Chương 28 : DIỆN MẠO MỚI CỦA VIỄN ĐÔNG
Chiến tranh ở Nam Mỹ, quân Spain có ưu thế hơn, nhưng ưu thế đó cũng có hạn, không đủ khả năng khuất phục các thế lực chống đối. Chiến tranh vì thế đã kéo dài rất lâu, gây nhiều tổn thất cho cả song phương.
Sai khi phá hủy thành phố cảng Valparaiso, gây cho người Chile nhiều thiệt hại, đến ngày 2/5, Hạm đội Spain lại đến tấn công thành phố cảng Callao ở Peru. Cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng dù quá trình rất tệ hại. Hạm đội Spain có 7 chiến hạm với 252 khẩu pháo. Các pháo đài trên bờ có 90 khẩu pháo. Sau nhiều giờ pháo kích, Hạm đội Spain rút lui mà không gây ra thiệt hại đáng kể nào đối với thành phố. Các pháo đài trên bờ cũng im hơi lặng tiếng, chỉ trừ ba khẩu pháo có khai hỏa, làm bị thương Soái hạm của Đô đốc Mendez Núñez.
Đến tháng 8/1866, thấy không thể làm gì khác ngoài việc gây ra tổn thất kinh tế cho đối phương, Đô đốc Mendez Núñez quyết định quay về Mexico để sửa chữa chiến hạm và cho binh lính nghỉ ngơi. Chiến tranh Chincha chấm dứt. Hành động phiêu lưu quân sự tốn kém của Hạm đội Spain hoàn toàn thất bại.
Ở Đế quốc Mexico, Hoàng đế Joseph-Lucien de Mexico qua đời chỉ sau một năm lên ngôi, hưởng thọ 41 tuổi. Em trai là Lucien Louis Joseph Bonaparte lên kế vị. Đế quốc dần xuống dốc.
Từ đầu năm 1865 trở về trước, Liên quân France - Mexico giành được uy thế tuyệt đối trên chiến trường, quân đội Cộng hòa Mexico chỉ có thể co cụm phòng thủ ở lưu vực Rio Grande. Cách đó không xa là địa bàn của người Roma, quân France không dám tiến hành các hoạt động quân sự quy mô lớn. Ngày 9/2/1865, thủy quân lục chiến France chiếm Tampico. Ngày 29/3, quân France chiếm giữ Matamoros, trực tiếp uy hiếp phòng tuyến Rio Grande. Tuy nhiên, đó cũng là chiến thắng quan trọng cuối cùng của quân France.
Ngày 11/4, một đội quân Lê dương France gồm 289 người được phái đến Tacámbaro để trấn áp quân nổi dậy ở đó. Bọn họ bị phục kích bởi một lực lượng quân đội Cộng hòa Mexico đông đến 3.500 người. Quân Lê dương chống cự trong tuyệt vọng suốt năm giờ liền, và khi nghe nói viện quân phải mất bốn ngày nữa mới đến được, bọn họ đã hạ vũ khí đầu hàng khi chịu tổn thất hơn 1/3 nhân số. Phía quân Cộng hòa Mexico có hơn 300 người chết. Quân đội Cộng hòa Mexico xuất hiện cách Mexico City chỉ khoảng 100km đã gây chấn động lớn trong triều đình Đế quốc Mexico.
Tháng 5, quân đội Cộng hòa Mexico giành được nhiều cứ điểm quan trọng ở phía nam sông Rio Grande. Tháng 7, quân Lê dương France lại bị đánh bại một lần nữa ở Tacámbaro. Ngày 3/10, Hoàng đế Lucien Louis de Mexico ban hành ‘Sắc lệnh Đen’ cho phép xử tử bất kỳ người Mexico nào chống lại Hoàng đế và triều đình Đế quốc Mexico, đã gây phẫn nộ trong dân chúng. Không chỉ ở miền bắc, nhiều bang miền nam cũng xuất hiện các nhóm nổi dậy ủng hộ chính phủ Cộng hòa.
‘Sắc lệnh Đen’ không giúp tình hình trở nên ổn định mà càng tạo ra nhiều cuộc bạo loạn và nổi dậy hơn.
