1. Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /zero/, âm chính /i/ và âm cuối /zero/, thì có hai cách viết:
- Dùng “i” trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là:
i: i tờ
ì: ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp
ỉ: lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi
í: í a í ới, í oắng, í ới
ị: ị, béo ị
- Dùng “y” trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán Việt), ví dụ:
y: y tế, y nguyên, y phục...
ỷ: ỷ lại, Ỷ Lan...
ý: ý nghĩa, ý kiến...
2. Đối với các âm tiết có âm đệm /zero/ và âm chính /ie/ thì dùng “i”. Ví dụ: ỉa, chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /zero/ thì dùng “y”: yếm, yến, yêng, yêu...
3. Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /ie/ thì dùng “y”. Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
4. Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /zero/) thì dùng “i”. Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
5. Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng “y” trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng “i” trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...