24h đến 8h sáng hôm sau, chúng ta cho bao máy chỉ 5 USD.

    - Game được ưa thích nhất là gì ?

    - Dạ. Khách hàng chơi nhiều nhất là Casino ạ. Kế đó là Zuma và Dr. Riêng khách hàng nữ thích nhất là Majuu.

    Narumi rất hài lòng. Trung tâm mở cửa suốt, khách hàng luôn đông đảo, đương nhiên kết quả kinh doanh sẽ cực kỳ tốt.

    ...

    Arizona, Lĩnh địa Fujiwara, Thành phố La Paz, Cung điện Etou.

    Đứng trước mặt Narumi là một thanh niên tuổi độ hai mươi, diện mạo cũng dễ nhìn, chỉ có điều thể hình đặc biệt đô con, cao khoảng 1m75, ba vòng đều cực lớn, so với thanh niên người Mỹ bình thường khác thì thể hình vừa béo vừa lùn, nhìn có vẻ rất khôi hài. Bernard Jefferson, giám đốc đài truyền hình La Paz, giới thiệu :

    - Chủ tịch. Cậu ta chính là Ronald Shore, ở Boston, đang là sinh viên đại học.

    Cậu ta là thí sinh trong cuộc thi âm nhạc “America Idol” do đài truyền hình La Paz tổ chức. Cậu ta từ bé đã đam mê âm nhạc, rất thích ca hát, nếu có cơ hội thì sẵn sàng tham gia các cuộc thi âm nhạc, bất kể quy mô lớn nhỏ. Chỉ đáng tiếc do ngoại hình không phù hợp với thẩm mỹ của khán giả đối với một ngôi sao ca nhạc, nên dù là có hát đúng nhịp điệu, đúng tiết tấu, nhưng làn hơi không phù hợp, ngoại hình không phù hợp, khiến người nghe chỉ thấy buồn cười mà thôi, thành ra không lần nào lọt qua được vòng sơ tuyển. Narumi đã từng nghe đoạn băng ghi âm bài thi của cậu ta, và cũng không nhịn được cười, giọng không khó nghe, nhưng nếu bảo là hay thì không ai chấp nhận, vì vậy mà thi lần nào rớt lần đó.

    Trong lúc xem qua các tài liệu về cuộc thi, Narumi vô tình nhìn thấy cậu ta, bất giác liên tưởng đến một nhân vật. Cảm thấy tội nghiệp cho quá trình phấn đấu vì ước mơ đó, cậu quyết định cho cậu ta một cơ hội. Bernard Jefferson được lệnh đưa cậu ta từ Boston đến đây. Cậu ta rất mong chờ một cơ hội, nên lập tức theo đến đây ngay.

    Ronald Shore đứng nghiêm chỉnh ở đó, dáng vẻ vừa bối rối vừa tỏ ra đáng thương. Narumi khẽ cười, bảo :

    - Cậu rất muốn trở thành ca sĩ ?

    - Dạ.

    - Cậu không có ngoại hình tốt, chỉ có thể phát huy chất giọng, âm điệu, vũ đạo. Cậu phải học tập rất nhiều, rất khổ đó.

    - Dạ. Tôi không sợ khổ.

    Cậu ta ngước mặt lên nhìn Narumi, nói với giọng cực kỳ kiên quyết. Có quyết tâm như vậy là rất tốt ! Bernard Jefferson khẽ gật đầu nói :

    - Chủ tịch. Có thể cho cậu ta một cơ hội.

    Cậu ta lập tức chăm chú nhìn Narumi, ánh mắt mở to đầy khát vọng. Cậu ta đã cố gắng rất nhiều, chỉ hy vọng có cơ hội phát huy. Narumi mỉm cười bảo :

    - Tìm người huấn luyện cho cậu ta. Ta hy vọng sau hai tuần nữa sẽ có ít nhiều tiến bộ, có thể quay MV được.

    - MV ?

    Cả hai người đều ngạc nhiên sửng sốt. Bernard Jefferson hỏi lại :

    - Chủ tịch định cho cậu ta quay MV ?

    Narumi nói :

    - Quay một đoạn MV ngắn thôi, lồng vào trong một bộ phim sắp quay, giúp cậu ta đánh bóng tên tuổi và tiếp cận khán giả.

    - Dạ. Nếu chỉ có thế thì không sao ?

    Sau khi Ronald Shore ra về, Narumi hỏi Bernard Jefferson :

    - Việc tìm kiếm các nhà văn tương lai tiến hành đến đâu rồi ?

    - Chủ tịch. Danh sách sơ bộ có 26 người, gồm 4 người Mỹ, 1 người Anh, 1 người Pháp, 1 người Đức, 1 người Ý, 1 người Tây Ban Nha, 2 người Nga, 1 người Ai Cập, 1 người Nam Phi da đen, 1 người Kenya da đen, 1 người Arabi, 1 người Thổ Nhĩ Kỳ, 1 người Ấn Độ, 1 người Việt Nam, 1 người Thái Lan, 2 người Trung Hoa Đại Lục, 1 người Hàn Quốc, 2 người Nhật Bản, 1 người Brasil và 1 người Úc. Người lớn tuổi nhất là 22 tuổi, còn nhỏ tuổi nhất là 16 tuổi.

    - Có cả 2 người ở Trung Hoa Đại Lục kia à ?

    - Dạ. Bọn họ do người của chúng ta ở Hong Kong giới thiệu : Trương Tiễn ở Phúc Kiến, 16 tuổi và Miêu Hiểu Phong ở Hồ Bắc, 15 tuổi.

    - Còn nhỏ thế à ? Bọn họ sang đây có vấn đề gì không ?

    - Dạ. Chỉ cần Trường Trung học Fujiwara cấp cho bọn họ suất học bổng du học là không có vấn đề gì cả.

    - Ân ! Cứ như thế đi.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    江懷玉

  4. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    crazyboy74,
  5. #13
    Ngày tham gia
    Jan 2008
    Bài viết
    1,251
    Xu
    0

    Mặc định


    Chương 13 : HỌC VIỆN



    Trường Trung học Fujiwara.

    Hệ thống giáo dục ở đây gồm có Trường Mẫu giáo, Trường Tiểu học, Trường Trung học, và sắp tới đây dự kiến sẽ xây dựng cả Trường Đại học, chủ yếu phục vụ cho con em của cư dân trong thành phố và những vùng phụ cận, chủ yếu là con em của những công nhân viên làm việc trong các công ty của Narumi. Tất cả đều mang tên Fujiwara. Giáo trình đều do Narumi biên soạn hoặc tuyển chọn, hướng đến mục tiêu ‘học đi đôi với hành’, tránh lối học lý thuyết khô khan cứng nhắc. Ưu điểm của hệ thống giáo dục ở Mỹ là các trường có thể tự chủ về giáo trình và tự chịu trách nhiệm về chất lượng giảng dạy. Bộ Giáo dục có cũng như không, thậm chí có thời gian bị đề nghị xóa bỏ bộ này để tiết kiệm ngân sách quốc gia.

    Trường Trung học Fujiwara chỉ có 10 lớp với 241 học sinh, gồm các khối 6, 7, 8 mỗi khối 2 lớp và các khối 9, 10, 11, 12 mỗi khối 1 lớp. Dù vậy, nó vẫn có đầy đủ những chức năng mà một trường trung học cần có. Nhóm sản xuất phim ‘High School Musical’ đã dọn hẳn đến đây để tiến hành quay phim. Nơi đây có đầy đủ các cảnh mà kịch bản cần đến, và quan trọng hơn, nhóm sản xuất chỉ phải trả tượng trưng 1 USD cho chi phí thuê địa điểm quay phim. Đổi lại, tên trường học trong phim sẽ được sử dụng nguyên danh.

    Đạo diễn được chọn là Kenneth John Ortega, một nhà sản xuất phim truyền hình, đạo diễn và biên đạo múa người California, 42 tuổi. Ortega bắt đầu tham gia ngành giải trí trên cương vị một vũ công, sau đó là biên đạo múa, đặc biệt là ông đã từng biên đạo cho các video âm nhạc của Madonna và Michael Jackson. Tuy nhiên, ông cũng từng biên đạo cho video nhạc rock của Billy Squier, và bị đánh giá là “các clip quảng cáo âm nhạc tồi tệ nhất từng được thực hiện”. Narumi vừa là diễn viên nam chính, kiêm luôn biên tập và giám chế. Diễn viên nữ chính được tuyển từ những diễn viên nữ xinh đẹp mới vào nghề, có rất nhiều ở Hollywood, chỉ với yêu cầu xinh đẹp và múa giỏi. Đặc biệt, Ronald Shore cũng xuất hiện trong một đoạn ngắn, biểu diễn chính bản thân mình, một cậu sinh viên yêu ca hát, nhưng vì ngoại hình mà đi thi cả trăm lần vẫn không qua được vòng sơ tuyển. Khi cậu ta cất giọng hát, cả nhóm làm phim đều bật cười ồ, thậm chí khiến việc quay phim phải tạm dừng. Đạo diễn Ortega cảm thấy giọng hát của cậu ta có hiệu quả gây hài rất tốt, nên đã tăng thêm cảnh quay và thời gian diễn xuất của cậu ta.

    Narumi biết biểu diễn hay không ? Khỏi cần phải nói, cậu rất giỏi biểu diễn. Nếu không làm sao có thể giữ kín thân phận suốt thời gian sinh sống trên đảo Tsugikage ? Thậm chỉ cả Conan, thám tử Mori và thanh tra Megure cũng không thể phát hiện ra. Cậu rất tuấn tú, chuyên gia hóa trang có thể hóa trang cậu thành học sinh trung học mà không gặp vấn đề gì. Cậu không biết múa, Ortega có thể dạy cậu. Còn việc chơi bóng rổ, chuyện nhỏ. Dù sao cũng chỉ là quay phim chứ không phải thi đấu thật sự. Tóm lại, quá trình quay phim diễn ra hoàn toàn thuận lợi, mặc dù mỗi ngày đều phải làm việc đến 12 giờ, nhưng xong sớm nghỉ sớm, chẳng ai phàn nàn gì. Tổng thời gian quay phim mất hết sáu ngày. Sau đó mọi người giải tán, phần hậu kỳ giao cho đạo diễn phụ trách.

    Narumi quay về trụ sở mới của tập đoàn MGM là một tòa nhà sáu tầng nằm ở trung tâm thành phố. Cậu phải chủ trì việc tuyên truyền phim, trong khi John Nicholas Calley trực tiếp thực hiện. Đây là bộ phim đầu tiên của quá trình phục hưng MGM, nên toàn thể nhân viên trong tập đoàn đều rất xem trọng. Ngay sau đó, tại các trung tâm giải trí của Tập đoàn Công nghệ Mars đều xuất hiện các áp phích quảng cáo phim. Trên một số tờ báo lớn, ở những nơi công cộng có đông người qua lại cũng đều xuất hiện áp phích quảng cáo. Các phương tiện truyền thông cũng đua nhau xuất hiện những bài bình luận về việc “đại tác gia” Fujiwara, đồng thời cũng là Chủ tịch Tập đoàn Giải trí MGM, Chủ tịch Tập đoàn Truyền thông La Paz, Chủ tịch Tập đoàn Công nghệ Mars, Chủ tịch Tập đoàn Thủy sản Pelew, chủ nhân của Lãnh địa tư nhân Fujiwara, lần đầu tham gia đóng phim, không chỉ thế mà còn tự biên tự diễn kiêm luôn giám chế. Dư luận xôn xao bàn tán, có khen có chê, nhưng cũng nhờ đó mà bộ phim gây được sự chú ý đặc biệt từ công chúng. Các phương tiện truyền thông cũng đua nhau đưa tin về việc này để thu hút độc giả. Tờ báo nào mà không đưa tin, sẽ có rất ít người mua. Đặc biệt, các tờ báo lá cải chuyên đưa tin hậu trường đột nhiên bán đắt như tôm tươi. Hàng triệu độc giả của truyện ‘The Light’s Son’ tuyên bố sẽ đến rạp xem phim để ủng hộ tác gia mà họ yêu thích. Tập đoàn MGM chỉ tốn có vài trăm nghìn USD cho việc tuyên truyền, nhưng nhờ sức ảnh hưởng của Narumi mà bộ phim trở nên cực kỳ nổi tiếng, hiệu quả vượt xa sự mong đợi. Việc này cũng đã trở thành một sự kiện nổi bật, được mong đợi nhất trong tháng 10.

    Hiệu quả rõ nhất của việc tuyên truyền là quá trình thỏa thuận với các rạp chiếu phim diễn ra rất thuận lợi. Có đến 3.261 rạp chiếu phim trên toàn nước Mỹ chấp nhận lên lịch chiếu. Ngoài ra bộ phim cũng phát hành đồng thời ở 27 quốc gia, trong đó có các thị trường lớn như Anh, Pháp, Ấn Độ, Nhật Bản, Canada, Úc, New Zealand, ... Không phải bọn họ đánh giá cao chất lượng của bộ phim, mà cho rằng có Narumi tham gia, tất nhiên sẽ gây ra hiếu kỳ, rồi sẽ bán được nhiều vé. Sự thực hoàn toàn như thế. Thậm chí một số nơi còn bán hết sạch vé của ba ngày đầu. Theo sự thống kê chưa đầy đủ, tổng số vé bán được ngay trong ngày đầu phát hành lên đến gần 5 triệu, tức là sẽ có gần 5 triệu lượt khán giả đến rạp xem phim, tổng doanh thu lên đến hơn 30 triệu USD, chỉ ngay ngày đầu phát hành mà hãng phim đã có lợi nhuận rất lớn rồi. Khi thông tin được một số báo chí tiết lộ, mọi người càng hiếu kỳ chờ đón bộ phim. Đây hiển nhiên là một hiện tượng lớn.