Giữa lúc quân đội France đang lún sâu vào vũng lầy chiến tranh ở Viễn Đông và Mexico. Quân đội Spain đang giao chiến với Liên quân Chile – Peru – Bolivia – Ecuador ở Nam Mỹ. Quân đội Russia đang dưỡng thương sau cuộc chiến tranh Krym. Quân đội Prussia vừa kết thúc chiến tranh với Danmark và đang hăm hở chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới trong tương lai gần. Quân đội Oesterreich đang trấn áp người Hungary bạo loạn để hoàn thành trung ương tập quyền. Thì người Britain và Roma lại đang phấn khởi chuẩn bị cho một cuộc ‘hôn lễ thế kỷ’ giữa Thái tử Edward và Công chúa Helena dự định sẽ được tổ chức vào cuối năm 1865. Quan hệ thân thiết giữa Hoàng đế Adalbert và Nữ hoàng Victoria sẽ đảm bảo mối quan hệ thân thiện giữa Britain và Roma trong suốt thế kỷ 19. Mọi người hy vọng cuộc hôn nhân sắp tới sẽ tiếp tục đảm bảo cho mối quan hệ tốt đẹp đó trong nửa đầu thế kỷ 20. Đây là kỳ vọng của không chỉ nhân dân hai nước mà còn của nhân dân các nước đồng minh, nhân dân các bang quốc German, nhân dân ‘yêu chuộng hòa bình’ thế giới.
Để chuẩn bị của hồi môn cho Công chúa Helena, Hoàng đế Adalbert ra lệnh mở ‘Chiến dịch Viễn Đông’. Triều đình Roma đã chuẩn bị cho chiến dịch này từ nhiều năm trước, như việc thiết lập các tỉnh Viễn Đông, chính sách phân biệt Nam dân và Hán dân, tổ chức lực lượng dân binh tự vệ địa phương, ‘chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình kiểu Bayern’, khôi phục các thánh địa Phật giáo, tổ chức các chuyến ‘hành hương về đất Phật’, ... Hiện tại, người dân Viễn Đông đã gần như nhận đồng người Roma, không phản kháng kịch liệt như đối với các nước phương tây khác.
Viễn Đông. Lưu vực Trường Giang.
Từ trước năm 1860, cán cân lực lượng giữa Thái Bình Thiên Quốc và Đại Thanh gần như tương đương, còn có phần hơi nghiêng về phía Thái Bình Thiên Quốc. Nhưng đến năm 1860, xung đột giữa Dương Tú Thanh và Hồng Tú Toàn ngày càng nghiêm trọng, ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai phe phái lớn trong nội bộ Thái Bình Thiên Quốc.
Mặc dù bị cộng đồng Cơ Đốc giáo trên thế giới xem là dị đoan, nhưng Hồng Tú Toàn vẫn tin rằng tư tưởng của anh ta là chính xác. Dương Tú Thanh cho rằng đạo đức Nho giáo là bản chất cơ bản của người Hán, nguyên lý của nó không trái với tinh thần Thái Bình Thiên Quốc và hình ảnh của con rồng không phải là phạm thánh. Tuy nhiên, Hồng Tú Toàn bác bỏ khái niệm này, nhất quyết phải diệt trừ Nho giáo, vì nó là tà ma ngoại đạo. Thực chất là Dương Tú Thanh chủ trương tự do tôn giáo để đoàn kết mọi lực lượng người Hán nhằm triệt để đánh đuổi người Mãn ra khỏi Trung Nguyên; nhưng Hồng Tú Toàn đã không chấp nhận. Một số người cho rằng Hồng Tú Toàn căm thù Nho giáo bởi vì anh ta thi hoài không đậu. Tin này đến tai Hồng Tú Toàn khiến anh ta lôi đình thịnh nộ, càng căm thù Nho giáo hơn nữa và mưu đồ diệt trừ Dương Tú Thanh, kẻ mà anh ta xem là ‘tay sai của tà ma ngoại đạo’.
Tiết Thanh Minh năm 1860, nhân lúc Dương Tú Thanh đi du xuân ở ngoại thành, Hồng Tú Toàn đã phái một đám thích khách ám sát. Dương Tú Thanh không chết, nhưng cũng bị thương rất nặng, được đám hộ vệ thân tín đưa về Trấn Giang hội hợp cùng Vi Xương Huy. Kế hoạch không thành, Hồng Tú Toàn đã giết sạch gia đình và hơn hai vạn thủ hạ thân tín của Dương Tú Thanh để trút giận.
