Thiếu Lâm Tự – Thăng Trầm Qua Các Thời Đại
http://tapchivothuat.com/index.php?o...435&Itemid=420
Thiếu Lâm Tự - Cái nôi võ học Trung Hoa, nơi sản sinh ra rất nhiều danh võ nổi tiếng
Tháng 8-2004, Thiếu Lâm Tự đã tung lên mạng công bố rộng rãi những bí kíp công phu được giữ kín hàng ngàn năm nay như “Dịch cân kinh”, “Tẩy tủy kinh”, “72 tuyệt kỹ”, công phu điểm huyệt… khiến cho Thiếu Lâm Tự giống như trong tiểu thuyết võ hiệp, lại một lần nữa làm cho “náo động giang hồ”
Tu viện quân sự
Tổ đình Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (ngoài ra còn có nam Thiếu Lâm Tự ở Tuyền Châu, Phúc Kiến; bắc Thiếu Lâm Tự ở Kế Huyện, Hà Bắc) là một ngôi chùa cổ ẩn dưới Ngũ Nhũ Phong, trong bóng âm của núi Thiếu Thất thuộc huyện Đăng Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Chùa được thành lập từ năm Thái Hòa thứ 19 đời Bắc Ngụy (năm 495), trụ trì là cao tăng Ấn Độ Bạt Đà. Thiếu Lâm Tự là một cổ tự nổi tiếng, lại ở gần kinh thành của hai triều Đường, Tống, được các quý tộc công thần, văn nhân nho sĩ đến du ngoạn ngâm vịnh rất đông. Nhưng có điều lạ là trong văn chương Đường, Tống lại cực ít nhắc đến võ công Thiếu Lâm Tự, phần nhiều chỉ ca tụng phong cảnh, chỉ đến giữa đời Minh mới có một số văn nhân nói đến, như Tung du ký của Vương Sĩ Tuấn viết: “Võ tăng biểu diễn mỗi người mỗi vẻ, côn quyền vùn vụt như bay, trong có người đánh Hầu quyền, nhảy nhót múa may giống như khỉ thật”.
Xét qua lịch sử Thiếu Lâm Tự có thể thấy ngôi chùa này gắn liền với các nhân vật tôn giáo, chính trị, quân sự nổi tiếng Trung Hoa như Bồ Đề Đạt Ma, Đường vương Lý Thế Dân, Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, Thích Kế Quang, Du Đại Du, Trình Tông Du…Đó là một trong những điểm đặc biệt mà những nơi khác không có được, góp phần tạo nên danh tiếng “Thiếu Lâm Bắc Đẩu”, hình thành một “tu viện quân sự” hùng mạnh.
Hình bóng Đạt Ma và Lý Thế Dân
Tương truyền năm 527, Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma) từ Thiên Trúc theo đường biển sang Nam Hải (Quảng Châu, Quảng Đông ngày nay) hội kiến Lương Võ Đế nhưng cơ duyên không hợp nên vượt sông ngược dòng đến Thiếu Lâm Tự. Sau đó chùa dần dần mở rộng, tăng chúng ngày càng đông, danh tiếng ngày càng lớn, Thiếu Lâm Tự trở thành Tổ đình Thiền tông. Đạt Ma được tôn là Sơ tổ Thiền tông Phật giáo Trung Hoa, thiền pháp tu hành của Thiền tông gọi là “bích quán”, tức tĩnh tọa đối mặt vào vách. Do ngồi xếp bằng lâu ngày rất dễ gây mệt mỏi, Đạt Ma thấy tăng chúng thân thể yếu đuối, tinh thần uể oải mới đem “Dịch cân kinh”, “Tẩy tủy kinh”- phương pháp cường thân của Ấn Độ cổ truyền bá.