    ...

    Arizona, Lĩnh địa Fujiwara, Thành phố Olive, Tòa nhà Mars Palace.

    Từ Los Angeles đi xe dọc theo Xa lộ liên bang số 10 (I-10) về hướng đông gần 2 giờ là đến thành phố nhỏ Ehrennberg. Đến đó rẽ lên phía bắc là đi vào đại lộ Fujiwara. Cách Ehrennberg khoảng 1km về phía bắc, cách La Paz khoảng 3km về phía tây nam là thành phố công nghệ Olive. Trụ sở Tập đoàn Công nghệ Mars, các công ty thành viên, các nhà máy sản xuất đều nằm ở đấy.

    Tập đoàn Công nghệ Mars là sự tổ hợp của nhiều công ty con cùng mang thương hiệu Mars. Công ty Công nghệ Mars chủ doanh sản xuất thiết bị điện tử, máy vi tính. Công ty Phần mềm Mars kinh doanh hệ điều hành Mars 92, các loại phần mềm ứng dụng, kể cả bộ phận ‘game studio’. Công ty Giải trí Mars kinh doanh các Trung tâm Giải trí. Công ty Dịch vụ Mạng Mars phụ trách các dịch vụ kết nối mạng truyền thông Mars (Mars’ internet). Công ty Đồ chơi Mars chuyên doanh các mặt hàng đồ chơi dành cho cả trẻ em và người lớn. Công ty Thực phẩm Mars và Công ty Đồ uống Mars chuyên sản xuất các loại đồ ăn thức uống cung cấp chủ yếu cho các Trung tâm Giải trí Mars trên khắp thế giới.

    Thương hiệu Mars tuy chỉ mới xuất hiện vài tháng nay, nhưng đã rất nổi tiếng, đặc biệt khi hệ điều hành Mars 92 xuất hiện thì Mars đã trở thành thương hiệu hàng đầu trên phạm vi toàn thế giới. Giao diện rất thân thiện, có thể tùy ý thay đổi phông nền theo ý thích của người sử dụng, chỉ cần di động con trỏ chuột, click một cái, đã có thể mở ra các loại phần mềm ứng dụng khác nhau. Một người chưa từng sử dụng máy tính, chỉ cần đầu óc không có vấn đề, tối đa một giờ học tập là đã có thể sử dụng các ứng dụng cơ bản. Do đó, hệ điều hành Mars 92 đã trở nên rất phổ biến, hơn 90% số người sử dụng máy tính trên thế giới thường sử dụng nó, giúp bọn họ thoát khỏi những dòng lệnh khô khan trước đây. Chỉ có các lập trình viên và chuyên viên kỹ thuật, những người làm các công tác chuyên ngành mới không thích sử dụng. Nói đúng hơn, DOS, Linux và kể cả Windows NT không thích hợp với người bình thường, những người chỉ cần đến những ứng dụng cơ bản của máy tính.

    Công ty Phần mềm Mars bao gồm những bộ phận đầu tiên và cũng là nòng cốt của cả Tập đoàn, chủ yếu hoạt động nghiên cứu nên trụ sở công ty cũng nằm chung trong Tòa nhà Mars Palace. Hiện tại công ty có đến hơn 200 nhân viên, chia làm ba bộ phận chính : hệ điều hành, phần mềm ứng dụng và game studio. Và giờ đây, Narumi giá lâm bộ phận game studio sau khi nhận được tin báo hỉ. Carolyn Bacon, giám đốc điều hành của công ty, hớn hở nói :

    - Chủ tịch. Game ‘Age of Heroes’ đã hoàn thành rồi ạ. Ngài có thể chơi thử, kiểm tra thành quả của mọi người.

    - Ân ! Để ta thử xem sao ?

    Narumi đến trước một máy tính, khởi động game. So với game ‘Age of Empire’ hồi tiền thế, game này có phần đơn giản hơn và cấu hình yêu cầu cũng thấp hơn, chỉ cần máy tính có chip xử lý tốc độ 40 MHz là được. Đối với Narumi mà nói, xuất hiện trước 5 năm, được như thế là tốt lắm rồi. Trong khi đó, đối với người thời bấy giờ, đây là một kiệt tác, là một tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Không thấy các kỹ thuật viên của công ty đều rất tự hào hay sao ?

    Sau một đoạn âm nhạc du dương, trên màn hình xuất hiện các lựa chọn. Đầu tiên là phần hướng dẫn chơi, giúp người chơi làm quen với các quy tắc, kiến trúc và binh chủng trong game. Trong phần này, người chơi sẽ đóng vai thủ lĩnh của một bộ tộc thuộc Shinnou-shi (Thần Nông thị), dẫn theo một nhóm tộc dân, thuận theo dòng sông Kou(1) tiến về phía hạ lưu, tìm nơi định cư và phát triển bộ tộc. Tiếp theo là phần chơi chiến dịch. Game có ba chiến dịch độc lập, mỗi màn chơi yêu cầu người chơi phải hoàn thành các mục tiêu khác nhau. Đó là các chiến dịch có trong lịch sử, với các nền văn minh La Mã (Caesar chinh phục xứ Gaul), Nhật Bản (Tenno Kan Yamato Iwarebiko thu phục xứ Yamato) và Arabi (Saladin chinh phục Jerusalem). Sau đó là phần chơi đơn, với các bản đồ ngẫu nhiên (random map), người chơi có thể lựa chọn một trong số chín nền văn minh : La Mã (Roma), Hy Lạp (Greek), Viking, Arabi, Babylon, Ấn Độ (India), Trung Hoa (Shinnou-shi), Nhật Bản (Yamato), Triều Tiên (Goryeo). Cuối cùng, game còn hỗ trợ phần chơi mạng, tối đa có thể cho 4 người chơi cùng một lúc.

    Mới xem qua thì thấy nội dung đồ sộ như thế, nhưng thật ra để đơn giản hóa, trong game thật sự chỉ có ba nền văn minh : châu Âu, Đông Á và Lưỡng Hà. Mỗi nền văn minh có ba dân tộc, đều có kiến trúc và binh chủng cơ bản giống nhau, chỉ tên gọi hơi khác nhau. Riêng đặc thù binh chủng ‘tu sĩ’, ở văn minh châu Âu gọi là Clergy, mặc đồ đen; ở văn minh Đông Á gọi là Monk, mặc đồ vàng; còn ở văn minh Lưỡng Hà gọi là Priest, mặc đồ trắng. Tuy nhiên, mỗi dân tộc cũng có binh chủng đặc trưng, như La Mã có Legion (Quân đoàn Bộ binh), Hy Lạp có Scythe Chariot (chiến xa đôi), Arabi có Camel Rider (Kỵ sĩ lạc đà), Nhật Bản có Bushi (Vũ sĩ), Trung Hoa có Minpei (Dân binh, là một loại quân cực yếu, nhưng có giá chiêu mộ cực rẻ), ...

    Narumi chọn phần chơi đơn, chọn nền văn minh Nhật Bản, sau đó random. Máy tính tự động chọn đối thủ là Trung Hoa. Narumi cao hứng, trực tiếp sử dụng mã cheatcodes tăng lượng vàng, đá, gỗ và thực phẩm lên thật cao. Kark Mark đã từng nói vật chất càng phong phú thì xã hội phát triển càng nhanh. Quả nhiên, phía Nhật Bản nhanh chóng phát triển từ Stone Age lên Tool Age, rồi Bronze Age và cuối cùng là Iron Age, trong khi đối thủ vẫn còn đang trong quá trình tích lũy lương thực vật tư, chuẩn bị thăng cấp thời đại. Sau đó, Narumi tạo ra một đám kỵ binh, tràn sang tiêu diệt đối thủ. Chiến thắng !

    Những người xung quanh thấy cậu chơi kiểu đó, nhao nhao nói :

    - Chủ tịch. Chơi kiểu đó có gì thú vị đâu.

    - Chủ tịch. Không chơi cheatcodes mới thấy hay đấy ạ.

    - Chủ tịch. Chơi phần chiến dịch có nhiều điều thú vị lắm đó.

    ...

    Narumi mỉm cười bảo :

    - Nhưng ta thấy sảng khoái. Được rồi. Kiểm tra lần cuối, sau đó lên kế hoạch phát hành.

    Game Age of Heroes là một điểm nhấn quan trọng trong chiến lược kinh doanh của Narumi. Cậu rất mãn ý ! Sau đó, giao lại công việc cho thủ hạ, cậu không để ý đến sự náo nhiệt bên ngoài, chủ yếu tập trung tinh lực vào việc thành lập Trường Đại Học Fujiwara, cùng với khóa học đầu tiên của Học Viện Văn Hóa do cậu đích thân chủ giảng.

    Hệ thống giáo dục ở Lĩnh địa Fujiwara cho đến lúc này mới có đủ các cấp lớp từ Mẫu Giáo đến Đại Học. Khác với Trường Trung Học Fujiwara nổi tiếng khắp toàn thế giới, Trường Đại Học Fujiwara chỉ được thành lập một cách lặng lẽ, trừ những người trực tiếp tham dự thì không mấy người biết đến. Trường hiện tại chỉ có ba phân viện : Học Viện Kinh Tế, chủ yếu đào tạo nhân viên quản lý để bổ sung cho các công ty của Narumi sau này; Học Viện Công Nghệ, vốn là các khóa đào tạo kỹ thuật viên tin học của Tập đoàn Công nghệ Mars được mở rộng quy mô; và Học Viện Văn Hóa mới mở, chỉ có 26 học viên, do đích thân Narumi chủ giảng. Tổng số sinh viên của Trường hiện tại chưa đến 200 người, khai học trong lặng lẽ, nhưng chỉ ít năm sau, sẽ có vô số người hâm mộ hoặc ghen tị cho cơ may của lớp sinh viên đầu tiên này. Chỉ có những sinh viên của khóa đầu tiên này mới được Narumi xem là học sinh của cậu, và thành tựu của bọn họ đa phần vượt xa hơn những sinh viên khóa sau rất nhiều.

    Trường Đại Học Fujiwara không phải là những tòa nhà hùng vĩ nguy nga như những Trường Đại Học nổi tiếng ở Mỹ. Đó là một khu viên lâm theo phong cách Á Đông, với những tòa nhà hai, ba tầng nằm giữa những vườn hoa, cây xanh, hồ nước, giả sơn, ... cổ kính mà hoa mỹ. Narumi thích phong cách kiến trúc như thế hơn là những tòa nhà đồ sộ, hơn nữa, thời gian thi công không đủ, chỉ có gần ba tháng. Tăng số lượng công nhân thì chỉ có thể tăng quy mô về chiều rộng chứ không thể là chiều cao. Những tòa nhà cao tầng bắt buộc phải thi công dài ngày để đảm bảo chất lượng công trình. Cùng diện tích sử dụng, những công trình thấp tầng thì phải chiếm nhiều diện tích đất đai. Không sao cả, ở Lĩnh địa Fujiwara không sợ thiếu đất đai.

    Khuôn viên Trường Đại Học hiện tại rộng 12ha, có thể mở rộng đến 96ha trên diện tích dự kiến, gồm đầy đủ các khu chức năng mà một trường đại học cần phải có. Trong đó, Học Viện Văn Hóa nằm tại một khu nhà xây theo phong cách ‘tứ hợp viện’ : bốn dãy nhà ba tầng bao quanh một khoảng sân rộng chính giữa, chỉ có một cổng ra vào hướng về bờ hồ ở phía nam, bên trái cổng ra vào là Giảng đường, bên phải là các phòng học, hai dãy nhà phía đông và tây là khu chức năng, còn dãy nhà tận trong cùng là khu hành chính. Hai bên khu hành chính có hai cửa vòm thông ra hậu viện là khu ký túc xá gồm 120 căn hộ mini (5x10 = 50m2, gồm 1 phòng khách, 2 phòng ngủ, 1 phòng ăn và nhà bếp, 1 phòng tắm, 1 toilet). Tất cả trong một ! Quý tinh bất quý đa. Narumi không có ý định mở rộng quy mô của Học Viện này.

    Phòng học đầu tiên, trên cửa phòng có gắn bảng ‘C92’ (phòng học duy nhất có gắn bảng tên lớp), tức lớp học khóa 1992, toàn khóa chỉ có một lớp, 26 sinh viên. Nếu năm học sau có hai lớp thì sẽ lần lượt là ‘C93-1’ và ‘C93-2’. Giữa phòng có một chiếc bàn tròn lớn, với 27 chiếc ghế. Mọi người cùng ngồi quanh bàn. Tất cả sinh viên được tuyển ít nhất phải đạt được ba yêu cầu : giao tiếp được bằng tiếng Anh (không bắt buộc phải thành thạo); có khả năng viết văn; và có ngoại hình chấp nhận được. Narumi không muốn đệ tử của cậu có ngoại hình quá khó coi, mặc dù tài năng và ngoại hình hầu như ít có liên quan với nhau. Đó chỉ là ý thích của cậu. Không thể nói làm thế là bất công đối với những người xấu xí, bởi muốn nhận ai làm đệ tử là quyền của cậu, tự do cá nhân, không ai có thể can thiệp.