Sau khi khôi phục, Dương Tú Thanh truyền hịch cho bọn Phùng Vân Sơn và Thạch Đạt Khai, kể tội anh em họ Hồng, rồi thống lĩnh đại quân kéo về bao vây Thiên Kinh. Lực lượng của ‘Hồng phái’ và ‘Dương phái’ gần như tương đương, nhưng tài năng của Hồng Tú Toàn thì ..., lại thêm sự hỗn loạn do các cuộc bắt bớ, tàn sát gây ra, khiến lòng người dần nghiêng về phía họ Dương.
Tháng 10/1860, Thiên Kinh rơi vào tay Dương Tú Thanh. Y giữ lời hứa, chỉ tru sát những kẻ thân tín của Hồng Tú Toàn, số người bị giết chỉ hơn trăm người, so với các cuộc tàn sát hàng vạn người dưới thời Hồng Tú Toàn thì ‘thật không đáng kể’, nên lòng người cũng dần yên ổn trở lại. Kể từ đây, Thái Bình Thiên Quốc bị chia làm hai : Dương Tú Thanh ở Thiên Kinh và Phùng Vân Sơn ở Vũ Hán. Vi Xương Huy thủ Trấn Giang, ủng hộ Dương Tú Thanh. Thạch Đạt Khai ở An Huy ủng hộ Phùng Vân Sơn.
Bên phía quân Thanh cũng có hai bộ phận độc lập với nhau : quân triều đình ở phía bắc và quân Hồ Nam (Tương quân) ở phía nam. Triều đình Mãn Thanh tập trung lực lượng định tái chiếm Hà Nam, giao Thiên Kinh cho Tương quân giải quyết. Trong mắt của các vương công Đại Thanh, Thiên Kinh khó đối phó hơn vì bắc quân phải vượt Trường Giang, nên phái bọn Tằng Quốc Phiên phụ trách.
Mùa xuân năm 1861, Tằng Quốc Phiên đích thân dẫn 8 vạn quân chủ lực của Tương quân, chia làm bốn đường tấn công An Khánh, bức bình phong che chở mặt tây của Thiên Kinh. Thạch Đạt Khai chỉ huy 20 vạn Thái Bình quân ‘tinh nhuệ’ chống cự. Sau hơn một tháng giao tranh khốc liệt, song phương đều thiệt hại nặng nề. Thái Bình quân người đông nên chẳng hề gì. Còn Tương quân không gánh nổi tổn thất thảm trọng, lòng quân nao núng, Tằng Quốc Phiên đành phải dẫn quân rút lui.
Thấy quân An Khánh đông đảo, Thạch Đạt Khai lại là một tướng tài, Tằng Quốc Phiên đành tránh ngả đường An Khánh, cho quân theo đường Tương – Cống tiến về phía đông. Mùa thu, Tằng Quốc Phiên phái em trai là Tằng Quốc Thuyên thống lĩnh 7 vạn Tương quân theo đường Tô - Cống tiến đánh Thiên Kinh. Dương Tú Thanh đánh không lại, phải rút vào thành cố thủ và cầu viện An Khánh. Thạch Đạt Khai dẫn quân đánh thẳng xuống Hồ Nam, bao vây Bảo Khánh. Tương quân hay tin, toàn quân sợ hãi. Tằng Quốc Thuyên chỉ đành dẫn quân quay về cứu viện. Song phương đánh nhau một trận lớn ở ngoài thành Bảo Khánh, đều chịu nhiều tổn thất, rồi Thạch Đạt Khai rút quân về An Khánh.
Tương quân tuy thiện chiến, nhưng quân số không đông, đánh chỗ này thì mất chỗ kia, chỉ còn cách tìm viện quân. Mùa xuân năm 1862, Tằng Quốc Phiên lại phái Tằng Quốc Thuyên phòng thủ mặt An Khánh, rồi đích thân dẫn 5 vạn Tương quân tiến về phía đông, hợp quân với Giang Nam Đại doanh ở biên giới Tô Chiết. Rút kinh nghiệm về những lần trước, Tằng Quốc Phiên triệu tập dân đoàn các nơi, hợp quân được 22 vạn, tiến về bao vây Thiên Kinh. Tằng Quốc Phiên còn viết thư cho Tuần phủ Chiết Giang Tả Tông Đường, nhờ phái Chiết quân uy hiếp Trấn Giang, nhằm cô lập Thiên Kinh.