Trước đây, nhiều người cho rằng Đạt Ma đã sáng chế ra Đạt Ma kiếm, La Hán thập bát thủ, truyền dạy cho tăng chúng luyện tập. Do đó mới nói Thiếu Lâm quyền là do Đạt Ma sáng lập ra, “Thiên hạ công phu xuất Thiếu Lâm”. Kỳ thực vào thời Nam Bắc triều, tỉnh Hà Nam là nơi chiến loạn, binh lửa triền miên, vì để bảo vệ tài sản của chùa, Thiếu Lâm Tự ngay từ khi xây dựng đã lập đội tăng binh vũ trang, đương thời nhiều tự viện, miếu đường các nơi khác cũng đều như thế cả. Tăng chúng trong Thiếu Lâm Tự từng đánh đuổi một băng thổ phỉ đến cướp tự khí trong chùa, sau bị “bọn chúng lén phóng hỏa đốt tháp viện, phòng ốc bên trong đều thành tro tàn” (bia chùa Thiếu Lâm). Những khảo sát gần đây cho thấy những chiêu thức trong Đạt Ma kiếm, La Hán thập bát thủ có phong cách tương đồng với chiêu thức quyền kiếm Trung Hoa vốn đã định hình từ đời Hán, Tam Quốc. Cuối đời Tùy, quần hùng cát cứ, Thiếu Lâm Tự ở vào giữa khu giao chiến giữa Đường vương Lý Uyên và Trịnh vương Vương Thế Sung. Vương Thế Sung có ý muốn chiếm Thiếu Lâm Tự, vì thế đội tăng binh vũ trang trong chùa được tăng cường tối đa để bảo vệ chùa. Năm Võ Đức thứ 3(620), con Lý Uyên là Tần vương Lý Thế Dân đem 4 vạn tinh binh đông chinh đánh bại đại tướng Đơn Hùng Tín, trực chỉ Hàm Dương. Lúc này Thiếu Lâm Tự nắm bắt thời cơ, trụ trì Chí Tháo cùng các võ tăng Đàm Tông, Huệ Dương đưa tăng binh theo hỗ trợ Đường vương, lập nhiều công lớn, nổi tiếng nhất là trận “13 côn tăng cứu Đường vương”, bắt sống cháu Vương Thế Sung là Vương Nhân Tắc, bức hàng Vương Thế Sung, được Lý Thế Dân ban thưởng rất hậu. Nhờ đó sau khi triều Đường thống nhất thiên hạ bèn ban cho Thiếu Lâm Tự “40 khoảnh đất, 1 bộ trục nước, nhận nhiều ân sủng, lập chốn tu hành từ đời này sang đời khác”, phong Đàm Tông làm Đại tướng quân.
Từ đó có thể thấy, Thiếu Lâm Tự vang danh khắp nơi, khởi đầu là do các võ tăng chọn được thời cơ chính trị thích hợp, được giai cấp thống trị che chở. Theo “Tung Nhạc Thiếu Lâm Tự bi” thì Chí Tháo đại sư suất lĩnh tăng chúng đại phá quân Vương Thế Sung, bắt sống Vương Ích Tắc, chắc chắn con số võ tăng tham gia chiến trận không phải ít, sau này cho là “13 côn tăng cứu Đường vương” sợ rằng khó tránh khỏi hư cấu.
Thiếu Lâm Tự được triều Đường tin tưởng và che chở, tiếp tục duy trì đặc quyền huấn luyện tăng binh vũ trang. Vào cuối đời Đường, các phiên trấn có tình trạng cát cứ. Sách “Tư trị thông giám” của Tư Mã Quang ghi rằng: Vào năm Nguyên Hòa thứ 10 (815), võ tăng Thiếu Lâm là Viên Tịnh liên kết với Thanh Châu tiết độ sứ Lý Đạo mưu trừng phạt tham quan, định giết tể tướng. Sau bị bộ tướng là Dương Tiến, Dương Tái Hưng làm phản, đưa quân vào Tung Sơn bắt Viên Tịnh, sai đại lực sĩ dùng dùi sắt đánh gãy chân hòa thượng nhưng cố sức mà đánh không gãy. Viên Tịnh lúc ấy đã 80 tuổi, quát lớn “Đồ chuột, bẻ chân không xong sao dám gọi là kẻ mạnh?”. Trước khi bị hành hình, hòa thượng điềm nhiên nói: “Lỡ việc của ta, không để cho máu nhuộm Lạc Thành”.