    Narumi nhìn 26 khuôn mặt trẻ trung thanh tú, với đủ loại màu da chủng tộc, mỉm cười bảo :

    - Hôm nay là buổi học đầu tiên. Chúng ta làm quen với nhau. Ta là ai, mọi người đều đã biết rồi. Giờ từng người hãy lần lượt tự giới thiệu về mình. Xiǎo Fēng, con giới thiệu trước đi.

    Miêu Hiểu Phong, phiên âm sang tiếng Latin là Māo Xiǎo Fēng, nhỏ tuổi nhất, nên được ưu tiên ngồi ngay bên phải Narumi, vị trí tốt nhất trong lớp. Cậu bé cùng với Trương Tiễn vì còn nhỏ tuổi, chưa tốt nghiệp Trung học, nên đang theo học tại Trường Trung Học Fujiwara, học ở đây với tư cách sinh viên dự thính, được bảo lưu kết quả. Sau khi tốt nghiệp Trung Học, chỉ cần tích lũy đầy đủ các học phần của chương trình Đại Học, cậu bé cũng sẽ được cấp bằng Đại Học như những sinh viên khác. Dù vậy, giống như phần lớn học sinh ở Trung Hoa Đại lục, giọng tiếng Anh của cậu bé hơi khó nghe, nên cậu bé nói với vẻ khá rụt rè :

    - Tôi là Xiǎo Fēng, Xiǎo Fēng Māo, sinh năm 1977, đến từ China, thích văn học và âm nhạc.

    Tiếp đó, những người bên cạnh lần lượt tự giới thiệu :

    - Chào mọi người ! Tôi là Michel Cardoso, sinh năm 1974, đến từ Brasil, thích văn học, ẩm thực và bóng đá.

    - Tôi là Kates Anderson, sinh năm 1973, đến từ Australia, thích văn học, âm nhạc và khiêu vũ.

    - Tôi là David Johnston, sinh năm 1973, đến từ United States, thích văn học và bơi lội.

    - Tôi là Fred Thompson, sinh năm 1973, đến từ United States, thích văn học và bóng đá.

    - Xin chào ! Tôi là Hwang Ji Gyu, sinh năm 1972, đến từ Korea, thích văn học, âm nhạc và ẩm thực.

    - Tôi là Pierre Trudeau, sinh năm 1972, đến từ France, thích văn học, điện ảnh và nấu ăn.

    - Hân hạnh làm quen với mọi người ! Tôi là Sara Akkaraseranee, sinh năm 1972, đến từ Thailand, thích văn học, múa và âm nhạc.

    - Chào mọi người ! Tôi là Yasunari Mishima, sinh năm 1972, đến từ Japan, thích truyện tranh, phim hoạt hình và bóng chày.

    - Tôi là Konstantin Barabanov, sinh năm 1972, đến từ Russia, thích văn học và điện ảnh.

    - Tôi là Arvinds Shankar, sinh năm 1971, đến từ India, thích văn học, thể thao và games.

    - Tôi là Bernard Obama, sinh năm 1970, đến từ Kenya, thích văn học và thể thao.

    - Tôi là Soweto Mambazo, sinh năm 1970, đến từ South Africa, thích văn học, âm nhạc và khiêu vũ.

    - Tôi là Ahmed Mahfouz, sinh năm 1971, đến từ Egypt, thích văn học và điện ảnh.

    - Tôi là Grams Stevens, sinh năm 1972, đến từ United States, thích văn học, ăn uống và games.

    - Tôi là Mirra Lewis, sinh năm 1972, đến từ United Kingdom, thích văn học, dạo phố và thời trang.

    - Tôi là Hakan Recep Balta, sinh năm 1973, đến từ Turkey, thích văn học, ẩm thực và bóng đá.

    - Tôi là Ludovico Ficino, sinh năm 1973, đến từ Italia, thích văn hóa, lịch sử và thời trang.

    - Xin chào mọi người. Tôi là Lưu Minh, sinh năm 1973, đến từ Vietnam, thích văn học, âm nhạc và thiền.

    - Tôi là Elias Ariss, sinh năm 1973, đến từ Lebanon, thích văn học, lịch sử và hội họa.

    - Tôi là Martin Friedrich Heidegger, sinh năm 1974, đến từ Germany, thích văn học, xe hơi và thời trang.

    - Tôi là José Benavente, sinh năm 1974, đến từ Spain, thích văn học, bóng đá và âm nhạc.

    - Tôi là Sayuri Asada, sinh năm 1974, đến từ Japan, thích viết văn, đọc sách và đi du lịch.

    - Tôi là Nikita Zhukov, sinh năm 1974, đến từ Russia, thích văn học, bóng rổ và games.

    - Tôi là Henry Johnson, sinh năm 1974, đến từ United States, thích văn học, âm nhạc và điện ảnh.

    - Xin chào mọi người. Tôi là Jiǎn Zhāng, sinh năm 1976, đến từ China, thích văn học, bóng đá và games.

    Tất cả đều là thanh thiếu niên thuộc nhóm 7x, người lớn nhất chỉ mới 22 tuổi, còn người nhỏ nhất 15 tuổi. Thường thì những người trẻ tuổi thường dễ tiếp nhận các khái niệm mới, thế giới quan cũng chưa định hình hoàn toàn, thích hợp tiếp thu khái niệm văn hóa đại chúng của Narumi hơn. Mọi người hoàn thành việc tự giới thiệu, làm quen với nhau xong, Narumi mới bảo :

    - Để trở thành một nhà văn thành công, chúng ta cần có một sự định vị chính xác : hướng đến nhóm độc giả nào ? Hiện tại có hai nhóm độc giả đối lập nhau : các nhà phê bình văn học và đại chúng. Cứ xem thái độ của giới phê bình văn học đối với các tác phẩm của ta là đủ biết. Bọn họ càng phê phán thì người đọc càng nhiều. Do đó, tác phẩm văn học cũng có thể phân chia thành hai nhóm chính : nghệ thuật và đại chúng. Nếu chọn hướng nghệ thuật, tác phẩm cần được trau chuốt cẩn thận, tốc độ sáng tác chậm, được các nhà phê bình văn học xem trọng, nhưng tiểu chúng, ít độc giả. Các nhà văn chọn hướng này phải có điều kiện tiên quyết là có cuộc sống dư dả, không phải lo lắng về tiền bạc, chủ yếu là đam mê của người giàu, người nổi tiếng cần đánh bóng tên tuổi. Chỉ có điều, vấn đề lớn nhất đối với một tác giả mới là phải có biên tập chịu đọc tác phẩm của mình. Rất nhiều tác giả chưa nổi tiếng mang bản thảo đến nhà xuất bản, nhưng không được chú ý đến, dần dần rơi vào lãng quên.

    - Vâng ạ ! Em cũng từng gửi tác phẩm đi, nhưng không nhận được hồi âm. Nghe nói các biên tập luôn ưu tiên cho tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng.

    - Cũng dễ hiểu thôi. Tính nghệ thuật trong tác phẩm văn học loại này cần phải đọc kỹ và suy nghĩ sâu xa mới nhận ra được. Biên tập phải đối diện với bao nhiêu bản thảo, đâu có nhiều thời gian đọc kỹ từng tác phẩm được, chỉ đành ưu tiên cho một số nào đó thôi.


    - Vì thế em thấy cần học theo Sensei(2), phải nổi tiếng trước đã, chỉ cần có nhiều fans, rồi danh lợi đều sẽ tự nhiên tìm đến.

    - Ân ! Nếu chọn hướng đại chúng, việc sáng tác đơn giản, chỉ cần phù hợp thị hiếu độc giả thì dễ dàng nổi tiếng, thu nhập cao, nhưng không được lòng giới phê bình văn học. Cũng như điện ảnh vậy, các tác phẩm chủ lưu của Hollywood bị xem là thương mại, không được giới phê bình điện ảnh ưa thích. Còn những tác phẩm được giới phê bình điện ảnh ca ngợi thường lại ít có người xem.

    - Đúng thế ạ ! Các hãng phịm lớn ở Hollywood đều làm phim thương mại thôi.

    - Các phim đoạt giải Oscar cũng là phim thương mại đó.

    ...

    Trong lúc Narumi đang bận rộn cho việc giảng dạy, trong lúc tên tuổi của cậu xuất hiện đầy rẫy trên các báo đài, cậu đột nhiên nhận được thiếp mời dự tiệc. Mitchell Bard mang thiếp mời đến cho cậu, rồi nói thêm :

    - Chủ tịch. Đây là cuộc vận động nước rút cuối cùng trước cuộc bầu cử vào thứ ba tới đấy ạ.

    Mấy ngày này đã gần sát đến ngày bầu cử Tổng thống Mỹ. Các ứng viên đang tìm đủ mọi cách để thuyết phục những cử tri còn lưỡng lự để họ bỏ phiếu cho mình. Gần 40 ứng cử viên đăng ký tranh cử, sau những cuộc bầu cử sơ bộ, giờ chỉ còn lại ba ứng cử viên chính : George H.W. Bush của Đảng Cộng Hòa (đương kim Tổng thống), Bill Clinton của Đảng Dân Chủ và Ross Perot là ứng cử viên độc lập. John Nicholas Calley nói :

    - Ông Clinton thật là khôn ngoan. Chỉ cần Chủ tịch tỏ ý ủng hộ ông ta, số phiếu của ông ta ít nhất cũng có thể tăng thêm vài phần trăm. Nếu tôi đoán không sai, tối nay sẽ có nhiều ký giả đón đường Chủ tịch.

    Narumi là một danh nhân có đến hàng triệu fan trung thành, chỉ cần nhìn qua cơn sốt vé của bộ phim do cậu tự biên tự diễn thì cũng đủ biết. Do đó, lời nói của cậu có thể ảnh hưởng đến rất nhiều người. Cậu khẽ mỉm cười, quyết định sẽ tham gia bữa tiệc. Cậu không ngờ mình cũng có lúc trở thành một nhân vật quan trọng ảnh hưởng đến chính trường nước Mỹ. Còn việc bị lợi dụng, cậu không quá xem trọng.

    California, Hạt Los Angeles, Thành phố Beverly Hills(3), Khách sạn Beverly Hilton. Đó là địa điểm tổ chức bữa tiệc vận động tranh cử của ông Clinton. Khách sạn Beverly Hillton là một khách sạn nổi tiếng, nằm trên một khu đất rộng 3,6ha ngay nơi giao nhau giữa hai đại lộ Wilshire và Santa Monica, hai trục đường quan trọng của Los Angeles. Đây cũng từng là nơi tổ chức nhiều sự kiện nổi tiếng, những cuộc đấu giá từ thiện, như Giải thưởng Quả cầu vàng, Giải thưởng Daytime Emmy, ...

    Tối hôm đó, cậu gặp lại Bill Clinton. Thân phận cả hai hiện giờ đều đã khác trước. Lần trước, ông Clinton là một ứng cử viên yếu thế, cậu chỉ là một người bình thường. Lần này, ông Clinton có nhiều khả năng trở thành Tổng thống, còn cậu cũng đã trở thành danh nhân, đại tư bản gia. Mọi người trò chuyện như bạn bè thân thiết. Mối quan hệ này đối với song phương đều có lợi nên mọi sự tiến triển rất tự nhiên. Narumi cũng có thêm nhiều bạn bè mới cả trong giới chính trị và tư bản. Cậu đã được giới thượng lưu ở Mỹ tiếp nhận.


    _________________________

    (1) Kou (こう) : Giang (Hán tự : 江), tên cổ của Trường Giang là Giang thủy, tức sông Giang. ‘Giang’ là tên sông, còn ‘thủy’ là sông, ví dụ Hán thủy (sông Hán), Lạc thủy (sông Lạc), Vị thủy (sông Vị), Dịch thủy (sông Dịch), ...

    (2) Sensei : せんせい, 先生, tiên sinh.

    (3) Tiểu bang California có 58 hạt (county), lớn nhất là hạt Los Angeles. Hạt Los Angeles có 88 thành phố, trong đó thủ phủ và cũng là thành phố lớn nhất là thành phố Los Angeles. Beverly Hills là một thành phố thuộc hạt Los Angeles, giáp với thành phố Los Angeles và thành phố West Hollywood.


    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    江懷玉

  6. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    crazyboy74,
  7. #14
    Ngày tham gia
    Jan 2008
    Bài viết
    1,251
    Xu
    0

    Mặc định


    Chương 14 : HÙNG SƯ QUẬT KHỞI



    Lại nói, sau khi rời bữa tiệc chiêu đãi của ông Clinton, quả nhiên Narumi đã bị nhiều ký giả chặn đường phỏng vấn về quan điểm chính trị của cậu. Dự đoán của John Nicholas Calley quả không sai. Các ký giả đã tranh nhau đặt câu hỏi, chủ yếu liên quan đến cuộc bầu cử sắp tới.

    - Ngài Fujiwara. Xin hỏi Ngài thấy quan điểm chính trị của ông Clinton thế nào ạ ?

    - Ngài cho rằng ông Clinton sẽ trở thành Tổng thống mới của nước Mỹ ?

    - Ngài cho rằng đương kim Tổng thống Bush không thích hợp liên nhậm thêm một nhiệm kỳ nữa ?

