2/ WITCH - ĐẠO GIÁO PHÙ THỦY:
2.1. GIỚI THIỆU VÀ LỊCH SỬ:
Một thời gian sau khi được tạo ra, đạo giáo bắt đầu tiến đến hấp thu những yếu tố chung quanh nó (dựa trên lý luận căn bản: thuận theo tự nhiên). Để rồi, một nhánh tôn giáo mới ra đời từ đạo giáo, mang tên là Đạo Giáo Phù Thủy. Từ chỗ sống khép kín, chủ trương xa lánh người đời để chuyên tâm học đạo tu tiên, đạt đến trường sinh bất tử, những thành viên ĐGPT bắt đầu chuyển sang dấn sâu vào thế tục. Họ hấp thụ, thu gom những phép thuật xa xưa có sẵn trong nhân dân, tập hợp lại thành những bộ sách giáo lý cho tôn giáo mới của mình. Một trong những bộ sách đầu tiên dạng này được hoàn thành thời Hán Thuận Đế ( 122 – 144) bởi Vu Cát, bao gồm 170 quyển mang tên Thái Bình Tâm Lĩnh Kinh ( có 1 cái tên được nhiều người biết hơn là Thái Bình Yêu Thuật). Bộ sách này bàn luận từ chuyện chính trị, hưng phế cho đến thờ cúng, ngũ hành, bói toán, âm dương, phép an thiên hạ, bùa chú, phép thuật,… là tác phẩm kinh điển của ĐGPT nói riêng và Đạo Giáo nói chung về sau. Bởi việc đề cập đến chính trị, nhà Hán đã tịch thu bộ sách. Nhưng nó vẫn tiếp tục tồn tại trong nhân gian, và về sau được hoàn thiện bởi Trương Giác, một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc, giáo chủ Thái Bình Đạo, người đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Khăn Vàng. Trong thời gian sống và truyền đạo, Trương Giác đã đặt ra những điều lệ về phép thuật trong Đạo Giáo, như mặc áo vàng, sử dụng cửu thiết trượng ( gậy phép bằng sắt, khắc 9 nấc, tượng trưng cho 9 tầng trời), sử dụng bùa chú, lập đàn cầu phép,… Những điều lệ này trở thành quy tắc bắt buộc, sống mãi trong tôn giáo này cho đến tận ngày nay.
Vu Cát xuất hiện trong Hỏa Phụng Liêu Nguyên.
Trương Giác, người hoàn thiện hệ thống phép thuật cho Đạo Giáo Phù Thủy Trung Quốc.
Khác biệt rất xa với Đạo Giáo Thần Tiên, ĐGPT luôn luôn can thiệp vào những chuyện chính trị quốc gia. Suốt 2000 năm cho đến hiện tại, sự tồn tại của họ gắn liền với những hoạt động sử dụng phép thuật để gây thanh thế, tụ tập lực lượng chống đối các chính quyền. Trung Quốc có Khởi Nghĩa Khăn Vàng đời Hán, Minh Giáo đời Nguyên thì Việt Nam có Lý Giác, A Nùng đời Lý, Nguyễn Bổ thời Trần, TRần Đức Huy thời Hồ,... chính quyền thành lập bởi Đạo Giáo Phù Thủy nổi tiếng nhất là Hán Trung của Trương LỖ thời Tam Quốc. Riêng chính quyền Việt Nam từ thời Đinh đến hết thời Trần thậm chí chính thức công nhận cả hai trường phái, khi họ đặt chức Tăng quan cho phái Thần Tiên, và Đạo quan cho phái Phù Thủy. Đỉnh cao cuối cùng của ĐGPT ở Việt Nam là khoảng cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi người Pháp chiếm đóng cả nước. Lúc đó, vô số các phù thủy, pháp sư đã sử dụng phép thuật và mê tín như một con bài để quy tụ dân chúng nổi dậy đánh Pháp, ví dụ như Cử Đa, Mạc Đĩnh Phúc, Trần Cao Vân,… với loại phép thuật cũ rích: súng bắn không chết. Đương nhiên họ hầu hết là phù thủy rởm và đều thất bại nhanh chóng.
2.2. TÍNH CHẤT:
Như đã nói, ĐGPT thực chất là trường phái đạo giáo đã hấp thu các yếu tố phép thuật trong dân gian. Nói cách khác, họ thực chất chỉ là những miko, shaman, thầy mo, phù thủy,… nay mang cái mác mới là con em Đạo Giáo đâu đâu bên Trung Quốc. Bình mới rượu cũ, nên tôi mạn phép gọi những thành viên trong trường phái này bằng một cái tên gần gũi với bản chất của họ hơn: “ phù thủy”. Phép thuật của họ chủ yếu là thu thập từ dân gian nhiều hơn là từ trong giáo phái ( những bộ sách về phép thuật của giáo phái thực ra chỉ là cóp nhặt từ dân gian rồi chép vào, hệ thống lại.). Ở Việt Nam, tính chất này thể hiện rõ nhất, khi loại phép thuật căn bản của ĐGPT là thuật Đồng Cốt.