Truyền thuyết Triệu Khuông Dẫn
Khai quốc hoàng đế Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn lấy võ công định thiên hạ, từng có thuyết rằng “Ngũ xích côn bảng đẳng thân tiêm, Đả biến thiên hạ vô địch thủ” (Thanh côn 5 thước cao bằng người, đánh khắp thiên hạ không có địch thủ). Theo “Quyền kinh quyền pháp bị yếu” thì Triệu Khuông Dẫn có được bản lĩnh ấy là nhờ học từ Thiếu Lâm Ngoại gia quyền. “Bắc quyền hối biên” viết rằng: “Phái Thiếu Lâm ngoại gia thì Triệu Khuông Dẫn là tổ khai sơn vậy. Khuông Dẫn có tuyệt kỹ, không truyền ra ngoài, khi say mới nói cho quần thần biết sự ảo diệu của tuyệt kỹ ấy. Sau hối hận nhưng không muốn nuốt lời, khi qua đời mới giấu sách viết tuyệt kỹ ấy trong thần đàn Thiếu Lâm Tự. Tuyệt kỹ ấy lấy ngạnh công làm thượng thừa”. “Tuyệt kỹ quyền pháp ấy xuất phát từ Thiếu Lâm Tự, từ khi Tống Thái Tổ học được mới vang danh bốn bể” (Quyền kinh quyền pháp bị yếu). Hình thức Sáo lộ (bài quyền) được định hình vào đời Tống mà khởi thủy là “Tống Thái Tổ tam thập nhị thế Trường quyền” (32 thế Trường quyền của Tống Thái Tổ) vì thế lại có thuyết nói quyền pháp Thiếu Lâm Tự khởi từ Tống Thái Tổ.
Những thuyết trên dù có căn cứ hay không cũng nói lên một điều là võ công Thiếu Lâm vang danh thiên hạ là diễn hóa từ võ nghệ thực chiến trong chiến trận mà thành.
Liên tiếp các triều đại sau, Thiếu Lâm Tự vẫn duy trì đặc quyền tăng binh vũ trang của mình, nhờ đó quyền thuật Thiếu Lâm không ngừng được hoàn thiện đến mức thượng thừa, ảnh hưởng cực lớn, được tôn xưng là “Thiếu Lâm Bắc đẩu”.
Đầu đời Tống, phương trượng Thiếu Lâm Tự là Phúc Cư đại hòa thượng đã ba lần mời 18 vị võ lâm cao thủ của các môn phái về hội tại Thiếu Lâm Tự để giao lưu võ công. Năm Kiền Đức thứ 1 (936), Phúc Cư chỉ thị cho các đệ tử Linh Trí, Linh Mẫn, Linh Khâu kết hợp kinh nghiệm của Thiếu Lâm với công phu của 18 lưu phái võ lâm…
Dung hợp sở trường các lưu phái dân gian, nổi tiếng về côn pháp
Họ làm thành bộ “Thiếu Lâm quyền phổ” gồm 48 cuốn, trong đó quyền thuật có 173 bài, binh khí 133 bài, kỳ công mật lục (gồm điểm huyệt, cầm nã, ngự cốt đồ thủ) có 21 thiên, phụ đồ 3.895 bức.
Đến đời Kim, Giác Viễn hòa thượng cùng các cao thủ Bạch Ngọc Phong (pháp danh Thu Nguyệt) và cha con Lý Tẩu diễn luyện, nghiên cứu võ công Thiếu Lâm, viết ra bộ Ngũ quyền tịnh yếu”(gồm long, hổ, báo, xà, hạc quyền kết hợp thủ, túc, thân, nhãn, bộ pháp). Giác Viễn phát triển La Hán thập bát thủ thành La Hán thất thập nhị thủ (72 thế) rồi tăng thành La Hán nhất bách thất thập tam thủ (173 thế). Lại điều chỉnh các bài bản, chiêu thức của Ngũ hợp quyền, Hắc hổ quyền, Hành long kiếm…
Đến đời Minh, Thiếu Lâm Tự lấy côn pháp làm bửu bối trấn sơn, vang danh bốn bể. Danh tướng Thích Kế Quang trong tác phẩm “Kỷ hiệu tân thư” nổi tiếng nói rằng “Côn pháp của Thiếu Lâm Tự nổi tiếng đời nay”. “Võ bị chí” của Mao Nguyên Nghi chép “Trăm nghề võ khởi từ côn, côn khởi từ Thiếu Lâm”. Võ tướng đời Minh Trình Tông Du từng học côn pháp tại Thiếu Lâm Tự 10 năm, viết nên “Thiếu Lâm côn pháp xiển tông”, trong đó có nói: Thiếu Lâm côn gọi là Dạ xoa, là thánh truyền của Khẩn Na La vương” Khẩn Na La là hòa thượng Thiếu Lâm Tự cuối đời Nguyên đầu đời Minh, rất giỏi về côn pháp, được xưng là “Thiếu Lâm côn pháp chi tổ”.