    - Trước tình hình kinh tế ngày càng xấu đi như hiện nay, Ngài có gì muốn nói với nhân dân hay không ?

    ...

    Vô số câu hỏi được đưa ra, Narumi đương nhiên không thể trả lời hết được. Thậm chí, có nhiều vấn đề nhạy cảm mà cậu không muốn liên quan đến. Tuy nhiên, cậu có cách giải quyết của cậu. Trước đông đảo ký giả, trước rất nhiều ống kính máy quay phim, cậu ung dung khoát tay ra hiệu cho tất cả im lặng, rồi mới thong thả nói :

    - Quan điểm của ta là ... ai làm Tổng thống không quan trọng, miễn sao người đó có thể cứu lấy nền kinh tế đang suy thoái của chúng ta. Hiện tại nước Mỹ đang cần một vị Tổng thống giỏi về vấn đề kinh tế. Ta không hy vọng đến một lúc nào đó, do tình hình kinh tế quá khó khăn, dân chúng không có nhiều tiền, rồi các doanh nghiệp của ta không có ai đến tiêu phí.

    Vấn đề cậu đưa ra rất hiện thực. Bất kể là ai, tư bản hay công nhân, người già hay trẻ nhỏ, không ai muốn số tiền trong túi mình giảm đi. Quan điểm của cậu vào lúc này tuyệt đối không sai. Chúng ký giả sau một lúc kinh ngạc lập tức ồ lên, nhao nhao tràn tới, thần thái hưng phấn thấy rõ. Nhưng cậu đã nhanh chóng thoát đi trong sự bảo hộ của các vệ sĩ. Ông Clinton nghe được câu trả lời của cậu, bàn tay nắm chặt lại, ánh mắt sáng ngời, như là chiến thắng đã nằm trong tầm tay.

    ...

    Ngày 30 tháng 10 ...

    Bộ phim được chờ đợi nhất trong năm, “High School Musical”, chính thức ra mắt khán giả đồng thời ở 27 quốc gia. Chỉ riêng ở nước Mỹ đã có hơn 3 triệu lượt người xem đến rạp, và cũng có một con số tương đương ở các quốc gia còn lại. Tổng doanh thu phòng vé ngày đầu ra mắt lên đến hơn 40 triệu USD. Bộ phim đã thành công vang dội. Tuy nhiên, cũng có những luồng dư luận trái chiều. Giới phê bình điện ảnh ra sức công kích bộ phim, chê bai không tiếc lời. Có điều kỳ lạ là : bọn họ càng công kích thì số người xem càng đông đảo. Nhờ vào dàn diễn viên xinh đẹp tuấn tú, thanh tân thoát tục, cùng với những động tác vũ đạo đẹp mắt, những lời ca dễ thuộc dễ hát, chủ đề tích cực và đầy tính giáo dục, bộ phim đã chinh phục được đông đảo khán giả. Hầu như toàn thể giới thanh thiếu niên, bất kể nam nữ, đều hết lời tán tụng bộ phim và rủ nhau đến rạp. Ngay cả giới phụ huynh cũng đánh giá cao bộ phim, cho rằng thà để con em họ đi xem phim này còn hơn là xem các phim hành động bạo lực vốn đầy rẫy ở các rạp chiếu phim. Nói tóm lại, chỉ trừ giới phê bình điện ảnh, bộ phim đã chinh phục được hầu hết khán giả, và đem lại thành công vang dội cho MGM.

    Đặc biệt, có một vài cảnh quay, diễn viên trong phim sử dụng các máy nghe nhạc mini nhỏ gọn, sáng lấp lánh, bỏ túi hoặc đeo ở thắt lưng, với các loại headphone nhiều kiểu dáng lạ, trông rất thời thượng, đã tạo thành trào lưu trong giới thanh thiếu niên. Thêm vào đó, giá máy cũng không cao, khiến sản phẩm ở các Trung tâm Giải trí Mars nhanh chóng cháy hàng. Người có nhiều tiền thì mua loại Fantasy Player rất sang trọng và thời thượng, giá 69 USD; người ít tiền có thể mua loại Digital Player giá 29 USD. Thậm chí, các headphone kiểu dáng độc đáo cũng rất đắt hàng. Còn đĩa nhạc có các bài hát trong phim thì không đủ để bán.

    Sau một tuần, chính xác hơn là sau ba ngày trình chiếu, doanh thu phòng vé đã vượt qua con số 150 triệu USD, chỉ riêng ở Mỹ là 91,2 triệu USD, và được khán giả đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt là giới thanh thiếu niên. Những bài hát trong phim xuất hiện ở khắp mọi nơi trên nước Mỹ, sau đó là trên toàn thế giới.

    Phát pháo đầu thành công vang dội, tập đoàn MGM lập tức tuyên truyền về kế hoạch “Mỗi tuần một bộ phim”, với các kịch bản toàn do “đại tác gia” Fujiwara sáng tác. Giới truyền thông thảo luận kịch liệt, có khen có chê, nhưng đa phần khán giả lại tỏ ra mong đợi. Sự kỳ vọng của bọn họ đã biến thành sự nhộn nhịp ở các phòng vé của rạp chiếu phim.

    ...

    Thời gian đối với Narumi là vàng bạc. Lúc nào cậu cũng có các kế hoạch mới cho sự nghiệp của cậu. Cũng như lúc này, cậu xuất hiện ở Công ty Đồ chơi Mars tại Olive, chủ trì việc chế tác một trò chơi mới. Lần này không phải là một trò chơi điện tử, mà là trò chơi bài.

    Đừng có xem thường các trò chơi bài, nếu như có một hệ thống luật chơi cẩn thận, rõ ràng, mang tính khoa học, quy tắc có tính cân bằng, cách chơi phong phú hấp dẫn, cuối cùng có thêm một mạng lưới tiêu thụ ưu tú, chắc chắn trò chơi sẽ lưu hành khắp thế giới. Kiểu như bài Magic trong manga và anime ‘Yu-gi-oh’ (Vua trò chơi).

    Tuy nhiên, hiện tại mới năm 1992, các loại trò chơi bài chủ yếu là các loại bài tây kiểu như Poker. Các loại trò chơi bài hiện đại theo hình thức ‘Trading Card Game’ (TCG, trò chơi thẻ bài giao đấu) lúc này chưa xuất hiện. Loại sớm nhất là bài Magic phải đến tháng 5 năm 1993 mới được phát hành bởi công ty ‘Wizards of the Coast’.

    Narumi triệu tập những người có kỹ thuật chế tác bài tốt nhất công ty, cùng những chuyên gia thiết kế giỏi nhất để nghe ý tưởng của cậu. Cậu chỉ cung cấp ý tưởng, còn thực hiện nó là công việc của các chuyên gia. Thuật nghiệp hữu chuyên công kia mà.

    ‘Bang!’ là một trò chơi bài phù hợp các yêu cầu của Narumi. Trò chơi có bối cảnh ‘cowboy miền viễn tây’, nơi mà cuộc chiến giữa cái thiện và cái ác luôn diễn ra, thích hợp với văn hóa Mỹ. Bắt đầu từ một số quy tắc định trước, thông qua việc thiết kế trò chơi hợp lý và cân bằng, phát sinh cách chơi nhiều người (tối đa đến 7 người), cũng là một trò chơi khảo nghiệm trí tuệ và tinh thần, thi triển tài ăn nói và khả năng trinh thám, phù hợp với quần thể người chơi thông minh (có mấy người chịu nhận mình kém thông minh !).

    Cách chơi tiêu chuẩn có 4 người chơi, và có thể tăng lên đến 7 người. Mỗi người sẽ chọn ngẫu nhiên một thẻ bài nhân vật và một thẻ bài vai trò. Có 4 loại thẻ bài vai trò : Sheriff (cảnh sát trưởng), Deputy Sheriff (trợ lý cảnh sát trưởng), Outlaw (tội phạm), Renegade (nội gian). Tiêu chuẩn là 1 Sheriff, 2 Outlaw và 1 Renegade. Trò chơi yêu cầu chỉ được có 1 Sheriff, còn những người khác tùy vào số lượng người chơi.

    Người chơi sẽ úp thẻ bài vai trò xuống và để ngửa thẻ bài nhân vật lên. Riêng Sheriff bắt buộc phải để ngửa thẻ bài vai trò để mọi người cùng biết. Những người chơi còn lại có thể nói dối để che giấu vai trò thật của mình, càng tránh bị phát hiện sớm càng tốt. Thẻ bài nhân vật là nhân vật đại diện cho người chơi, thường được lấy từ những nguyên mẫu nổi tiếng trong lịch sử. Mỗi nhân vật đều có một khả năng đặc biệt để hỗ trợ khi chiến đấu với người chơi khác, đồng thời vừa có ưu điểm lẫn nhược điểm. Người chơi sẽ sử dụng các thẻ bài để tấn công, phòng thủ, hỗ trợ, ... với mục đích tiêu diệt đối phương. Trò chơi sẽ kết thúc khi Sheriff bị giết. Nếu người chơi còn lại duy nhất là Renegade thì phe Renegade chiến thắng. Nếu có từ hai người chơi trở lên còn sống mà chỉ cần có một Outlaw thì phe Outlaw chiến thắng. Trường hợp còn lại, nếu tất cả Outlaw và Renegade đều chết trước khi Sheriff chết thì phe Sheriff và Deputy Sheriff chiến thắng. Người chơi cần phối hợp, ngụy trang, và phải có chiến thuật khéo léo để giành chiến thắng cuối cùng. Vì thế mới gọi là trò chơi dành cho những người thông minh.

    Sau khi bộ bài mẫu được chế tác thành công, mọi người cùng nhau chơi và nhanh chóng bị thu hút. Narumi không chơi, cậu không thích chơi bài và cậu cũng không cần chứng tỏ sự thông minh. Sau một lúc, cậu bảo mọi người dừng chơi, để thảo luận phiên bản mở rộng của nó. Cậu đặt tên là ‘The Medieval War’ (Chiến tranh Trung cổ), cũng tương tự như các phiên bản ăn theo của ‘Bang!’ là ‘Tam quốc sát’, ‘Hải tặc sát’, ...

    Đúng như tên gọi, bối cảnh của phiên bản mở rộng là thời kỳ Trung cổ, sau khi Đại Đế Charlemagne qua đời, con cháu phát sinh bất hòa, Đế quốc Frank bị phân chia thành ba vương quốc Đông Frank, Tây Frank và Trung Frank (tiền thân của ba nước Đức, Pháp, Ý). Sau đó là thời kỳ chiến tranh loạn lạc, thời kỳ đêm dài Trung Cổ, thời kỳ các lãnh chúa phong kiến tranh giành quyền lực, thời kỳ của các Hiệp sĩ anh hùng và lãng mạn. Trò chơi mang lại những trận chiến cả phong cách bàn giấy và hiện thực. Người chơi sẽ là những Hiệp sĩ danh tiếng lẫy lừng, những quân chủ tài ba, hoặc những văn quan và giáo sĩ nhiều mưu lược.

    Mỗi người chơi sẽ điều khiển 2 nhân vật (Tướng) cùng màu, đồng thời đó sẽ là phe của họ. Nhiệm vụ của người chơi là tiêu diệt tất cả những người chơi khác màu của mình. Tất cả người chơi sẽ bắt đầu với 4 thẻ bài trên tay và sẽ rút thêm 2 thẻ bài khác vào đầu lượt chơi. Những thẻ bài gồm có ba loại chính là thẻ bài cơ bản, thẻ bài công cụ và thẻ bài trang bị, mỗi thẻ bài có một chức năng riêng biệt. Mỗi người chơi sẽ tuần tự theo lượt và sử dụng thẻ bài tùy ý. Cứ vậy cho đến khi trên bàn chỉ còn những người chơi thuộc cùng một phe.

    Mỗi nhân vật có một năng lực riêng và một số HP (máu) riêng. Tổng số HP của cả hai nhân vật sẽ là số máu của người chơi. Nếu người chơi hết HP và không có cách hồi phục lại ngay, nhân vật của người chơi sẽ chết và người chơi bị loại khỏi game. Thẻ bài Tướng của người chơi sẽ được đặt úp khi bắt đầu, do đó không ai biết chắc chắn mỗi người chơi thuộc phe nào cho đến khi người chơi lật Tướng. Để kích hoạt kỹ năng nhân vật, người chơi phải lật lá bài đó lên. Do đó cần có sự cân nhắc giữa việc có kích hoạt kỹ năng và lộ phe, hay ẩn nấp và đợi cơ hội. Sự lựa chọn sẽ tùy thuộc vào phong cách chơi của từng người chơi.

    Trò chơi này nói đơn giản thì cũng đơn giản, nhưng nói phức tạp thì quả là rất phức tạp. Không khó để bắt đầu chơi, nhưng muốn chơi giỏi thì không dễ, cần có nhiều thời gian ‘tu luyện’. Trò chơi mang đậm nét chiến tranh (chuyện thường ngày thời Trung cổ, khi mà hai vị lãnh chúa tuyên chiến với nhau chỉ vì tranh giành một tổ ong), người chơi càng đánh, càng suy nghĩ nhiều thì càng giỏi. Nó yêu cầu tu duy chiến thuật cao, đồng thời mức độ giao tiếp và thuyết phục phải tốt. Đôi khi còn phải hợp tác với phe khác để chống lại một phe mạnh hơn. Đôi khi cũng phải ẩn nhẫn chờ thời, rồi chớp lấy thời cơ đánh nhanh thắng nhanh.