Trong khi chủ trương của Đạo Giáo Thần Tiên là xa lánh xã hội, Đạo Giáo Phù Thủy rất tích cực truyền đạo và kích động những cuộc nổi dậy chống chính quyền. Trong khi Đạo Giáo Thần Tiên xác định cấp bậc của mình qua tuổi thọ, tri thức, Đạo Giáo Phù Thủy khẳng định mình qua số ma quỷ mà họ đã tiêu diệt, hay những phép thần thông biến hóa mà họ luôn luôn phô diễn trong dân gian. Tóm lại, Thần Tiên càng ẩn dật bao nhiêu thì Phù Thủy càng sôi động bấy nhiêu, Thần Tiên có chiều hướng thiên về phòng thủ trong khi Đạo Giáo luôn tấn công tích cực. Tác phong và loại phép thuật sử dụng chính là thứ khiến ta phân biệt 2 trường phái này với nhau. Không ngạc nhiên khi những người cửa Phật như Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, vì những trò phô diễn nhổ đinh bằng tay trong dân gian, trừ yêu diệt ma, nguyền rủa chết người mà được đẩy thẳng sang làm lãnh đạo của ĐGPT. Ngay cả vũ khí sử dụng cũng khác, ít nhất ở Việt Nam: trong khi Thần Tiên chỉ sử dụng gậy phép, các Phù Thủy dùng từ gậy, gươm ( Trần Hưng Đạo), búa ( Thần Độc Cước), chùy ( Nguyễn Minh Không),… thậm chí như Liễu Hạnh chỉ có hai bàn tay không. Một số người như thần Độc Cước thậm chí mặc cả giáp, làm cho họ ngày càng gần với một chiến binh sử dụng phép thuật hơn là một phù thủy đơn thuần.
Một đặc điểm nữa đặc trưng của ĐGPT là thờ/ cầu xin sự hỗ trợ từ các vị thần, chủ yếu là những vị đã được kết nạp vào hệ thống phép thuật Đạo Giáo. Ngoài những loại ma quỷ, quái vật,… ( nếu có) vặt vãng mà ta không thể biết được, ở Việt Nam, bên cạnh những Ngọc Hoàng, Thái Thượng Lão Quân, Quang Vũ, thần Trấn Vũ từ Trung Quốc, ĐGPT còn du nhập thêm những vị thần bảo hộ mới, bao gồm:
- Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần ( Trần Hưng Đạo), 2 người quan trọng nhất. Trước đó thì được bảo hộ bởi 2 nhà sư Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không.
- Thần Tam Bành ( Tam Danh Đại Tướng Âm Binh)
- Thần Độc Cước
- Huyền Đan
- Ông Năm Dinh ( Ngũ Dinh Quan Lớn)
- Quan lớn Tuần Tranh
2.3. PHÉP THUẬT – KHẢ NĂNG:
Khác với Đạo Giáo Thần Tiên, ta biết được rất nhiều loại phép thuật từ Đạo Giáo Phù Thủy. Dưới đây là những loại phép căn bản nhất mà ai cũng phải có:
- Vũ khí: gậy/ kiếm/ấn tín/ đao/búa/chùy/….
- Đồng Cốt: lên đồng, giao tiếp với các linh hồn.
- Đầu Thai chuyển kiếp:liên tục tái sinh bằng hình thức đầu thai.
- Biến Hình:biến hóa thành nhiều loại sinh vật, từ thỏ, chuột cho đến cọp,voi.
- Sử dụng bùa chú, ngải, máu người chết,…:để nguyền rủa kẻ địch hay để bảo vệ bản thân, trị bệnh.
- phá giải các phép nguyền rủa của kẻ khác.
- thờ phụng và nhận sự hỗ trợ từ các vị thần trong Đạo Giáo.
2.4. CÁC VỊ THẦN ĐẠO GIÁO VIỆT NAM:
- Thánh Mẫu Liễu Hạnh:
Một trong Tứ Bất Tử ( sau khi đã sút Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không khỏi ghế này). Tên gốc của cô là Giáng Tiên, tương truyền là con gái của Ngọc Hoàng- đương nhiên là rất rất rất rất đẹp - do phạm tội mà bị đày xuống trần gian. Từ đó, cô ta…ghiền trần thế luôn nên ngay cả khi hết hạn đi đày cũng không muốn trở về. Liễu Hạnh nhiều lần đầu thai chuyển kiếp, tái sinh vào hết người phụ nữ này đến người phụ nữ khác, sinh con cái như người bình thường. Đôi khi cô hứng chí hiện lên ngâm thơ tán dóc với các nhà Nho. Khi khác, cô lại đi theo đoàn quân đi đánh giặc. Hành động nổi tiếng nhất của cô là lần cho hoàng tử con vua Lê lên giường với một con…khỉ đột, vì tội dám giở trò mờ ám. Lê Huyền Tông từng cho cô là tà thần nên đã ra lệnh đốt đền thờ Liễu Hạnh. Tóm lại, Liễu Hạnh là một người phụ nữ nhưng là rất nhiều người phụ nữ. Nói theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh thì Liễu Hạnh là " 1 cô gái, 1 nàng tiên, 1 nhà thơ, 1 người vợ, 1 nữ tướng.".