Như vậy, Phùng Vân Sơn phải chống cự với sự phản công của Thanh quân ở Hà Nam; Thạch Đạt Khai giao chiến với Tằng Quốc Thuyên ở An Khánh; Vi Xương Huy bị Chiết quân uy hiếp ở Trấn Giang; dù thắng nhiều thua ít, nhưng bị cầm chân, không thể cứu viện Thiên Kinh được. Dương Tú Thanh phải độc lực chống lại đạo quân chủ lực của Tằng Quốc Phiên.
Tháng 5/1865, sau hơn ba năm công thành chiến, Thiên Kinh thất thủ. Tằng Quốc Phiên cho quân tự do cướp phá ba ngày xem như khao thưởng. Khắp thành lửa cháy, máu rơi đầy đất, thây chất đầy đường. Nhiều người bị thương không chết, nhưng với điều kiện y tế ở đó, thì vài ngày sau cũng chết. Dân trong thành mười phần chỉ còn được một hai. Cảnh tượng khủng bố trên đã được các ký giả đi trên Khinh khí cầu chụp lại, thông tin trung thực đến độc giả châu Âu (dù chỉ là hình ảnh đen trắng), đã khiến mọi người sững sờ, kinh hoàng vì sự tàn nhẫn của người Hán. “Dã man”, “quá dã man”, “cực độ dã man”, “vô cùng dã man”, ... là chủ đề chính của dư luận châu Âu lúc bấy giờ. Nửa tháng sau, Trấn Giang cũng bị ‘đồ thành’. Danh tiếng của Tương quân ‘lẫy lừng’ khắp năm châu bốn biển.
Giữa lúc đó, triều đình Roma ra lệnh phát động ‘Chiến dịch Viễn Đông’.
Mùa thu năm 1865, quân đội Roma từ bán đảo Liêu Đông vượt biển tiến sang bán đảo Sơn Đông (chỉ cách nhau một eo biển hẹp). Cũng như mọi khi, quân Thanh phòng thủ ở các nơi, kể cả trong các thành trì, đều nhanh chóng ‘tùy nghi di tản’.
Sơn Đông có nghĩa là vùng đất ở phía đông Thái Hành Sơn (Sơn Tây ở phía tây), gọi tắt là ‘Lỗ’ (theo tên nước Lỗ thời cổ). Lấy Thái Sơn làm chuẩn, thì từ Thái Sơn về phía tây là vùng đồng bằng phì nhiêu, một bộ phận của đồng bằng Hoa Bắc, đất canh tác lên đến hơn 90 triệu mẫu (mẫu Tàu); ở phía đông là vùng đồi núi thuộc bán đảo Sơn Đông. Vì thế, Lỗ Tây trù phú, dân cư đông đúc. Lỗ Đông nhiều đồi núi, bờ biển trải dài (Mãn Thanh vẫn còn duy trì Cấm hải lệnh), nên dân cư thưa thớt. Triều đình Mãn Thanh chia Sơn Đông thành ba đạo : Tế Đông Thái Vũ Lâm đạo, Đăng Lai Thanh đạo và Duyệt Nghi Tào Tế đạo. Trong đó vùng bán đảo Sơn Đông thuộc Đăng Lai Thanh đạo. Sơn Đông xưa là vùng đông dân trù phú, nhưng sau khi bị Thái Bình quân mấy lần họa hại thì bách nghiệp suy tàn, dân số chỉ còn vài phần so với trước đây.
Từ Sơn Đông, quân Roma không tiến về phía bắc uy hiếp Bắc Kinh mà tràn về phía nam, chiếm Từ Châu, Hoài An, Dương Châu, rồi nhanh chóng kiểm soát toàn vùng Tô Bắc. Đại quân tập kết bên bờ bắc Trường Giang. Các tướng lĩnh Đại Thanh thấy vậy đều đua nhau rút quân về phía Trung Nguyên, tạo cơ hội cho quân Roma và quân ‘Trường Mao’(1) đánh nhau, bọn họ làm ‘ngư ông đắc lợi’. Quân Roma chỉ hướng tới mục tiêu của bọn họ, không chú ý gì đến quân Thanh.