    Thế là một nhóm phát triển trò chơi hình thành.

    Tiếp đó, Narumi lại thành lập một nhóm liên hợp phát triển trò chơi gồm người của cả Công ty Phần mềm Mars (trò chơi điện tử) và Công ty Đồ chơi Mars (trò chơi bài). Trước tiên cậu phát cho mỗi người một bản in manga mới được sáng tác theo lệnh của cậu. Đó là phần đầu của bộ truyện Yu-gi-oh, nội dung cho đến trước khi bắt đầu Vương quốc trò chơi. Những phần tiếp theo vẫn còn trong giai đoạn sáng tác.

    Chờ mọi người đọc xong, cậu mới nói :

    - Ta muốn mọi người đồng tâm hợp lực chế ra những thẻ bài Magic giống như trong truyện, thiết kế những luật chơi thích hợp. Đây là một hạng mục quan trọng. Khi hoàn thành, các Trung tâm Giải trí Mars có thể bán Combo ‘trò chơi điện tử + trò chơi bài + manga’.

    Thời tiền thế, cậu từng có thời kỳ rất thích chơi bài Magic, và cũng có lúc bất mãn với những luật chơi lộn xộn của nó. Lần này cậu hy vọng sẽ có một hệ thống luật chơi khoa học và hợp lý hơn. Cậu rất tin tưởng vào tài năng của các nhân viên của cậu. Bọn họ đều là chuyên gia trong lĩnh vực của mình và đều luôn cố gắng hoàn thiện các ý tưởng của cậu. Không có bọn họ, các ý tưởng của cậu vẫn chỉ là ý tưởng, không thể hiện thực hóa và biến thành sản phẩm, biến thành USD.

    ...

    Arizona, Lĩnh địa Fujiwara, Thành phố La Paz, Cung điện Etou. Ngày 14/12/1992.

    Sau một tuần khẩn trương quay phần 2 của bộ phim ăn khách ‘High School Musical’, Narumi mới có thời gian rảnh rỗi kiểm tra công việc kinh doanh của mình. Lãnh đạo của các tập đoàn đều có mặt đầy đủ, lần lượt báo cáo hoạt động kinh doanh trong thời gian qua. Cũng cần phải nói thêm trong tháng qua Tập đoàn Giải trí MGM có thành tích kinh doanh nổi bật hơn cả, và lợi nhuận chỉ đứng sau Tập đoàn Công nghệ Mars.

    John Nicholas Calley, CEO của Tập đoàn Giải trí MGM phấn khởi nói :

    - Chủ tịch. Từ đó đến nay tập đoàn đã phát hành được 7 bộ phim, đều đạt được thành công vang dội. Ngày 30/10, phát hành bộ phim ‘High School Musical’, chi phí sản xuất và phát hành 6,8 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 7 tuần lên đến 892,6 triệu USD, sẽ được chiếu trong 10 tuần, tổng doanh thu phòng vé dự kiến có thể đạt đến 1 tỷ USD, sẽ là bộ phim đầu tiên có doanh thu phòng vé vượt qua mốc 1 tỷ USD, lợi nhuận có thể đạt hơn 400 triệu USD. Ngày 6/11, phát hành bộ phim ‘The Saw’, chi phí sản xuất và phát hành là 1,8 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 6 tuần là 98 triệu USD, sẽ được chiếu trong 8 tuần, tổng doanh thu dự kiến có thể đạt đến 120 triệu USD. Ngày 13/11, phát hành bộ phim ‘The Sixth Sense’, chi phí sản xuất và phát hành là 21 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 5 tuần lên đến 688,4 triệu USD, sẽ được chiếu trong 10 tuần, tổng doanh thu dự kiến có thể đạt đến 900 triệu USD. Ngày 20/11, phát hành bộ phim ‘Buried’, chi phí sản xuất và phát hành là 2 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 4 tuần là 66,2 triệu USD, sẽ được chiếu trong 8 tuần, doanh thu phòng vé dự kiến khoảng 100 triệu USD. Ngày 27/11, phát hành bộ phim ‘American Beauty’, chi phí sản xuất và phát hành là 8,2 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 3 tuần lên đến 162,7 triệu USD, sẽ được chiếu trong 10 tuần, doanh thu phòng vé dự kiến khoảng 400 triệu USD. Ngày 4/12, phát hành bộ phim ‘Dead Man Walking’, chi phí sản xuất và phát hành là 9,5 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 2 tuần là 41,9 triệu USD. Ngày 11/12, phát hành bộ phim ‘The Pursuit of Happyness’, chi phí sản xuất và phát hành là 22 triệu USD, doanh thu phòng vé sau 1 tuần là 78,2 triệu USD. Đến ngày 18/12 tới sẽ phát hành bộ phim ‘Olive’, và dịp Giáng Sinh sẽ phát hành bộ phim ‘High School Musical 2’. Phim của chúng ta cũng là phim được chờ mong nhất trong dịp Giáng Sinh năm nay đó.

    Ashlee Vance, CEO của Tập đoàn Công nghệ Mars, cười nói :

    - Các cảnh của cậu Shore đó thật độc đáo, lần này cậu ta sẽ trở thành nhân vật nổi bật nhất trong phim cho mà xem.

    Tập đoàn Công nghệ Mars là sự tổ hợp của Công ty Công nghệ Mars, Công ty Phần mềm Mars, Công ty Giải trí Mars, Công ty Dịch vụ Mạng Mars, Công ty Đồ chơi Mars, Công ty Thực phẩm Mars và Công ty Đồ uống Mars, có trụ sở ngay tại thành phố Olive bên cạnh, nên bộ phim mà Narumi tham gia đóng được Ashlee Vance biết rất rõ. John Nicholas Calley cau mày nói :

    - Nhân vật của cậu ta có thể sẽ gây chú ý nhiều hơn nhân vật chính của Chủ tịch nữa. Nhưng đó là ý muốn của Chủ tịch.

    Narumi mỉm cười nói :

    - Như thế mới tốt, vì những phần sau ta không thể tham gia đóng tiếp được nữa.

    Megumi Ishizuka, CEO của Tập đoàn Thủy sản Pelew, gật đầu nói :

    - Phải đó. Với thân phận của Chủ tịch không nên tham gia đóng phim. Lần trước là ngoại lệ, vì muốn sử dụng danh tiếng của Chủ tịch để cứu Tập đoàn Giải trí MGM mà thôi.

    Ashlee Vance lại tán thán :

    - Điệu nhảy ngựa của cậu Shore đó thật đặc sắc.

    Bề ngoài là khen gã Shore kia, nhưng thực chất là khen Narumi, bởi bài hát mà gã biểu diễn trong phim có tên là ‘Etou Style’, do Narumi đích thân ‘sáng tác’ và biên đạo. Khi nhìn thấy gã ta lần đầu tiên, cậu chợt liên tưởng đến một ca sĩ nổi danh đình đám ở Hàn Quốc thời tiền thế, cũng có thân hình mập mạp và giọng ca đặc sắc như thế. Và rồi cậu đã ‘sáng tác’ bài hát ‘Etou Style’, tức ‘Phong cách Giang Đông’. Cậu mỉm cười bảo :

    - Điệu nhảy đó vốn là điệu nhảy truyền thống ở Đông Á, cả ở Nhật Bản và Hàn Quốc đều có. Ta chỉ cải biên một chút cho phù hợp với việc biểu diễn mà thôi.

    Sau đó đến lượt Bob Wayne, CEO của Tập đoàn Truyền thông La Paz báo cáo :

    - Chủ tịch. Nhật báo La Paz hiện đã có lượng phát hành 10 triệu bản mỗi kỳ, đứng đầu nước Mỹ và đứng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Yomiuri Shimbun và Asahi Shimbun của Nhật Bản. Đài truyền hình La Paz đã phát triển được 302 nghìn thuê bao, thị phần tuy còn khiêm tốn nhưng vẫn phát triển ổn định. Nhà xuất bản Parker, tiền thân là Xưởng in Parker, nhờ xuất bản các tác phẩm đặc biệt bán chạy của Chủ tịch mà cũng có ít nhiều danh tiếng. Bù qua bù lại, tổng hợp thực lực, Tập đoàn truyền thông La Paz được xếp vào hàng 5 tập đoàn truyền thông lớn nhất nước Mỹ, và xếp ở vị trí thứ 5. Tuy nhiên, tập đoàn hiện vẫn đang trong giai đoạn phát triển thị phần, chưa có lãi.

    Nhờ thành tích nổi bật của Nhật báo La Paz, Bob Wayne từ cương vị giám đốc kiêm tổng biên tập báo La Paz đã trở thành CEO của Tập đoàn truyền thông La Paz. Ngành truyền thông luôn có địa vị đặc thù trong xã hội, nên được Narumi ưu tiên phát triển, chỉ cần mở rộng thị phần, tăng cường sức ảnh hưởng đối với xã hội, còn vấn đề lợi nhuận không quan trọng.

    Tiếp đó, đến phiên Megumi Ishizuka nói :

    - Chủ tịch. Tình hình ở Palau đã được kiểm soát. Chủ tịch có thể đến đó bất cứ lúc nào.

    Y chỉ nói thế, nhưng Narumi và cả Ashlee Vance, Mitchell Bard đã hiểu là chuyện gì rồi. Những người khác không hiểu, nhưng cũng biết ý mà không thắc mắc. Tình hình ở Palau trước đó đặc biệt hỗn loạn, hai vị Tổng thống liên tiếp bị ném bom vào nhà tử vong, sau đó do Tiểu vương Koror tạm thời kiểm soát chính quyền bằng một chính phủ độc tài không thân thiện với Mỹ. Vì thế mà các kế hoạch của Narumi ở đấy được quân Mỹ ở đảo Guam gần đó ủng hộ. Từ khi 100 cảnh vệ của Narumi đổ bộ lên đảo Babeldaob, tình hình đã được kiểm soát theo hướng có lợi cho cậu. Thông qua các mối quan hệ lợi ích, có 15 trong tổng số 16 tiểu bang ủng hộ cậu, trong khi chỉ có tiểu bang Koror là phản đối. Tuần trước, lãnh đạo của 15 tiểu bang này đã nhóm họp tại Melekeok, thành lập Hội đồng Liên bang, trục xuất Koror ra khỏi Liên bang, và đại diện cho Liên bang Palau thương lượng với Mỹ về vấn đề độc lập cho Palau. Cho đến lúc này, Palau vẫn là lĩnh thổ ủy thác được Liên Hiệp Quốc giao cho Mỹ bảo hộ.

    Megumi Ishizuka lại lấy ra một tấm thiếp, đưa cho Narumi, nói :

    - Chủ tịch. Đây là thiếp của Ngài Tadaterou Konoe mời Chủ tịch tham gia cuộc tụ hội hàng năm của gia tộc.

    Narumi khẽ cau mày. Megumi Ishizuka biết ý, liền vội giải thích :

    - Ngài Tadaterou Konoe là gia chủ đương nhiệm của gia tộc Konoe, cũng là đại diện cho các gia tộc Sekkan của Nhật Bản. Ngài ấy gửi thiếp mời cho Chủ tịch tức là đã công nhận Chủ tịch cũng là một thành viên của bọn họ.

    Sekkan (摂関, Nhiếp Quan) là viết tắt của Sesshou (摂政, Nhiếp Chính) và Kanpaku (関白, Quan Bạch), hai chức vị đứng đầu và thứ hai trong hệ thống triều đình phong kiến Nhật Bản. Các gia tộc Sekkan là các gia tộc có nguồn gốc từ gia tộc Fujiwara, cụ thể là năm gia tộc : Konoe, Takatsukasa, Kujo, Nijo, Ichijo. Theo truyền thống suốt hơn nghìn năm của Nhật Bản, hai chức vị này chỉ có thể do những người thuộc các gia tộc Sekkan nắm giữ. Các gia tộc Sekkan là các gia tộc quyền quý đứng hàng thứ nhì ở Nhật Bản, chỉ sau Hoàng tộc, và bọn họ đa phần có quan hệ thân thích với Hoàng tộc. Chẳng hạn như Tadaterou Konoe có vợ là công chúa Yasuko, em họ của Nhật hoàng Akihito.

    Được công nhận là một thành viên của bọn họ, lẽ ra Narumi phải vui mừng mới phải. Nhưng cậu lại chẳng thấy có chút hứng khởi nào. Gần đây, cậu nghiên cứu nhiều về lịch sử của gia tộc Fujiwara (bởi vì cậu lấy họ Fujiwara). Và mỗi khi xem đến cuộc nổi loạn thời Bảo Nguyên (保元の乱, Hougen no Ran, Bảo Nguyên chi loạn), cậu đều rất tức giận. Gia tộc Fujiwara lừng lẫy đã sụp đổ không phải vì suy yếu mà do quá cường thịnh. Khi đó, các thành viên trong gia tộc tranh quyền đoạt lợi, cấu kết với hai gia tộc Taira và Minamoto đánh giết lẫn nhau, và chống cả gia chủ đương nhiệm là cha của bọn họ. Kết quả, triều đại Fujiwara sụp đổ, công khanh thế suy, và các gia tộc samurai, đứng đầu là hai gia tộc Taira và Minamoto nhanh chóng quật khởi. Để trả công cho những bạn đồ, hai gia tộc này đã phân chia bọn họ thành nhiều gia tộc nhỏ, rồi cho bọn họ luân phiên nhau giữ chức Sesshou và Kanpaku cao quý nhưng không còn chút quyền lực nào nữa. Đó là tiền thân của các gia tộc Sekkan.