Diệt bạo trừ gian
Đời Minh, nhiều tự viện lấy võ công vang danh, theo “Minh sử” thì “Tăng binh có Thiếu Lâm, Phục Ngưu, Ngũ Đài”, nhưng chỉ có Thiếu Lâm Tự là nổi tiếng nhất. Nguyên nhân: ngoài việc Thiếu Lâm côn pháp đã hình thành lưu phái riêng còn có nhân tố chính trị. Sử còn chép công lao của các võ tăng Thiếu Lâm Tự Huệ Uy (Thái Triệu), Huệ Lâm (Trịnh Khả) thống lĩnh quân triều đình nhiều phen đại phá quân Kim.
Võ tăng Thiếu Lâm thường được xem là chủ công trong các cuộc chiến đấu chống cướp biển, bảo vệ vùng duyên hải Giang-Triết, bảo vệ cương thổ. Theo “Giang Nam kinh lược”, các võ tăng Thiếu Lâm Tự là Thiên Chân, Thiên Trì suất lĩnh hơn 40 tăng binh, nhiều lần giao chiến, đại phá cướp biển Nhật (Oa khấu). Các địa phương trong nước chiêu mộ hương binh đến Tùng Giang chống cướp Nhật, trong đó ‘tăng binh Thiếu Lâm Tự là kiêu dũng nhất, chém hơn 80 tên cướp ở Yên Kinh”… Danh nho Cố Viêm Võ trong “Nhật tri lục-Thiếu Lâm tăng binh” tán thán: “Khoảng năm Gia Tĩnh, Thiếu Lâm võ tăng là Nguyệt Không nhận hịch của đô đốc Vạn Biểu đánh bọn giặc cướp ở Tùng Giang, đồ đệ hơn 30 người, cầm gậy sắt tung hoành, giết giặc rất nhiều. Sau bị hãm giữa trùng vây, chiến đấu cả ngày, đều hy sinh. Than ôi! có thể cầm vũ khí bảo vệ giang san, hùng khí động sơn hà”.
Mất chỗ dựa chính trị, truyền võ khắp dân gian
Đời Thanh, võ công Thiếu Lâm phát triển cực thịnh. “Thiếu Lâm quyền thuật bí quyết” viết: “Võ công Thiếu Lâm từ cuối đời Minh đến đời Thuận Trị, Khang Hy nhà Thanh là giai đoạn đạt đến tối tinh”. Nhưng đến đời các hoàng đế Ung Chính, Càn Long vì lo ngại hội kín nên tìm mọi cách triệt thoái đặc quyền vũ trang của Thiếu Lâm Tự, không cho tụ tập luyện võ. Nhiều di thần võ tướng nhà Minh ẩn nhẫn nơi sơn dã, đợi thời cơ “phản Thanh phục Minh”, trong đó có nhiều ẩn sĩ liên hệ mật thiết với Thiếu Lâm Tự. Như thế, việc phát triển vượt bậc của võ công Thiếu Lâm đời Thanh gắn liền với ý thức dân tộc. Điều này hoàn toàn tương đồng với tôn chỉ của các bang hội bí mật đương thời: Lấy tôn giáo để tổ chức quần chúng, dùng luyện võ để võ trang lực lượng. Có nhiều hội kín lợi dụng danh nghĩa, võ công Thiếu Lâm Tự và tinh thần yêu nước để hiệu triệu quần chúng, như Hồng quyền, Thiên địa hội, Hồng thương hội, Đại đao hội…Do tiến hành phổ biến bí mật trong quần chúng, mạnh ai nấy nên nhiều lưu phái ra đời, bài bản sai lệch, rất khó phân biệt đâu là Thiếu Lâm chính tông.