Sau đó, triều đình Roma huy động 10 vạn quân chính quy, 50 vạn dân binh và 100 vạn tự vệ vũ trang từ Quảng Châu, Lôi Châu chia làm bốn đường tiến đánh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Phúc Kiến. Quân chính quy và dân binh sẽ công thành chiếm đất, còn tự vệ vũ trang phụ trách phòng thủ địa phương. Một đạo quân Roma khác cũng từ Muse đông tiến, công lược Vân Quý, Tứ Xuyên. Những vùng này sau nhiều năm chiến loạn đã khiến cho dân cư thưa thớt, quân lực yếu kém, không thể nào ngăn được bước tiến của quân Roma. Chẳng hạn như Vân Nam trước chiến loạn có hơn 8 triệu dân mà giờ đây chỉ còn lại 1/4 (nguyên bản lịch sử còn khoảng 3 triệu, ở đây dân Hồi có nhiều lương thực, chiến tranh khốc liệt hơn); ở Quảng Tây chỉ còn hơn 1 triệu dân; Hồ Nam là vùng trọng điểm binh tai, dân số còn lại ước 1/5, ...
Đồng thời, quân đội Eishuu cũng tây tiến, chiếm lĩnh các lãnh thổ rộng lớn ở miền tây Quan Ngoại. Các vương công quý tộc nhận sắc phong của Đại Thanh bị thanh lý, nông nô được giải phóng thành dân tự do, đưa vào các thành thị làm công nhân ở các nhà xưởng. Sau khi tiếp quản Nội – Ngoại Mông, Vương quốc Eishuu trở thành một quốc gia rộng lớn hàng đầu thế giới.
Đến cuối năm, quân Roma đã chiếm được toàn bộ khu vực phía nam Trường Giang. Ngay cả người thiện chiến như Thạch Đạt Khai cũng không chống nổi quân Roma, phải lui quân về Hoàn Bắc. Tương quân bị bao vây ở Bảo Khánh. Tòa Thượng Thẩm Hoàng Gia Roma kết án bọn Tằng Quốc Phiên tội ‘diệt chủng’ (dư luận các nước đều tán đồng, kể cả ‘Nam dân’ ở Quảng Đông; những ai có cảm tình với Mãn Thanh cũng không dám công khai bênh vực), nên quân Roma không chấp nhận cho đầu hàng, cũng không tấn công, chỉ bao vây Tương quân trong thành để bọn họ tự sinh tự diệt (chờ bọn họ chết đói).
Trong số các tướng lĩnh Mãn Thanh, chỉ có Tả Tông Đường là một tướng giỏi, lại khôn khéo, vừa đánh vừa chạy, từ Chiết Giang chạy qua Giang Tây, Hồ Nam, Tứ Xuyên, rồi vòng lên Thiểm Tây, đóng quân ở Hán Trung làm bình phong cho Tây An. Tổng đốc Thiểm Tây hoan hỉ phái người viện trợ lương thực vũ khí cho Chiết quân.
Năm 1865 đã đánh dấu sự lụi tàn của Thái Bình Thiên Quốc. Sau khi Thiên Kinh bị đồ thành, Thái Bình Thiên Quốc cũng xem như đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Phùng Vân Sơn ở Vũ Xương và Thạch Đạt Khai ở Huy Châu chỉ còn là những thế lực cát cứ địa phương.
Hậu quả của cuộc bạo loạn kéo dài mười mấy năm này vô cùng nặng nề. Những cánh đồng phì nhiêu bị bỏ hoang, những làng mạc không một bóng người. Tổn thất nhân mạng lên đến hơn 150 triệu người. Tổn thất kinh tế không sao kể siết. Đến khi quân đội Roma chiếm giữ các khu vực phía nam Trường Giang, trục xuất những người thân Mãn Thanh về Giang Bắc, thì sau cuộc thống kê dân số năm 1866, ở Mân, Chiết, Cống, Tương, Vân, Quý, Quế, Xuyên, Tô, Hoàn Nam chỉ còn hơn 61 triệu người, trong đó có một nửa sống ở Tứ Xuyên (thời này gồm cả Trùng Khánh và Xuyên Biên). Trong số này, Nam dân chiếm đến hơn 70% (Hán dân phần lớn bị bắt theo Thái Bình quân lên phía bắc, một phần khai gian thành Nam dân để khỏi bị kỳ thị).