    Chợt nghĩ đến hai món bảo vật là kim bài và kim quan, Narumi bắt đầu nảy ra một ý tưởng. Cậu trầm ngâm giây lát, rồi xếp tấm thiếp lại, trao cho Megumi Ishizuka, bảo :

    - Trả lại cho bọn họ đi.

    Megumi Ishizuka ngạc nhiên hỏi :

    - Chủ tịch. Sao vậy ạ ?

    Narumi từ tốn nói :

    - Ta không có họ hàng với bọn họ.

    Thấy gã vẫn lộ vẻ ngạc nhiên sửng sốt, cậu chỉ mỉm cười. Mitchell Bard từng giúp cậu xử lý các tư liệu, văn vật nên ít nhiều đoán được ý cậu, giải thích :

    - Chủ tịch thân phận cao quý ...

    Narumi không muốn nhắc đến vấn đề này nữa, nên bảo Ashlee Vance báo cáo về tình hình Tập đoàn Công nghệ Mars.

    - Chủ tịch. Tháng vừa qua Tập đoàn Công nghệ Mars đạt được lợi nhuận sau thuế là 478,12 triệu USD. Tính đến dịp Giáng Sinh năm nay, các Trung tâm Giải trí Mars ở Ai Cập, Maroc, Tunisia và Trung Quốc được đưa vào hoạt động thì tập đoàn đã có 800.000 máy tính ở khắp năm châu lục. Tối đa chỉ khoảng một tháng nữa là đã có thể hoàn thành mục tiêu.

    Narumi hài lòng bảo :

    - Tốt lắm. Nhưng nếu có điều kiện thì cứ tiếp tục mở rộng thị phần.

    Ashlee Vance vâng dạ, rồi lại nói tiếp :

    - Chủ tịch. Các máy chủ SS hoạt động rất tốt. Hiện tại tập đoàn đã hoàn thành việc kết nối các ‘mạng địa phương’ với nhau, hình thành các ‘mạng khu vực’ lớn. Cáp quang biển cũng đang trong quá trình thi công, vì thế mà sắp tới việc mở rộng thị phần có thể bị chậm lại.

    Narumi trầm ngâm giây lát, rồi bảo :

    - Thế cũng được. Cố gắng đến dịp Valentine hoặc International Woman’s Day có thể vận hành thử nghiệm mạng internet. Được không ?

    Ashlee Vance suy nghĩ một lúc, rồi nói :

    - Nếu chỉ vận hành thử nghiệm thì được ạ. Thậm chí, nếu chúng ta không cần khống chế chi phí, ưu tiên thi công tuyến cáp quang biển nối Mỹ với châu Âu, đến dịp New Year Holiday có thể vận hành thử nghiệm, đến dịp Valentine có thể vận hành chính thức.

    Nói là thi công đường cáp ngầm dưới đáy biển vượt đại dương thì có vẻ khó khăn phức tạp, nhưng thực chất ... đường cáp ngầm vượt Đại Tây Dương đã có từ hơn trăm năm trước. Hiện giờ chỉ cần thi công theo đường cáp ngầm đó là được, tương đối đơn giản, chỉ cần kinh phí đầy đủ. Còn nếu thi công liên tục ba ca, bắt đầu cả từ hai phía, thì thời gian thi công càng ngắn hơn.

    Ashlee Vance lại nói :

    - Ngoài ra, tuyến cáp kết nối khu vực Đông Bắc Á và tuyến cáp vượt Địa Trung Hải liên kết khu vực Âu – Phi đều là các tuyến ngắn, về cơ bản đã hoàn thành, có thể cho hoạt động thử nghiệm vào dịp Giáng Sinh sắp tới.

    - Ân ! Tốt lắm. Phối hợp với game sắp ra mắt thì thật hoàn mỹ. Cứ như thế đi.

    Nghĩ đến quan hệ giữa các nước Đông Bắc Á, lại thêm quan hệ giữa châu Âu Kito và châu Phi Islam ... dịp lễ tới chắc sẽ nhiệt náo lắm đây. Ashlee Vance vâng dạ, rồi lại nói với giọng bất mãn :

    - Chủ tịch. Hợp đồng giữa chúng ta với Intel sắp hoàn thành. Bọn họ định tăng giá.

    Trước đây, Tập đoàn Công nghệ Mars có ký hợp đồng mua một triệu chip máy tính của Intel, do số lượng lớn nên được tính giá ưu đãi. Có lẽ phía Intel thấy đối phương có lợi nhuận quá lớn nên mới định tăng giá. Narumi thoáng cau mày, quay sang hỏi Mitchell Bard :

    - Kế hoạch Celeron tiến hành đến đâu rồi.

    - Chủ tịch. Theo báo cáo của Mark Kelton, chúng ta chỉ mới kiểm soát được 38,19% số cổ phiếu, đã là cổ đông lớn nhất, nhưng cách mục tiêu vẫn còn xa.

    - Bảo anh ta khẩn trương lên.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    江懷玉

  8. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    crazyboy74,
  9. #15
    Ngày tham gia
    Jan 2008
    Bài viết
    1,251
    Xu
    0

    Mặc định



    Chương 15 : THE STORIES OF FUJIWARA




    Arizona, Lĩnh địa Fujiwara, Thành phố La Paz, Cung điện Etou.

    Narumi trầm ngâm nhìn hai bảo vật trên bàn. Đó là hai món cổ vật cậu thu được trên đảo Tsugikage lúc trước. Cậu đã nhờ một trung tâm nghiên cứu uy tín tại Viện Đại học Stanford giúp cậu giám định niên đại của chúng. Chiếc kim bài có niên đại cách nay 31955 năm, còn chiếc kim quan có niên đại cách nay 28405 năm, đặc biệt là cả hai đều được chạm khắc tinh xảo, một kỹ thuật hiếm thấy vào thời cổ đại. Ngay cả những giáo sư ở đó cũng công nhận chúng là những cổ vật đặc biệt quý giá, thậm chí còn có người gọi chúng là ‘bảo vật của nhân loại’, không phải vì niên đại, mà là vì kỹ thuật chế tạo ra chúng.

    Trầm ngâm hồi lâu, cậu cất bảo vật đi, rồi bắt đầu công việc sáng tác. Tác phẩm mới này là một truyện ký lịch sử : “The stories of Fujiwara”, hay ‘Dougenki’ (Đằng Nguyên Ký). Cậu viết theo phong cách ‘Tam Quốc Diễn Nghĩa’, tức ‘bảy thực ba hư’, chuyện nào có tư liệu, văn hiến thì giữ nguyên, không có thì ‘sáng tác’ một cách hợp tình hợp lý. Kiểu như trong lịch sử chỉ có chép Lưu Bị ‘tam cố thảo lư’ (ba lần đến nhà tranh), nhưng La Quán Trung đã sáng tác thành một nội dung rất dài, và được mọi người chấp nhận rộng rãi. Những gì La Quán Trung tả có thật không ? Có thể có thật, mà cũng có thể không, ai mà biết ! Nhưng ít ra xem rất hợp tình hợp lý, dễ được độc giả chấp nhận.

    “Dougenki” :

    Chuyện kể rằng, từ thuở xa xưa, loài người sinh sống khắp nơi trên mặt đất, từ đồng bằng đến rừng núi, từ hoang mạc đến thảo nguyên. Nhiều thị tộc hợp thành bộ tộc, rồi nhiều bộ tộc kết hợp thành liên minh, chiếm cứ những lãnh địa rộng lớn, đoàn kết với nhau đối kháng lại các hiểm họa từ thiên nhiên luôn rình rập, đe dọa sự bình yên của nhân loại. Thuở đó, có một bộ tộc nhỏ yếu nhưng kiên cường, không chịu khuất phục trước các bộ tộc lớn hơn, vì vậy đã bị xua đuổi từ nơi này sang nơi khác, lang thang phiêu bạc khắp nơi. Đó là ‘Hyohaku-jidai’ (Phiêu bạc thì đại).

    Một ngày nọ, bọn họ đi đến một vùng núi tuyết. Núi cao trùng điệp, băng giá lạnh lẽo. Nơi đó lạnh giá vắng vẻ, điều kiện khắc nghiệt, là một vùng đất vô chủ. Thế là bọn họ định cư lại đó, gọi nơi đó là Thiên Sơn, tức là vùng núi trời ban cho họ, bắt đầu một cuộc sống gian khổ nhưng an định. Đó là ‘Heiwa-jidai’ (Bình hòa thì đại).

    Cách nay khoảng 7 vạn năm, thời kỳ băng hà bắt đầu, mặt đất gần như bị băng tuyết phủ kín, khí hậu thay đổi đột ngột, hàng loạt giống loài bị diệt vong. Chỉ có bộ tộc nhỏ yếu kia vì đã quen sống trong hoàn cảnh băng tuyết khắc nghiệt, tính cách lại kiên cường nên hầu như không bị ảnh hưởng gì nhiều. Do trời ngày càng lạnh dần, bọn họ bắt đầu nghĩ đến việc thuần dưỡng dã thú. Con vật đầu tiên bị thuần dưỡng thành công là giống Hy, trở thành linh vật dùng cho tế lễ, nên thời kỳ này được gọi là ‘Fukugi-jidai’ (Phục Hy thì đại).

    Thêm 3 vạn năm nữa, thời kỳ băng hà lên đến đỉnh điểm, thời tiết lạnh giá vô cùng, cuộc sống trong các hang động ẩm thấp rất dễ sinh ra tật bệnh. Một vị nữ thủ lĩnh của bộ tộc đã dùng cây cỏ dựng lều làm nơi trú ẩn, rải cỏ khô làm nệm để nằm, gọi là ‘oa’. Tộc dân rời khỏi hang động và vị nữ thủ lĩnh kia được tôn xưng là Nữ Oa, bắt đầu ‘Nuwa-jidai’ (Nữ Oa thì đại).

    Cách nay khoảng 3 vạn năm, khí hậu đã bớt giá lạnh, và bộ tộc đã trở nên rất đông đúc, Thiên Sơn không còn đủ chỗ sinh sống nữa, nên nhiều nhóm tộc dân bắt buộc phải chia nhau đi các nơi tìm phương sinh kế. Trong số đó có một nhóm đi về hướng đông, đến giữa đường lại chia đôi, một nhóm đi về hướng đông bắc và nhóm còn lại đi về hướng đông nam. Nhóm đi về hướng đông bắc đi đến một vùng thảo nguyên rộng lớn, đã dừng chân lại đó, bắt đầu cuộc sống du mục trên những đồng cỏ bao la. Nhóm đi về hướng đông nam gặp một dòng sông lớn, men theo dòng sông về phía hạ lưu, và gặp được một vùng đồng bằng phì nhiêu. Bọn họ định cư lại đó, đặt tên dòng sông là sông Giang, thủ lĩnh của họ tự xưng là Đế Giang và tộc danh là Giang tộc. Cuộc sống của Giang tộc gắn liền với dòng sông, phát triển nông nghiệp, nên thời kỳ này được gọi là ‘Shinnou-jidai’ (Thần Nông thì đại).

    Hơn vạn năm sau, người dân Giang tộc đã men theo dòng sông Giang đi về phía hạ lưu, rồi tỏa ra định cư khắp các miền Giang Nam, Giang Bắc. Ở Giang Nam có hai nhóm lớn là Tam Miêu ở tây nam và Bách Việt ở đông nam. Còn ở Giang Bắc có hai nhóm lớn là Cửu Lê ở đông bắc và Khương tộc ở tây bắc. Khương tộc đến định cư ở lưu vực dòng Khương thủy và tiếp xúc với một bộ tộc du mục ở phía bắc. Đó là bộ tộc Hữu Hùng, sống trên cao nguyên Hoàng thổ, bên bờ sông Hà, thủ lĩnh gọi là Hoàng Đế, và bọn họ gọi thủ lĩnh của Khương tộc là Viêm Đế. Khương tộc và Cửu Lê đều thiện chiến và thường xuyên đánh lẫn nhau. Một lần, Khương tộc bại trận, cầu viện Hoàng Đế. Liên quân Hữu Hùng – Khương đã đánh bại Cửu Lê, đuổi bọn họ chạy về hướng đông bắc. Sau đó, quân Hữu Hùng đã thừa cơ tập kích Khương tộc, thống nhất cả ba vùng, lập ra Viêm Hoàng tộc. Ở phương nam, Tam Miêu và Bách Việt vẫn thống trị lưu vực sông Giang.

    Vào khoảng năm 2092 trước Tây Lịch, Đại Vũ nhà Hạ hội chư hầu ở Đồ Sơn, tiến đánh Tam Miêu, chiếm vùng Hán thủy. Rồi 12 năm sau đó Đại Vũ lại hội chư hầu ở Cối Kê, tiến đánh Bách Việt, đuổi dân Việt ở đó chạy ra biển. Một nhóm dân Việt theo chim Lạc xuôi thuyền về phương nam, trở thành dân Lạc Việt, thủ lĩnh gọi là Hùng. Một nhóm khác bị gió bão thổi dạt đến một hòn đảo lớn ở phía đông, đã định cư lại. Bọn họ gồm chín bộ tộc, chiếm giữ chín vùng khác nhau, gọi là Kyushu (Cửu Châu). Đó là Kyushu tiên dân.