Chính quyền triều Thanh rất để tâm đến việc các tổ chức bí mật mượn danh Thiếu Lâm Tự để “phản Thanh phục Minh”. Vào đời Thuận Trị, trụ trì Thiếu Lâm Tự từng bị điều người từ Bắc Kinh đến thay, lại truyền chỉ cấm luyện võ, cấm tàng trữ binh khí. Các võ tăng phải dùng hình thức hạ sơn vân du để truyền dạy võ công trong dân gian. Đến đời Ung Chính thì hiệu lệnh càng nghiêm. Theo “Thiếu Lâm Tự chí” thì Ung Chính đã tiến hành quản lý Thiếu Lâm Tự gay gắt. Khi Thiếu Lâm Tự tu sửa phòng ốc trong chùa, phương án vẽ thành họa đồ do Tổng đốc Hà Nam là Vương Sĩ Tuấn trực tiếp trình lên cho hoàng đế xem xét, Ung Chính phê rằng: “Trẫm thấy 25 phòng ngoài của Thiếu Lâm Tự cách quá xa chùa, theo lối “linh tinh tán ngoại”(sao lẻ tách ngoài) mà không ở trong khuôn viên chùa. Xưa nay có tăng nhân ở phòng xa chùa, không giữ thanh quy, vọng hành sinh sự, làm bại hoại cửa Thích. Nay Thiếu Lâm Tự dù có tu sửa cũng không nên làm phòng tản lạc ngoài chùa, khó bề kiểm soát”, đủ thấy chính quyền đương thời rất để ý đến Thiếu Lâm Tự.
Do triều đình kiểm soát gắt gao, nghiêm cấm luyện võ nên các võ tăng Thiếu Lâm Tự áp dụng nhiều biện pháp kín đáo để truyền bá võ công, như nói thác là luyện tập thuật đạo dẫn, hoặc mượn cớ vân du giáo hóa chúng sinh để đi khắp nơi, truyền thụ võ nghệ ở bên ngoài để tránh ảnh hưởng đến bổn tự. Các cao thủ võ lâm nổi tiếng đời Thanh được ghi vào “Thanh sử” như đại hiệp Cam Phượng Trì, Bạch Thái Quan, Lã Tứ Nương, Hồng Hy Quan, Mã hòa thượng Miễu Tăng… đều xuất thân từ Thiếu Lâm Tự hoặc được truyền thụ võ công Thiếu Lâm. Do đó đương thời lưu hành câu nói “Thiên hạ võ công xuất Thiếu Lâm/Thiếu Lâm cao thủ tại tứ phương”. Điều này nói rõ đương thời Thiếu lâm Tự dưới sự áp bức chính trị của triều Thanh đã rời tự viện, truyền bá võ công khắp nơi.
Thiếu Lâm công phu có một hệ thống quyền thuật rất phong phú, đa dạng, chỉ riêng số bài quyền được ghi chép trong quyền phổ đã lên đến 708 bài, trong đó số bài quyền và binh khí chiếm 552, ngoài ra còn có công pháp thất thập nhị huyền công(72 tuyệt kỹ), cầm nã, giao đấu, trật đả, điểm huyệt, khí công 156 bài. Nhiều người yêu thích võ thuật trên thế giới đã quen với các tên Dịch cân kinh, Kim chung trạo, Thiết bố sam, Đại lực kim cang thoái, Nhị chỉ thiền, Thiếu Lâm côn, Đạt Ma kiếm, Thiếu Lâm cầm nã thủ…
TTV Translate - Ứng dụng convert truyện trên mobile
xem thêm tại:
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...%E2%80%9D.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...%A0kungfu.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...eu-Lam-tu.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...-giao-dau.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...-dong-mon.html
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/P...-cao-tang.html