Các vùng Mân, Chiết, Cống, Tương, Vân, Quý, Quế, Xuyên, Tô, Hoàn Nam được triều đình Roma trực tiếp thành lập tỉnh, rồi di dân từ các tỉnh cũ sang. Những thế hệ trẻ em Bayern đầu tiên sinh ra theo ‘chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình kiểu Bayern’ lúc này cũng đã đến tuổi trưởng thành (16 tuổi), sẽ được ưu tiên di dân đến Viễn Đông, phân ruộng đất mà định cư. Theo dự tính của triều đình Roma, chỉ cần đến lượt thế hệ sinh năm 1855 trưởng thành, phần lớn di cư đến Viễn Đông thì số dân gốc Bayern ở đây sẽ chiếm đa số. Chỉ cần quân đội Roma giữ ổn định khu vực này qua năm 1870 là cơ bản ổn định.
Các vùng xa xôi ở tây bắc như Tây Tạng, Ninh Hạ, Tân Cương cũng bị quân đội Roma kiểm soát không lâu sau đó, nối liền với các xứ India thuộc Roma. Do những vùng này đất rộng người thưa, nên được chuyển thành các Lãnh địa Hoàng gia, có sự quản lý đặc biệt.
Cho đến năm 1866, Đế quốc Roma đã trở thành quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới và dân số đông nhất thế giới, với diện tích 48,96 triệu km2, dân số 496,8 triệu người (trong đó có quá nửa là trẻ em). Số người Roma gốc Bayern lên đến 264,8 triệu người (trong đó có khoảng 220 triệu là trẻ em). Thời kỳ này, 16 tuổi đã được xem là tuổi trưởng thành, có thể chính thức đi làm (trong cuộc Nội chiến ở USA, binh sĩ trẻ tuổi nhất hy sinh năm 16 tuổi). Sau nhiều nỗ lực của triều đình và nhân dân Bayern, số người gốc Bayern đã chiếm đa số (53,3%). Các dân tộc thiểu số không có dân tộc nào chiếm quá 5%, thật sự là ‘thiểu số’.
Những năm cuối thập niên 1840s, Đế quốc Roma có hơn 13 triệu cặp vợ chồng ‘người Bayern’ trong độ tuổi thích hợp sinh con. Theo luật định, độ tuổi thích hợp sinh con là 18 – 40 tuổi; cặp vợ chồng nào chỉ cần có vợ hoặc chồng là người gốc Bayern sẽ được xem là cặp vợ chồng ‘người Bayern’. Do ‘chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình kiểu Bayern’, mỗi cặp vợ chồng người Bayern đều có ít nhất 10 người con, không ít người có đến 30 người con (để được phong làm Huân tước), bình quân khoảng 17,6 người con. Ngay cả Hoàng đế Adalbert cũng có đến 11 người con kia mà.
Ở vùng Sơn Đông, triều đình Roma không thành lập tỉnh, mà tổ chức thành các vương quốc. Khu vực bán đảo Sơn Đông, phía nam vịnh Lai Châu, được tổ chức thành một vương quốc, quốc danh “Königreich der Lailand” theo tiếng Bayern, hay “Ríocht na Lailand” theo tiếng Ireland, nghĩa là Vương quốc Lai. Bán đảo Sơn Đông ngày xưa là lãnh thổ của nước Lai, từ đó mới có Lai Châu, Đông Lai; sau bị Tề Linh Công diệt (nhờ đó lãnh thổ nước Tề tăng gấp đôi). Sở dĩ có thêm tên tiếng Ireland là vì triều đình Roma dự định sẽ di dân Ireland đến đấy xây dựng một vương quốc của người Ireland. Hiện tại ở Đế quốc Roma có đến gần 4 triệu người gốc Ireland, tối thiểu có thể di dân 3 triệu đến đấy.
Vương quốc Lailand có lãnh thổ đông đến Uy Hải Vệ (Uy Hải), tây đến Thanh Châu (Duy Phường), tây nam đến Nghi Châu (Lâm Nghi), bắc là Bột Hải, nam là Hoàng Hải. Kinh đô là Thanh Đảo. Tổng diện tích 60.124km2, dân số bản địa sau nhiều phen loạn lạc chỉ còn chưa đến 1 triệu người, chủ yếu là người Hán và người Hồi; sau khi di dân ước tính sẽ có 4,7 triệu dân, quy mô tương đương với Vương quốc Bayern trước đây. Người gốc Ireland vốn là đối tượng được ưu đãi ở Đế quốc Roma, trở thành dân tộc chủ thể của vương quốc, được chia ruộng đất, nhà cửa và giữ các vị trí trọng yếu trong chính quyền. Các chức vị trong triều đình vương quốc đều do người Ireland nắm giữ. Ngôi vị Quốc vương sẽ được trao cho công chúa Helena, trưởng công chúa, con thứ hai của Hoàng đế Adalbert. Vương quốc Lailand cũng sẽ là của hồi môn của công chúa khi kết hôn với Thái tử Edward.