    Năm 1206 trước Tây Lịch, thủ lĩnh bộ tộc Kirishima là Sarutahiro dự đoán được thiên tai, nên đã cho tộc dân tích trữ lương thực từ trước. Đến đêm trăng tròn giữa mùa đông, các bộ tộc trong vùng thiếu lương thực, kéo nhau đến Takachiho no Mine (Cao Thiên Tuệ phong) gặp Sarutahiro cầu viện. Sarutahiro là người nhân hậu, vui vẻ đón tiếp mọi người và giúp đỡ tất cả. Các bộ tộc cảm ân, đồng tôn Sarutahiro làm vua, đúc kim bài làm tin, trên đó có chạm khắc tộc huy của các bộ tộc. Con cháu tôn Ngài làm thần, gọi là Sarutahiro Okami (Viên Điền Ngạn Đại Thần), hoặc Daimyojin (Đại Minh Thần). Năm Ngài lên ngôi được xem là năm bắt đầu ‘Koumyo-jidai’ (Quang Minh thì đại). Ngài là biểu tượng cho sức mạnh, trong sáng, đức hạnh, trí tuệ, chỉ dẫn và bảo trợ cho võ thuật. Thậm chí trước khi thờ Amaterasu (Thiên Chiếu Thần), Ngài còn từng được xem là biểu tượng của Thái Dương (‘Minh’ là ánh sáng). Ngài là vua của Kunitsukami (Địa Thượng chư thần).

    Năm Koumyo thứ 22, có một bộ tộc từ phương đông đến Takachiho no Mine xin được giúp đỡ. Bộ tộc này vốn ở miền trung đảo Honshu, tộc trưởng là Ninigi no Mikoto, trong chiến tranh với bộ tộc lân cận đã thua trận và bị đuổi chạy đến đây. Ở Kyushu, các bộ tộc có tín ngưỡng tương tự người trong Đại lục, đều tôn tổ tiên làm thần linh. Còn ở Honshu, các bộ tộc thờ hiện tượng tự nhiên, chẳng hạn như thần mặt trời, thần mặt trăng, thần gió, ..., gọi chung là Amatsukami (Thiên Thượng chư thần) và không có vua của chư thần; cũng giống như họ không có một quốc gia thống nhất. Nhờ có hoàng hậu Ame no Uzume xin giúp, Sarutahiro đã phân cho Ninigi no Mikoto một vùng đất để an định tộc dân của anh ta và phái người cháu là Ame no Koyane đến giúp đỡ. Sarutahiro còn ban cho Ninigi no Mikoto một số vũ khí thân đồng lưỡi sắt(1).

    Các thần linh gốc Honshu đại biểu cho hiện tượng tự nhiên, chẳng hạn như ba anh em thần linh : anh cả Susanoo là thần gió bão; anh thứ hai Tsukuyomi là thần mặt trăng và em út Amaterasu là nữ thần mặt trời. Các thần linh gốc Kyushu đại biểu cho một phẩm chất hay tính chất nào đó, chẳng hạn như : Sarutahiro Okami là thần của sức mạnh, trong sáng, đạo đức, trí tuệ, chỉ dẫn và bảo trợ cho võ thuật; Ame no Uzume (vợ của Sarutahiro) là thần của sắc đẹp, nghệ thuật, vui chơi, hạnh phúc và bình minh; Inari Okami là thần của nông nghiệp, công nghiệp, sự thịnh vượng và thành công, thần bảo hộ của thương gia, thợ rèn và chiến binh. Inari Okami là vị thần được tôn thờ nhiều nhất, có đến hơn 1/3 số đền thờ Shinto dành riêng để thờ phụng Ngài.

    Trải qua nhiều năm sinh sống ở Kyushu, con cháu của Ninigi no Mikoto bằng nhiều cách khác nhau đã khống chế được nhiều bộ tộc lớn. Năm Koumyo thứ 284, Kan Yamato Iwarebiko đã tổ chức hội minh, yêu cầu các bộ tộc tôn mình lên làm vua. Ba người anh ruột là Itsuse, Inahi và Kamikenu, cùng một số anh em họ khác đã dẫn quân về ủng hộ, đoạt quyền thành công. Kan Yamato Iwarebiko tự xưng là Tenno, và để giảm bớt sự bất mãn của các bộ tộc địa phương, đã phong cho Ame no Taneko (hậu duệ của Sarutahiro Okami và Ame no Uzume) làm Saishu, phụ trách tông giáo tế lễ, với lời giao ước : hai dòng họ đều là hậu duệ thần linh, đều tôn quý như nhau, cho chế mũ mão y quan chỉ khác màu, đại biểu con cháu của Amaterasu màu đỏ (mặt trời), còn đại biểu của con cháu Sarutahiro màu trắng (trong sáng, đạo đức). Ngoài ra, triều đình chỉ công nhận 8 vị Đại thần thuộc ba thần hệ chính : Sáng Thế Thần Izanagi và Izanami; Thiên Thượng chư thần Amaterasu, Susanoo và Tsukuyomi; Địa Thượng chư thần Sarutahiro, Ame no Uzume và Inari. Các vị thần khác đều là tiểu thần. Đặc biệt, sau này Ame no Koyane (ông của Ame no Taneko) cũng được phong thần, hiệu xưng Kasuga Daimyojin (Xuân Nhật Đại Minh Thần).

    Tuy đã lên làm vua ở Kirishima, nhưng nhiều bộ tộc địa phương vẫn chưa phục. Tenno Kan Yamato Iwarebiko quyết định đông chinh, rồi sau đó sẽ dời đô về cố hương Yamato. Anh trai của Tenno là Itsuse no Mikoto được cử thống lĩnh đoàn quân tiên phong. Họ đi về phía đông, qua eo biển Seto với sự giúp đỡ của Sao Netsuhiko, thủ lĩnh bộ tộc địa phương. Trải qua hơn nửa năm lênh đênh trên biển, họ đến Naniwa (ngày nay là Osaka), và phải đối mặt với Naga Sunehiko, một thủ lĩnh bộ tộc địa phương khác. Một trận giao tranh dữ dội đã diễn ra, đoàn quân tiên phong thảm bại, thống soái Itsuse trận vong.

    Đoàn quân viễn chinh của Tenno đứng trước tình thế vô cùng nguy hiểm.

    Đứng trước tình thế khó khăn đó, Tenno nhận ra rằng đoàn quân tiên phong bị đánh bại là do đã đánh về phía đông, chống lại thần mặt trời, vì vậy ông đã quyết định đổ bộ xuống miền đông bán đảo Kii, rồi từ đó đánh về phía tây. Trên đường đi, đoàn thuyền gặp bão, hai người anh còn lại của Tenno là Inahi no Mikoto và Kamikenu no Mikoto đều hy sinh, chỉ còn lại Tenno và con trai là Tagishimimi no Mikoto dẫn tàn quân tiếp tục hành trình. Họ đến được Kumano, hành quân về hướng tây, rồi do giết hại cư dân bản địa nên bị dân chúng hạ độc, toàn quân trúng độc tiến thối lưỡng nan, sau đó nhờ Takemi Kazuchi giúp đỡ mới có thể tiếp tục tiến quân. Họa vô đơn chí, họ lại tiếp tục bị lạc đường, rồi nhờ có quạ thần ba chân Yatagarasu dẫn đường, họ mới đến được cố hương Yamato. Ở đó, họ lại giao chiến một lần nữa với Naga Sunehiko và giành được chiến thắng.

    Ở Yamato còn có Nigihayahi no Mikoto, người cũng tự xưng là hậu duệ của thần Takamagahara, được anh vợ là Naga Sunehiko hậu thuẫn. Tuy nhiên, khi hai vị ‘hậu duệ thần linh’ gặp nhau, Nigihayahi đã chấp nhận địa vị của Tenno, và giúp lập mưu sát tử Naga Sunehiko. Tuy nhiên, các bộ tộc bản địa cũng không phục. Phải trải qua sáu năm đông chinh tây thảo, triều đình Yamato mới chính thức được kiến lập. Dù vậy, tình hình vẫn bất ổn, nội ưu ngoại hoạn, chiến tranh xảy ra thường xuyên. Lãnh thổ trực tiếp kiểm soát của triều đình Yamato rất nhỏ.

    Trong khi đó ở Kyushu, Ame no Taneko thành lập dòng họ Nakatomi, tiếp tục cai trị ở đó, không hề có ý định đến Yamato. Vì trong điều kiện hiện tại, đi từ Kyushu đến Yamato mất đến nửa năm, nên song phương gần như cách biệt với nhau, ít có sự giao thiệp. Thậm chí, sự giao thiệp giữa Kyushu với bán đảo Triều Tiên còn nhiều hơn với Yamato. Một số ngôi làng theo kiểu Triều Tiên xuất hiện ở miền tây bắc, Kyushu bắt đầu tiếp nhận di dân Triều Tiên và nền văn hóa Mumun. Sự hòa hợp văn hóa đã giúp Kyushu phát triển hơn.

    Kyushu tiên dân là di dân Bách Việt, có kỹ thuật về rèn và thuyền đặc biệt nổi bật. Những thanh kiếm do họ rèn, mãi đến tận thế kỷ 20 vẫn được thế giới công nhận là bảo kiếm (trong khi ‘Việt kiếm’ ở Trung Hoa Đại lục đã thất truyền từ rất lâu, những bảo kiếm truyền thuyết ‘tước thiết như nê’ đều là sản phẩm của Bách Việt). Thuyền cũng là đặc trường của Kyushu. Mãi đến tận thế kỷ 20, hải quân Nhật Bản đa phần đều có gốc Kyushu.

    Năm Koumyo thứ 387, kỹ thuật luyện sắt ở Kyushu có bước đột phá vượt bậc, giải quyết được vấn đề sản lượng. Những thanh kiếm dài sắc bén được trang bị cho các hộ vệ của gia đình quý tộc. Những kiếm sĩ đó dần dần phát triển thành những chiến binh chuyên nghiệp, không tham gia sản xuất, chỉ phụ trách chiến đấu, hình thành một tầng lớp mới ở giữa quý tộc và bình dân – bushi (vũ sĩ). Trong khi đó, ở Honshu vẫn còn trong thời kỳ toàn dân giai binh, cũng có nghĩa là quân đội toàn dân binh, đông đảo nhưng ô hợp.

    Những năm sau đó, miền bắc Kyushu trở thành đầu mối giao lưu thương mại với Triều Tiên và miền đồng bằng Trường Giang, dần dần phát triển thịnh vượng. Văn minh Kyushu phát triển sớm hơn Honshu hơn nửa thế kỷ (thời kỳ văn hóa Yayoi ở Honshu bắt đầu vào khoảng năm 300 trước Tây lịch, còn ở Kyushu vào khoảng năm 800 – 900 trước Tây lịch). Gia tộc Nakatomi có nhiều tiền, nên cho xây nhiều lâu đài, pháo đài, phát triển quân đội, trở nên cường thịnh.

    Năm Koumyo thứ 1400, một nhóm di dân của nước Tần từ Đại lục đến được Kyushu qua đường Triều Tiên. Họ được ban cho một khu định cư, hình thành gia tộc Hata (âm Hán là Tần), thủ lĩnh là Uzumasa no Kimi Sukune.

    Năm Koumyo thứ 1451, triều đình Yamato đã đánh bại thế lực cuối cùng của người Emishi ra khỏi miền đông đảo Honshu. Tenno Jingu trở thành vị nữ Thiên Hoàng đầu tiên và là người có quyền uy nhất của triều đình Yamato từ trước đến giờ. Tuy nhiên, bên trong triều đình Yamato vẫn còn tồn tại nhiều lĩnh địa tự trị hùng mạnh như Kibi (nay là Okayama), Izumo (nay là Shimane), Koshi (nay là Fukui và Niigata), Kenu (đồng bằng Kanto). Các vị lãnh chúa địa phương này chỉ phải nộp cống cho triều đình và thần phục trên danh nghĩa. Bọn họ giao chiến thường xuyên, đôi khi kinh đô cũng bị phá hủy vì chiến tranh. Các gia tộc hùng mạnh khác thường xuyên giữ các vị trí quan trọng trong triều đình là Soga, Katsuraki, Heguri, Koze, Otomo và Mononobe.

    Năm Koumyo thứ 1488, một vị vương tử đến từ Baekje (Bách Tế) đã dần đầu đoàn di dân đông đảo cùng kho báu khổng lồ di cư đến Kyushu. Ông ta lấy tên là Yuzuki no Kimi, cũng tự xưng là hậu duệ của Tần Thủy Hoàng, và gia tộc mới này cũng lấy tên là Hata.

    Trong giai đoạn từ năm Koumyo thứ 1561 đến năm Koumyo thứ 1850, đã có hàng trăm gia tộc được hình thành từ di dân : 163 gia tộc đến từ Trung Quốc, 104 gia tộc đến từ Baekje (Bách Tế), 41 gia tộc đến từ Goguryeo (Cao Câu Ly), 6 gia tộc đến từ Silla (Tân La) và 3 gia tộc đến từ Gaya (Già Da). Nhờ sự tiếp thu di dân và các nền văn hóa nước ngoài, Kyushu càng phát triển hùng mạnh và thịnh vượng, đặt nền tảng cho việc khống chế các con đường giao thương quốc tế của Nhật Bản trong cả nghìn năm sau đó.