- Đức Thánh Trần Trần Hưng Đạo: trong khi các bà Đồng thờ Liễu Hạnh thì các ông đồng có tục thờ vị anh hùng dân tộc Trần Quốc Tuấn ( nên có câu " Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ" là vì thế.). Truyền thuyết rằng Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn có tài phép rất cao, từng trừ được yêu ma. Ông từng chém 1 yêu tinh tên Phạm Nhan. Phạm Nhan tên gốc là Nguyễn Bá Linh, cha người Nguyên mẹ người Việt, thi đỗ tiến sĩ ở Trung Quốc. Phạm Nhan cũng là 1 wizard, nhưng rồi bị nhà Nguyên tử hình vì tội ... với cung nữ, nhưng hồn ma vẫn còn vất vưởng xin theo quân Nguyên đi đánh Đại Việt để lập công chuộc tội. Tương truyền anh yêu quái này bị tóm cùng lúc với Ô Mã Nhi, rồi bị lôi đi tử hình. Do là yêu quái nên chỉ có Trần Hưng Đạo mới giết được. Trước khi bị chém, anh Nhan đòi ăn, Hưng Đạo Vương nổi nóng lỡ lời: " cho ngươi ăn sản huyết bà đẻ.". Từ đó hồn anh tiếp tục lại vấn vưởng chực mò đến ám những phụ nữ mới sinh. Dân ta do vậy có lệ đến cầu Đức Thánh Trần bảo hộ cho mẹ tròn con vuông luôn từ đó. Các phù thủy thờ Trần Quốc Tuấn thường sử dụng kiếm và ấn ( ấn làm từ vỏ và thân một trong những loại cây: cây gỗ đào, cây dương liễu, cây núc nác - tức cây Hoàng Bá) và kêu gọi sự giúp đỡ từ Trần Hưng Đạo cùng các tướng của ông như Yết Kiêu, Dã Tượng,…
- Thần Tam Bành ( Tam Danh Đại Tướng Âm Binh): quê quán ở Vụ Bản, một làng rèn nổi tiếng, thờ Cao Lỗ - người chế tạo nỏ thần. Ông sinh thời Lê Thánh Tông. Tương truyền ông sinh ra với... 3 cái sừng bọc sắt trên đầu nên bị mẹ sợ quá đem...chôn sống. Không ngờ ông chết rồi thành tinh luôn, trở thành linh thiêng, lập công đánh giặc nên sau được vua ban xưng hiệu Tam Danh Đại Tướng Âm Binh. Từ đó dân chúng mới thờ thêm thần Tam Danh, hay Tam Bành. Sau đây là 1 phiên bản thông dụng và chi tiết nhất về ông:
- Thần Độc Cước ( Độc Cước Sơn Triều): có nhiều truyền thuyết về sự khai sinh của thần này:
Đền thờ thần Độc Cước ở Sầm Sơn.
- Huyền Đan ( Huyền = đen, sâu; Đan = mô đất cao -- > mô đất cao để tế lễ): sống thời Đinh Bộ Lĩnh, cưỡi cọp đen, có kiếm thần, dân thần, đũa bói toán.Thần tinh thông mọi quyền năng hô phong hóa vũ, không chuyện gì không làm được. Ngọc Hoàng xếp ông vào 1 trong 12 thiên tướng. Nhiều người cho rằng thần này gốc là một tướng lĩnh Trung Quốc.
- Quan Lớn Tuần Tranh: 1 ông quan sống thời Hùng Vương 18 ( nghe qua là đủ biết ông này không hề có thực), quê ở Hải Dương, có công lao lớn. Về sau ông lấy vợ là một cô mà ông không biết là đã có chồng là quan huyện trong vùng. Ông quan huyện kiện lên vua, tố cáo ông quyến rũ vợ mình, làm ông bị đày lên tận Lạng Sơn, rồi sau đó nhảy xuống sông Kì Cùng tự sát. Ở quê nhà, ông tái sinh thành một cặp rắn thần. Rắn nở từ 2 cái trứng rồi được 2 ông bà già ở huyện Tứ Kỳ ( Hải Hưng) nuôi nấng. Lớn lên, đôi rắn rất hiền, chỉ tội... thích ăn gà hàng xóm. Quan huyện biết chuyện bắt 2 ông bà trị tội. 2 ông bà phải vứt rắn xuống sông Tranh nên từ đó nước ở đây xoáy mạnh và rất linh thiêng. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống giặc Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân. Cặp rắn này thường được thờ dưới dạng 2 con rắn bằng giấy quấn trên xà nhà.
Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi nhưng phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất: đầu tiên là Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích) và Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày). Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.
- Ông Năm Dinh ( Ngũ Dinh Quan Lớn): tín ngưỡng thờ cọp để đuổi tà. Người ta thường vẽ những bức tranh về năm con hổ, với vị trí phỏng theo Ngũ Phương, màu sắc phỏng theo Ngũ Hành để thờ cúng, mong trị được tà ma.