Tin này truyền về London và người Britain rất hân hoan phấn khởi. Đến lúc này mọi người mới hiểu tại sao triều đình Roma cho di dân Ireland đến đó, hóa ra là để dễ dàng hòa nhập với chính quốc Britain. Sau đó, Nghị viện Britain đã bắt đầu những bước đi cần thiết để chuẩn bị tiếp nhận thành viên mới của “Liên Hiệp Vương quốc Đại Britain” (hiện chỉ có 4 thành viên); vị thế tương lai của Vương quốc Lailand sẽ thấp hơn Vương quốc England, tương đương với hai vương quốc Scotland và Ireland, cao hơn Thân vương quốc Wales. Đáng chủ ý là người Ireland trở thành dân tộc chủ thể của hai vương quốc, nên địa vị xã hội có tăng.
Sơn Đông rộng đến 157.126km2, phần còn lại được chia làm hai phần. Ở phía nam thành lập “Königreich der Luland”, tức Vương quốc Lỗ, kinh đô đặt ở thành Khúc Phụ, diện tích 52.126km2. Phần phía bắc lân cận bờ nam Hoàng Hà (mới đổi dòng năm 1855) thành lập “Königreich der Qiland”, tức Vương quốc Tề, kinh đô đặt ở thành Tế Nam (nguyên là thủ phủ của Sơn Đông), diện tích 44.876km2.
Sơn Đông nguyên bản là một tỉnh lớn, dân số gần 30 triệu người, nhưng do thiên tai loạn lạc (Hoàng Hà đổi dòng, Thái Bình quân và Thanh quân giao chiến, Niệp quân cướp phá, ...), dân cư ly tán, nhất là khi Thái Bình quân rút đi, đã bắt ép dân chúng đi theo, khiến cho hương thôn hoang vắng, thành trấn hoang tàn. Đến khi quân Roma chiếm đóng thì dân bản địa chỉ còn lại hơn 5 triệu người. Triều đình Roma quyết định chia đều cho cả ba vương quốc (mỗi nơi ước 1,7 triệu người). Kế hoạch di dân gồm có 3 triệu người gốc Ireland (cho Vương quốc Lailand); 1,5 triệu người gốc France, 1,5 triệu người gốc Spain và 2 triệu người gốc Italy chia đôi cho hai vương quốc còn lại. Những người gốc France, gốc Spain và gốc Italy, chủ yếu là những ai không bị xử lý sau chiến tranh nhưng cũng không thuộc đối tượng được ưu đãi, khi sang đây sẽ được xem ngang hàng với người gốc bản địa (khi đó người bản địa sẽ ít thấy bị kỳ thị vì nhiều người da trắng cũng như bọn họ).
Ngôi vị Quốc vương Qiland được trao cho Đại thân vương Francesco der Habsburg-Lothringen, anh rể của Hoàng đế Adalbert (lúc này đã 47 tuổi), từng là Công tước Modena (lãnh địa thuộc Oesterreich ở bán đảo Italy) trước khi bị sáp nhập vào Đế quốc Roma năm 1848. Ngôi vị Quốc vương Luland được trao cho Công chúa Sophie, con thứ sáu của Hoàng đế Adalbert. Hiện tại, trong số các vị Hoàng tử và Công chúa Roma, chỉ còn Công chúa Margarete (con thứ chín) và Công chúa Elisabeth (con thứ 11) là chưa có tước hiệu chính thức.
Trong khi đó ở mạn Trung Nguyên, kể từ khi Hán Vĩnh Vương Trương Lạc Hành tiếp nhận tước phong của Thái Bình Thiên Quốc, hợp tác chặt chẽ với Thạch Đạt Khai, được nhận nhiều viện trợ thì nội bộ Niệp quân bắt đầu bất ổn vì phân chia không đều. Các tướng lĩnh gốc Hoài Bắc tụ tập xung quanh Trương Lạc Hành, bị gọi mỉa mai là ‘con ruột’ để phân biệt với ‘con nuôi’ là những người gốc Dự Đông. Bọn Trương Lạc Hành hoạt động chủ yếu ở Hoài Bắc với các căn cứ Trĩ Hà Tập (Qua Dương), Tam Hà Tiêm (Dĩnh Châu), Thập Bát Phô (Mông Thành), ... gần với địa bàn của Thạch Đạt Khai để dễ dàng nhận chi viện. Các lộ Niệp quân khác dần dần ly tâm ly đức, mỗi nhóm hoạt động với một lá cờ khác nhau, việc thống nhất chỉ còn trên danh nghĩa.