    Tại Yamato, kể từ triều đại của nữ Tenno Suiko, các gia tộc trong triều đình ngày càng tranh quyền đoạt lợi, đánh giết lẫn nhau, thậm chí chuyện ám sát đối thủ đã không còn hiếm nữa. Đỉnh điểm của sự việc là cái chết của Hoàng tử Yamashiro. Khi Tenno Suiko qua đời, có hai vị Hoàng tử được quyền kế vị là Yamashiro và Tamura. Gia chủ của gia tộc Soga là Soga no Emishi đã phái con trai là Soga no Iruka đem quân tập kích nhà của Hoàng tử Yamashiro. Kết quả cả nhà Hoàng tử không ai sống sót. Hoàng tử Tamura lên ngôi, trở thành Tenno Jomei và mọi quyền lực trong triều đình đều rơi vào tay Soga no Emishi.

    Tenno Jomei lấy cháu gái của mình là công chúa Takara làm hoàng hậu. Sau khi Tenno Jomei qua đời, Soga no Emishi đã đưa hoàng hậu Takara lên kế vị, trở thành Tenno Kogyoku. Trong suốt thời gian trị vì của hai vị Tenno này, Tenno chỉ ngồi làm vì, gia tộc Soga ra sức thâu tóm mọi quyền lực, giết hại những người không cùng phe cánh, làm nhiều điều bạo ngược, gây nhiều công phẫn.

    Năm Koumyo thứ 1849, Takachiho no Mine lại đón tiếp một sứ giả đến từ Yamato. Thái tử Naka no Oe (con trưởng của Tenno Jomei và Kogyoku) cảm thấy gia tộc Soga quá lộng quyền, kinh đô Fujiwara quá bất ổn, sinh mạng các thành viên Hoàng tộc có thể gặp nguy hiểm bất cứ lúc nào, nhất là khi Soga no Iruka lên nắm quyền, nên đã phái sứ giả đến Takachiho no Mine cầu viện. Soga no Iruka đã từng dám sát hại hoàng tử Yamashiro thì còn có gì mà không dám làm.

    Năm Koumyo thứ 1850, Nakatomi no Kamatari suất lĩnh 12 kannushi (thần chủ), 100 miko (vu nữ) và 2.000 bushi (vũ sĩ) tiến về Fujiwara, kinh đô của triều đình Yamato. Đoàn chiến thuyền của Kyushu chỉ mất hơn nửa tháng là đến được Naniwa. Các kanushi và miko làm lễ tế Daimyojin, rồi đoàn quân đổ bộ lên bờ. Soga no Iruka tập hợp đại quân hơn 1 vạn Ashigaru (túc khinh) ứng chiến. Song phương dàn trận bên ngoài kinh đô.

    Quân đội Nakatomi có 1.500 kenbushi (kiếm vũ sĩ), 300 kyubushi (cung vũ sĩ) và 200 tatebushi (thuẫn vũ sĩ) sử dụng thiết kiếm, trường cung và đại thuẫn (khiên gỗ lớn). Trong khi quân đội Soga đông hơn, nhưng chỉ là Ashiraru sử dụng trúc thương (cây tre vót nhọn đầu) và một số bushi sử dụng mộc thương (đầu thương bằng sắt, cán gỗ). Song phương vừa giao chiến là quân Soga đã lập tức bại trận. Thiết kiếm của quân Nakatomi không đến nỗi ‘chém sắt như chém bùn’, nhưng hoàn toàn ‘chém gỗ như chém chuối’. Quân Nakatomi đuổi tràn vào lĩnh địa gia tộc Soga mà không gặp phải sự kháng cự nào đáng kể. Soga no Iruka tử trận, Soga no Emishi đốt lâu đài tự thiêu, dòng chính của gia tộc Soga tuyệt tự.

    Tại kinh đô Fujiwara, thái tử Naka no Oe yêu cầu Tenno Kogyoku thoái vị, nhường ngôi cho em trai bà là hoàng tử Karu, tức Tenno Koutoku. Naka no Oe nắm quyền triều chính. Nakatomi no Kamatari được phong làm Naidaijin (Nội đại thần), vị trí thứ tư trong triều đình, sau Daijodaijin (Thái chính đại thần) Naka no Oe, Sadaijin (Tả đại thần) Abe no Kurahashi Maro và Udaijin (Hữu đại thần) Soga no Kura no Yamada no Ishikawa no Maro.

    Sau khi tình hình ổn định, quân Nakatomi rút khỏi kinh đô, đến đóng ở Naniwa. Nhờ có cảng biển, nơi đó dần dần phát triển thành một thành thị phồn hoa. Tenno Koutoku quyết định dời đô đến đó, bỏ lại cựu đô Fujiwara hoang tàn sau nhiều năm loạn lạc.

    Năm Koumyo thứ 1858, để giảm bớt ảnh hưởng của gia tộc Nakatomi đối với triều đình, Naka no Oe đề nghị dời đô trở lại Fujiwara, nhưng bị Tenno từ chối. Naka no Oe liền tự mình mang triều đình đến Fujiwara, bỏ Tenno ở lại Naniwa. Vì hành động này mà uy tín của Naka no Oe bị giảm sút nghiêm trọng. Năm sau, Tenno Koutoku qua đời, Naka no Oe không đủ uy tín để lên ngôi, nên cho mẹ là cựu Tenno Koryoku lên ngôi lần nữa với tôn hiệu mới là Tenno Saimei. Năm Koumyo thứ 1866, Tenno Saimei qua đời và Naka no Oe lên ngôi, trở thành Tenno Tenji.

    Thời kỳ này, thế lực của gia tộc Nakatomi ở Yamato phát triển mạnh mẽ. Tuy chức vụ vẫn là Naidaijin, nhưng đến năm Koumyo thứ 1856, chức vụ Udaijin bị bỏ trống, và đến năm Koumyo thứ 1863, chức vụ Sadaijin cũng bị bỏ trống. Khi Tenno Tenji lên ngôi, thực tế thì Nakatomi no Kamatari đã trở thành người có chức vụ cao nhất trong triều đình.

    Năm Koumyo thứ 1873, Tenno Tenji đã ban vùng đất Fujiwara cho Nakatomi no Kamatari làm lĩnh địa. Nakatomi no Kamatari đổi tên thành Fujiwara no Kamatari, gia tộc Fujiwara thành lập. Kể từ lúc này, Fujiwara vừa là kinh đô của triều đình Yamato, mà cũng vừa là lĩnh địa của gia tộc Fujiwara. Sang năm sau Fujiwara no Kamatari qua đời, con trai mới 10 tuổi là Fujiwara no Fuhito kế vị gia chủ. Nhân đó, Tenno Tenji bãi bỏ các Daijokan (Thái chính quan). Và với lý do còn quá nhỏ, Fujiwara no Fuhito không giữ chức vụ gì trong triều đình. Gia tộc Fujiwara lặng lẽ củng cố ảnh hưởng ở Yamato, tạm thời không tham gia triều chính.

    Năm Koumyo thứ 1876, Tenno Tenji đột nhiên phục hồi chế độ Daijokan, bổ nhiệm con trai là hoàng tử Otomo làm Daijodaijin. Tình hình kinh đô dần rơi vào bất ổn.

    Nguyên bản, Tenno Tenji đã chỉ định em trai là hoàng tử Ouama làm người thừa kế, vì các con của Tenno Tenji đều có mẹ xuất thân bình dân, không phù hợp với lễ nghi đương thời. Ouama có đầy đủ những phẩm chất tốt của một quân vương và được các gia tộc lớn ủng hộ. Sau đó, Tenno Tenji lại muốn truyền ngôi cho con trai của mình, liền giả vờ bị ốm, cho gọi riêng Ouama vào hỏi có muốn lên làm vua không ? Nếu như Ouama nói có thì sẽ bị giết, nhưng anh ta đã đủ thông minh để trả lời không và nói muốn đi tu, nên đã được thả ra. Hôm sau, Ouama đi xuống Naniwa, vào xuất gia ở một ngôi chùa tại Yoshino, ngoại ô Naniwa. Tenno Tenji lập con trai là hoàng tử Otomo làm người thừa kế và phong cho làm Daijodaijin. Các gia tộc lớn trong triều đình đều tỏ ra bất mãn với sự kiện này. Gia tộc Fujiwara đã ra một quyết định có ảnh hưởng trọng đại : rút quân khỏi kinh đô đưa về bảo vệ các trang ấp, và cấm quân đội bên ngoài đặt chân đến Fujiwara. Tại kinh đô chỉ còn lại các bushi hộ vệ của các gia tộc. Kinh đô bỏ ngỏ. Những kẻ dã tâm bắt đầu rục rịch hành động.

    Năm Koumyo thứ 1877, Tenno Tenji qua đời, 14 người con của ông tranh chấp quyền thừa kế. Jinshin no Ran (Nhâm Thân chi loạn) bùng nổ.

    Hoàng tử Otomo được bốn vị cận thần là Soga no Akae, Soga no Hatayasu, Kose no Omihito, Ki no Ushi đưa lên ngôi, trở thành Tenno Koubun. Các vị hoàng tử khác tập hợp các bushi dưới quyền đánh nhau tranh ngôi. Kinh đô rơi vào hỗn loạn.

    Các gia tộc ủng hộ các vị hoàng tử đã khẩn cấp điều quân về kinh đô tham chiến, nhưng đã bị chặn lại bên ngoài Fujiwara. Theo lệnh của gia tộc Fujiwara, chỉ có các bushi mới được vào kinh đô lúc này. Vì thế, quân các bên đã đi vòng bên ngoài Fujiwara. Một đạo từ Yamato qua Iga rồi đến Mino, đụng độ với quân từ Ise lên. Một cuộc chiến với quy mô gần ba vạn người nổ ra bên bờ sông Inugami, hoàng tử Yamabe và Soga no Hatayasu tử trận.

    Ở Yoshino, hoàng tử Ouama nay là một nhà sư, đã tập hợp cận vệ và các sư trong chùa được 10 người, lại nhận được vũ khí viện trợ của gia tộc Fujiwara, liền quyết định suất lĩnh ‘thập anh hùng’ tiến về kinh đô tranh ngôi. Tháng bảy, ‘thập anh hùng’ tiến vào Fujiwara. Bọn họ tiến hành các cuộc tấn công du kích, chiến đấu dũng cảm và kiên nhẫn, lần lượt đánh bại các vị hoàng tử khác. Khi đến bên ngoài hoàng cung, quân của Ouama đã tăng lên đến 62 người.

    Tenno Koubun có 24 bushi cố thủ bên trong hoàng cung. Cuộc bao vây kéo dài trong một tháng. Quân cố thủ chiến đấu trong tuyệt vọng, và phải phá vây rút chạy sau khi Ouama ra lệnh phóng hóa đốt hoàng cung. Tenno Koubun chạy về đến núi Nagara thì bị bao vây, và đã treo cổ tự sát trên núi, chỉ ở ngôi có tám tháng. Ouama giành được thắng lợi cuối cùng, trở thành Tenno Temmu.

    Năm Koumyo thứ 1893, Fujiwara no Fuhito tiếp nhận chức vụ Naidaijin, chức vụ cao nhất trong triều đình lúc bấy giờ. Năm Koumyo thứ 1902, hoàng tử Karu (con trai thứ của hoàng tử Kusakabe) mới 14 tuổi đã được Fujiwara no Fuhito đưa lên ngôi, trở thành Tenno Mommu. Ông lấy con gái của Fujiwara no Fuhito là Miyako, sinh ra hoàng tử Obito, sau này là Tenno Shoumu. Năm Koumyo thứ 1905, Tenno Mommu ra lệnh chỉ có con cháu của Fujiwara no Fuhito mới được lấy họ Fujiwara và giữ các chức vụ trong Daijokan. Hoàng tộc và gia tộc Fujiwara thông hôn. Tenno sẽ lấy con gái gia tộc Fujiwara làm hoàng hậu, và gia chủ gia tộc Fujiwara lấy công chúa Hoàng tộc làm gia chủ phu nhân. Kể từ đây, gia tộc Fujiwara cũng bắt đầu thời kỳ hoàng kim của mình. Khi qua đời, Fujiwara no Fuhito đã được truy phong là Daijodaijin (Thái chính đại thần), Bunchu-ko (Văn Trung Công) và Tankai-ko (Đạm Hải Công).

    Năm Koumyo thứ 1912, Tenno Mommu qua đời, thái hậu Abehime được tôn lên làm nữ Tenno Genmei. Ba năm sau, triều đình dời đô về Naniwa, đổi tên thành Nara-kyo (Nại Lương kinh), bắt đầu Nara-jidai (Nại Lương thì đại).


    __________________________________

    (1) Kỹ thuật luyện sắt của người Bách Việt đã xuất hiện từ thế kỷ 15 trước Tây lịch, nhưng sản lượng không cao, nên đã phát triển thành vũ khí thân đồng lưỡi sắt. Từ cổ vật ‘thiết nhận thanh đồng việt’ (búa đồng lưỡi sắt) ở Trung Quốc, các nhà khoa học đã phát hiện người xưa luyệt sắt từ aerosiderit.

    TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile

    江懷玉

    ---QC---


  10. Bài viết được 1 thành viên cảm ơn::   [Hiện ra]
    crazyboy74,
Trang 3 của 15 Đầu tiênĐầu tiên 1234513 ... CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

DMCA.com Protection Status