Khi dịch truyện tiếng Hoa, bạn dịch sẽ gặp những chử, câu có liên hệ đến những lý thuyết huyền học. Không quen sẽ khó dịch. Mình tóm tắc lý thuyết - không phân tích- để các bạn cảm được, dịch dể hơn. Lưu ý bạn, đây không phải là bài nghiên cứu mà là cách hiểu của người dịch, khồng nhất thiết phải giông nhau. Lý thuyết âm dương du nhập từ Ai Cập, qua Ấn Độ, qua người Hoa, rồi qua người Việt. mổi quốc gia, văn hóa, thời gian có thể sẽ không hoàn toàn giống nhau. Vì vậy, mình trình bày ở đây Huyền học khái niệm theo cách nhin của người Hoa.
- lúc đầu nguyên thủy không có gì hết thì là Vô Nguyên, hay Vô Cực. Không thể phân biệt Âm Dương.
- Phần nặng chìm xuống, phần nhẹ nổi lên sinh ra Lưởng Nghi. Âm dương riêng biệt, đối kháng nhau. Về sau khi thuyết Bát quái thịnh hành, Lưỡng Nghi còn có một tên khác là Càn Khôn -Quẻ Càn thuần Dương, quẻ Khôn thuần Âm.
- Phần nặng nhẹ giao hóan, sinh ra Thái Cực. Âm cực sinh Dương, Dương cực sinh Âm. Sự giao hóan cũa Âm Dương đi theo vòng tròn. Âm thịnh dương tiêu, Âm tiêu Dương trưởng. Vòng tròn Thái Cực là căn bản cũa Đạo Gia. Về sau, các nhà huyển học khai triển ra những lý thuyết khác nhưng không ra ngòai Âm Dương, Thái Cực. Đồ hình Thái Cực là một vòng tròn, chia làm hai bằng chữ S viết ngược. Màu đen trắng đại diện cho Âm Dương. Trong màu Đen có một điểm trắng và ngược lại.
- Với lý thuyết Âm Dương, Thái Cực, cách dùng trong thực tế đã khá hòan chĩnh. (1)
- Chia hình Thái cực ra làm 4 phần là Tứ Tượng. Mổi phần tùy theo chiếm phần nhiều hơn của yếu tố âm dương là Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, thiếu Dương. Không có phần nào là 100% thuần Dương hay Âm. vì theo lý luận là "cô dương tất phù, cô âm tất diệt'.
- Chia đồ hình Tứ Tượng ra làm tám phần sẽ ra căn bản cũa Bát Quái. Mổi quẽ tùy theo vị trí chiếm phần nhiều hơn của yếu tố âm dương sẻ có nhiều hoặc ít vạch liền -hào dương- hay vạch đức - hào âm-. Tên của tám quẻ gốc là Càn, khảm, chấn, cấn, tốn, ly, khôn, đòai.
- Vô cực sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng sinh Bát Quái; Bát Quái chia nhỏ ra làm tám phần nửa sẽ ra 64 quẻ - biến hóa vô cùng!-
- Thiên tiên bát quái là Càn, khảm, cấn, chấn, tốn, ly, khôn, đòai.
- Hậu Thiên bát quái là Càn, đòai, ly, chấn, tốn, khãm, cấn, khôn.
- Hà Đồ là một cách khai triển của Thiên Tiên Bát Quái,
- Lạc Thư là cách khai triển của Hậu Thiên bát quái. Lạc Thư có chín cung. gồm ba hàng số, 4 9 2, 3 5 7, 8 1 6. Cách chuyển vận trong Cửu Cung gọi là Lượng thiên Xích. Đi theo chiều nhỏ đến lớn gọi là thuận, lớn qua nhỏ là nghịch. Thuận nghịch Cửu Cung bộ trong kiếm hiệp là cách di chuyển bứớc chân theo hình Lạc Thư. bắt đầu từ trung cung là số 5, bước qua số 6, 7...nghịch chiều là từ 5, qua 4, 3 ....Mổi ô trong Lạc Thư trừ trung cung, dều có thể dùng một quẻ trong bát quái. số 9 là quẻ Ly, số 1 là quẻ Khảm. ví dụ nói là "bước qua Khảm vị, hồi trung cung" là hai bước qua ô số 1 và 5.
- Nếu lấy phần ở giửa cũa Tứ Tượng, làm một phần riêng, âm dương trung hòa sẽ ra yếu tố Ngũ Hành. Kim, mộc, thủy, hỏa, Thổ. Hành thổ ở giửa, Hỏa, thủy trên dưới; Kim, Mộc hai bên. Yếu tố sinh khắc cũa Ngũ Hành là một cách khai triển khác cũa âm dương tương sinh tương khắc. Lý thuyết Ngũ Hành có thể khai thác, dung hợp đươc nhiều yếu tố như màu sắc-bạch Kim, thanh Mộc, hắc Thủy, xích hỏa, kim mộc; mùi vị, âm thanh- cung, thương, giốc, chủy, vủ-, thiên nhiên- phong, vân, thủy, hỏa,...- mà lý thuyết Bát Quái, Thái Cực chưa hòan tòan dung hợp được. Lưởng Nghi, Bát Quái, Ngủ Hành đi song song trong cách ứng dụng, bổ sung cho nhau nhưng không hề tương phản vì tất cả đều từ căn bản âm dương mà ra.
1- Mình sẽ trình bày cách áp dụng những lý thuyết này trong phần áp dụng cũa thiên, địa, nhân. là thiên văn, dịa ký và kinh lạc, y học trong các bài khác. Bạn sẽ cần kiến thức về lý thuyết Kinh lạc, lục phủ, ngũ tạng, phương dươc... nếu muốn đi xa trong ngành dịch thuật.