Một thủ lĩnh Niệp quân ở Vĩnh Thành là Triệu Quý Ngọc đột nhiên có suy nghĩ khác thường, đích thân sang Sơn Đông gặp Trung tướng König der Gottes xin thần phục Đế quốc Roma. Nhận được viện trợ từ triều đình Roma, Triệu Quý Ngọc tổ chức lại lực lượng, dùng lương thực chiêu mộ những người nghèo đói, chẳng mấy chốc đã có 5 vạn kỵ binh và 15 vạn bộ binh. Từ Vĩnh Thành, họ Triệu xua quân sang chiếm huyện thành Thương Khâu lân cận, sau đó công chiếm toàn phủ Quy Đức, rồi tràn sang Trần Châu và Khai Phong. Sau khi chiếm được Khai Phong, Triệu Quý Ngọc xưng Tống vương, thành lập Đại Tống quốc (tên quốc tế là “Königreich der Song”), đóng đô ở Khai Phong, địa bàn chỉ gồm ba phủ Khai Phong, Trần Châu, Quy Đức và một số vùng rừng núi phụ cận, diện tích 39.108km2. Với quan điểm “nhỏ nhưng của mình còn hơn lớn nhưng của mọi người”, họ Triệu ra sức củng cố quyền thống trị, thậm chí ban hành “Niệp ngữ” (tiếng bản địa được Latinh hóa) thay thế cho chữ Hán, được Niệp dân ủng hộ nhiệt liệt, bởi vì khi có chữ viết mới, Niệp dân và các nhà nho đều trở thành mù chữ như nhau, đều phải đi học lại nên không còn cảm thấy tự ti nữa.
Các khu vực nằm giữa Trường Giang và Hoàng Hà dần dần hình thành các vương quốc lớn nhỏ khác nhau.
Vùng Hoàn Bắc của Thạch Đạt Khai trở thành Vương quốc Sở (kinh đô Thọ Xuân của nước Sở cổ nằm ở đây), đóng đô tại An Khánh (nguyên là thủ phủ của An Huy), diện tích 105.400km2, dân số ước 26 triệu người.
Địa bàn của Phùng Vân Sơn gồm Ngạc Bắc và Dự Tây trở thành Vương quốc Kinh, đóng đô tại Vũ Xương, diện tích 193.000km2, dân số ước 54 triệu người. Kinh - Sở là liên minh, quan hệ đặc biệt thân thiện.
Vùng Dự Đông trở thành địa bàn của bọn Trương Lạc Hành, thành lập Vương quốc Hán, đóng đô ở Tín Dương, diện tích 33.793km2, là một nước nhỏ, yếu hơn cả nước Tống của bọn Triệu Quý Ngọc, là chư hầu của nước Sở.
Đế quốc Đại Thanh giờ chỉ còn lại khu vực Trực Lệ (Hà Bắc), Sơn Tây, Thiểm Tây và một phần Hà Nam (Hà Bắc đạo, phần phía bắc Hoàng Hà). Vùng Cam Túc, Ninh Hạ sau một phen ‘Hồi loạn’ đã bị các quý tộc Hồi giáo họ Mã kiểm soát (‘Mã gia huynh đệ’, không phải anh em ruột), thành lập hàng loạt tiểu vương quốc Hồi giáo. Liên minh của bọn họ được gọi là “Liên minh các tiểu vương quốc Hồi Hồi (Huihui) Thống nhất”, kiểu như UEA sau này.
Các quốc gia này hình thành nên bản đồ địa chính trị khu vực trong những năm sau đó.
_________________________
(1) Thái Bình Thiên Quốc để tóc dài (kiểu như vua Quang Trung “Đánh cho để tóc dài”), không ‘cạo đầu gióc tóc’, nên bị triều đình Mãn Thanh gọi là ‘Phát Phỉ’, ‘Trường Mao’.
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile